Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tài chính - Ngân hàng Bảo hiểm Báo cáo chuyên đề bảo hiểm bh31 phần 3...

Tài liệu Báo cáo chuyên đề bảo hiểm bh31 phần 3

.PDF
20
212
141

Mô tả:

tạo nâng cao năng lực cán bộ, từng bước ứng dụng công nghệ tin học vào việc quản lý thu BHXH. Bên cạnh đó, công tác thu BHXH vẫn còn một số tồn đọng sau: - Tình hình nợ tiền BHXH ở các đơn vị tham gia BHXH còn khá lớn làm ảnh hưởng đến nguồn thu BHXH, số tiền nợ BHXH của các đơn vị tham gia BHXH bình quân trên 10 tỷ đồng/năm, nguyên nhân một phần do các đơn vị gặp khó khăn trong hoạt động (đặc biệt là các đơn vị sản xuất kinh doanh) mặt khác là do ý thức của chủ sử dụng lao động, nợ tiền BHXH để dùng số tiền đó quay vòng kinh doanh, đỡ phải vay vốn. Trong khi đó người lao động do không hiểu rõ về BHXH lại mang sẵn tâm lý sợ mất việc nên đã không dám đấu tranh bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình. Bảng 05: Thu BHXH từ Doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Đơn vị 1997 1998 Số đơn vị Đơn vị 2358 3147 Số lao động Người 84058 122685 Số đã thu Tr. đồng 72414 118902 Số nợ đọng Tr.đồng 6001 14716 Nguồn: Tạp chí Bảo hiểm xã hội. - Nhiều đơn vị thuộc diện phải tham gia BHXH cho người lao động nhưng đã lẩn tránh nghĩa vụ tham gia và nộp BHXH vì ảnh hưởng đến lợi nhuận, hoặc có tham gia cũng chỉ mang hình thức chiếu lệ, nhiều doanh nghiệp chỉ đóng BHXH cho những người làm công tác quản lý doanh nghiệp, nộp BHXH thì tìm cách khai giảm tiền lương, giảm số lao động làm việc hoặc thực hiện hợp đồng lao động theo mùa vụ, ngắn hạn dưới 3 tháng để giảm số lao động không thuộc diện đóng BHXH với nhiều hình thức khác nhau như: không ký hợp đồng lao động, kéo dài thời gian thử việc... đây là những kẽ hở mà trong thời gian tới hệ thống BHXH phải lấp đầy. - Một trong những biện pháp để bảo toàn và tăng trưởng nguồn quỹ BHXH là mở rộng đối tượng tham gia BHXH, tuy đã có nhiều lỗ lực, cố gắng của toàn hệ 41 thống, song cho đến nay số tham gia BHXH chỉ mới đạt khoảng 4 triệu lao động thuộc diện bắt buộc trong tổng số hơn 40 triệu lao động, ngoài xã hội vẫn còn một lực lượng lớn chưa được khai thác nhằm mang lại lợi ích cho đầy đủ người lao động trong mọi thành phần kinh tế. 2. Công tác chi trả trợ cấp Chi BHXH do hai nguồn bảo dảm cơ bản là Ngân sách (chi cho một số các đối tượng hưởng bảo hiểm xã hội trước 01/01/1995) và nguồn do quỹ BHXH bảo đảm. Theo quyết định 20/199/QĐ-TTg ban hành ngày 26/1/1998 thì nguồn ngân sách chi trả cho các trường hợp sau: - Trợ cấp hưu - Trợ cấp MSLĐ - Trợ cấp TNLĐ và người phục vụ người bị tai nạn lao động, trang cấp dụng cụ, phương tiện chuyên dùng cho người bị TNLĐ - Trợ cấp BNN - Trợ cấp công nhân cao su - Tiền tuất (định suất cơ bản và nuôi dưỡng ) và mai táng phí - Tiền mua BHYT - Lệ phí chi trả - Các khoản chi khác (nếu có ) Quỹ BHXH chi cho các đối tượng hưởng BHXH từ 1/1/1995 trở đi, gồm các khoản chi sau: - Trợ cấp hưu (thường xuyên và một lần) - Trợ cấp TNLĐ và người phục vụ người bị tai nạn lao động, trang cấp dụng cụ, phương tiện chuyên dùng cho người bị TNLĐ - Trợ cấp ốm đau - Trợ cấp thai sản 42 - Trợ cấp BN N - Tiền tuất (định suất cơ bản và nuôi dưỡng) và mai táng phí - Tiền mua BHYT - Lệ phí chi trả - Các khoản chi khác. Chi trả là kết quả của quá trình thực hiện chính sách BHXH, là khâu cuối cùng của công tác giải quyết các chính sách BHXH liên quan cho người lao động bị suy giảm sức lao động của mình- chế độ TNLĐ-BNN, chế độ ốm đau, thai sản... cho đối tượng hưởng lương hưu và các loại trợ cấp BHXH khi dã hoàn thành nghĩa vụ. Việc chi trả BHXH từ khi cơ quan Bảo hiểm xã hội được thành lập tới nay nhìn chung và cơ bản đảm bảo đúng- đủ- kịp thời, được người hưởng chế độ BHXH đồng tình ủng hộ, người lao động trong các đơn vị yên tâm công tác, phấn khởi tin tưởng vào đường lối chủ trương của Đảng và Nhà nước. Số đối tượng hưởng trợ cấp BHXH tăng qua các năm, trong đó số đối tượng hưởng trợ cấp hưu trí chiếm tỷ lệ lớn, tình hình thể hiện qua các bảng sau: Bảng 06: Đối tượng hưởng BHXH thường xuyên do BHXH bảo đảm. Đơn vị: Người Năm 1996 1997 1998 1999 2000 Hưu viên chức 10.789 24.212 40.258 64.070 92.876 Hưu QĐ 2.492 5.817 9.205 13.943 18.500 ĐX tuất 6.361 11.290 16.517 21.543 27.119 958 2.210 4.020 5.640 7.167 TNLĐ-BNN Nguồn: BHXH Việt Nam. Bảng 07: Đối tượng hưởng BHXH thường xuyên do NSNN bảo đảm. Đơn vị: Người 1996 Hưu VC 1.006.340 1997 1998 996.235 43 978.867 1999 966.291 2000 959.503 Hưu QĐ 164.489 162.572 160.465 158.231 157.114 MSLĐ 395.026 380.132 367.017 352.407 347.102 ĐX tuất 172.609 164.419 162.672 160.037 158.720 TNLĐ-BNN 10.357 11.332 11.960 12.292 12.458 Nguồn: BHXH Việt Nam. Qua số liệu ở các bảng 06, 07 ta thấy, số đối tượng hưởng BHXH từ NSNN giảm dần, còn số người hưởng BHXH lại tăng lên một cách rõ rệt, trong đó các đối tượng hưởng lương hưu rất lớn. Tuy nhiên so với các đối tượng hưởng từ NSNN thì chiếm tỷ lệ rất nhỏ. Cụ thể về số tiền trợ cấp do hai nguồn bảo đảm cũng như tỷ lệ chi BHXH được thể hiện thông qua các bảng dưới: Bảng 08: Chi BHXH do NSNN bảo đảm. Đơn vị: Triệu đồng. Năm 1996 1997 1998 1999 2000 Hưu 3.442.207,3 4.071.355,2 4.060.887,2 3.982.515 4.983.593 MSLĐ 655.573,3 763.392,5 740.012,6 710.859 850.549 TNLĐ-BNN 10.191,9 12.812 13.034 12.984,5 15.308 Tử tuất 133.283,6 125.882,3 128.794,7 126.098,4 164.248 MTP 23.250,4 20.507,3 21.419,6 21.279,8 34.150 CN Cao su 1.337,8 1.535,7 1.493,0 1.416,3 1.657 55,4 54,5 53,7 48,3 56,2 117.493,3 141.572,3 136.943 135.167,9 166.757 22.064 25.981 25.828.5 25.250,4 31.629 4.405.457 5.163.092,8 5.128.466,3 5.015.619,6 6.247.947, 2 Trang cấp dụng cụ BHYT L/phí chi trả Tổng Nguồn: BHXH Việt Nam. Bảng 09: Chi BHXH do quỹ BHXH bảo đảm. Năm 1996 1997 1998 1999 2000 Hưu 197.718,3 346.208,6 448.861,4 631.598,5 991.575 3.573,2 6.165,3 9.843 11.311,4 12.769 TNLĐ-BNN 44 Tử tuất 14.078,5 15.124,1 21.249,6 24.623,2 32.613 5,2 4.670 5.623,2 5.781,8 9.500 ÔĐ 61.811,4 90.681,7 110.866,4 95.798,2 98.775 Thai sản 103.844 124.980,1 146.231,8 158.003,5 240.005 34,9 57,4 33 86 557,9 2.005,8 5.380,7 8.474,6 17.404 1.561,6 2.754,6 3.515,8 4.727 5.974 383.150,1 593..525,1 751.629,3 940.351,2 1.328.701 MTP Tr/cấp D/Cụ BHYT Lệ phí chi trả Tổng Nguồn: BHXH Việt Nam. Bảng 10: Cơ cấu chi BHXH. Đơn vị: Triệu đồng NSNN Quỹ BHXH Năm Tiền Tỷ lệ (%) Tiền Tỷ lệ (%) 1996 4.405.457 92 383.150,1 8 1997 5.163.092,8 89,7 593.525 10,3 1998 5.128.466,3 87,2 751.629,3 12,8 1999 5.015.619,6 84,2 940.351,2 15,8 2000 6.247.947,2 82 1.328.701 18 Nguồn: BHXH Việt Nam. Qua bảng số liệu trên chúng ta có thể nhận xét: Số các đối tượng hưởng trợ cấp BHXH biến động theo xu hướng: Thuộc NSNN giảm dần, thuộc quỹ BHXH tăng dần. Đối tượng hưởng BHXH do NSNN bảo đảm tuy có giảm nhưng còn rất lớn (đến năm 2000 chi từ NSNN vẫn chiếm trên 80% tổng chi trợ cấp BHXH), nguyên nhân là do: Số đối tượng hưởng trợ cấp BHXH trước ngày 1.1.1995 là sản phẩm của quá trình thực hiện chính sách BHXH theo cơ chế cũ, có sự đan xen với các chính sách xã hội khác như chính sách trả ơn người có công với cách mạng, chính sách bảo đảm xã hội, giúp đỡ những người khó khăn…do NSNN chi trả toàn bộ, do đó các đối tượng hưởng trợ cấp BHXH rất lớn. Rõ ràng việc thực hiện 45 chính sách BHXH theo cơ chế cũ tồn tại rất nhiều bất cập và việc chuyển đổi cơ chế thực hiện chính sách BHXH là hoàn toàn đúng đắn. Việc thành lập BHXH Việt Nam để thực hiện quản lý quỹ tập trung về một mối có ý nghĩa to lớn, giải quyết được tình trạng quản lý lỏng lẻo, phân tán, thiết lập được mối quan hệ giữa người lao động và cơ quan BHXH. Số chi từ quỹ BHXH tăng lên qua các năm cả về số tuyệt đối và số tương đối, sở dĩ số chi này ngày càng tăng là vì đối tượng hưởng BHXH do quỹ bảo đảm ngày càng tăng, đặc biệt là số người về hưu. Mặc dù vậy, số chi từ quỹ chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ so với số thu BHXH, nên có thể nói rằng sau khi quỹ BHXH chi trả trợ cấp và các khoản chi khác sẽ còn một số dư tương đối lớn, đây là nguồn đầu tư lớn góp phần bảo toàn và tăng trưởng quỹ. Những bất cập trong công tác chi BHXH: - Việc chi trả BHXH có nhiều nơi còn chậm, các khoản chi đôi khi chưa rạch ròi dẫn đến tâm lý nghi ngờ chính sách BHXH từ phía người lao động. - Chế độ ốm đau, thai sản không quy định thời kỳ dự bị dẫn đến sự lạm dụng quỹ làm ảnh hưởng đến tài chính quỹ BHXH cũng như đối với người sử dụng lao động. - Đối với chế độ TNLĐ-BNN cần quy định rõ trách nhiệm ( lỗi ) của ai trong việc xảy ra tai nạn để có hình thức trả trợ cấp hợp lý. - Một trong những khó khăn hiện nay trong quản lý quỹ BHXH là Ngân sách nhà nước không đảm bảo kịp thời và đầy đủ số tiền chuyển cho quỹ BHXH để quỹ chi trả hộ cho các đối tượng mà NSNN bảo đảm. 3. Công tác đầu tư quỹ bảo hiểm xã hội Bảo hiểm xã hội Việt nam hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, song do yêu cầu bảo toàn và tăng trưởng quỹ, thì việc dùng phần quỹ nhàn rỗi đem đầu tư là hết sức cần thiết, mặt khác hoạt động đầu tư góp phần quan trọng trong việc tăng trưởng, phát triển nền kinh tế đất nước. Do đó tham gia vào hoạt động đầu tư cũng có nghĩa Bảo hiểm xã hội Việt nam đã góp phần vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. 46 Được sự cho phép của Chính phủ, Bảo hiểm xã hội Việt nam đã dùng phần quỹ nhàn rỗi để đầu tư sinh lời. Với số thu tính đến hết năm 1999 là 4200 tỷ đồng, tổng số tiền do đầu tư quỹ là 1400 tỷ đồng. Riêng năm 1999 số tiền sinh lời là trên 600 tỷ đồng. Hình thức đầu tư chủ yếu là cho Nhà nước vay thực hiện các dự án quốc gia về giải quyết việc làm, chương trình xoá đói giảm nghèo và mua trái phiếu kho bạc. Trong đợt phát hành công trái của Nhà nước năm 1999 với tổng giá trị 4000 tỷ đồng thì Bảo hiểm xã hội Việt nam chiếm 25% (500 tỷ đồng). Bảng 11: Các khoản cho vay bằng đồng tiền Việt Nam ( tính đến 8. 1998 ). Đơn vị: Triệu đồng Ngân sách nhà nước 1.078.636 Tổng cục đầu tư và phát triển 1.700.000 Ngân hàng đầu tư Việt Nam 950.000 Quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia 500.000 Ngân hàng nông nghiệp Việt Nam 400.000 Ngân hàng công thươngg hoàn kiếm 600.000 Cộng 5.228.636 Nguồn: BHXH Việt Nam. Bảng 12: Tổng các đợt mua kỳ phiếu, trái phiếu. Đơn vị: Triệu đồng. STT Tên kỳ phiếu, trái phiếu Trái phiếu KBNN Số tiền chuyển Lãi suất Ngày thu hồi vốn 100.000 1 Mệnh giá 90.909 10% 03.10.98 131.700 120.604 9,2% 21.10.98 160.700 147.296 9,1% 31.10.98 46.600 40.917 9% 07.11.98 73.800 67.706 9% 14.11.989 47 2 Kỳ phiếu NHNN VN K/phiếu NHNN Láng hạ 176.000 1%/t 31.12.98 150.000 3 200.000 150.000 1%/t 18.04.99 57.471 50.000 1%/t 19.04.99 Nguồn: BHXH Việt Nam. Tính đến ngày 31.12.99 tổng số tiền tạm thời nhàn rỗi dùng để đầu tư là 10.628 tỷ đồng. Kết quả lãi đầu tư tăng trưởng đến 31.12.99 là: Tổng số: 1.351 tỷ đồng. Trong đó: Đến năm 1997: 209 tỷ đồng. Phát sinh năm 1998: 163 tỷ đồng. Phát sinh năm 1999: 979 tỷ đồng. Các phương án đầu tư Bảo hiểm xã hội Việt nam đang nghiên cứu là: góp quỹ vào các dự án lớn, như: khai thác, chế biến dầu khí, điện tử viễn thông, các khu công nghiệp kỹ thuật cao... bảo đảm có lãi, khi cần rút vốn thuận lợi. Ngoài ra, đầu tư vào thị trường chứng khoán cũng là một hướng mở. Hiện nay, sàn giao dịch chứng khoán ở nước ta đã được mở tại Thành phố Hồ Chí Minh, tuy nhiên do mới hình thành nên còn nhiều vấn đề bất cập nên việc tham gia của quỹ BHXH vào lĩnh vực này là chưa nên nhưng trong tương lai đây sẽ là lĩnh vực đầu tư nhiều hứa hẹn. Đánh giá tình hình đầu tư quỹ BHXH: Việc đầu tư quỹ BHXH là một nét mới góp phần tăng cường khả năng duy trì và phát triển nguồn quỹ BHXH. Tuy nhiên các quy định về phạm vi cho hoạt động đầu tư quỹ BHXH chưa thật rộng rãi và thuận lợi cho công tác quản lý và tăng trưởng nguồn quỹ BHXH cho nên vẫn chưa đạt kết quả cao, chúng ta có thể nhận thấy điều này thông qua các bảng trên: Lãi suất trung bình thu được từ các khoản đầu tư quỹ BHXH chỉ dao động trong khoảng 6-7% trong khi đó trong một số năm thời kỳ 1995-1998 mức lạm phát lêm tới 9-10%. Điều này đặt ra trong thời gian tới cần có những thay đổi trong quy định lĩnh vực đầu tư BHXH Việt Nam được phép tham gia để hoạt động đầu tư có hiệu quả hơn. IV. PHƯƠNG HƯỚNG TỔ CHỨC THU-CHI QUỸ BẢO HIỂM XÃ HỘI 48 1. Sự mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bằng cả hình thức bắt buộc và tự nguyện Mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội là yếu tố bảo đảm an toàn xã hội và tăng nguồn đóng góp vào quỹ, đồng thời tạo ra sự chênh lệch dương giữa thu và chi quỹ bảo hiểm xã hội nhằm bảo tồn và tăng trưởng nguồn quỹ. Hiện nay, đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội còn rất hạn hẹp: Xấp xỉ 4 triệu trong tổng số hơn 40 triệu lao động, trong đó lao động thuộc khu vực nhà nước là chủ yếu. Do đó việc mở rộng đối tượng tham gia là một nội dung trong chiến lược phát triển ngành bảo hiểm xã hội đến năm 2010: - Đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc sẽ được mở rộng thêm: Người lao động làm việc trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có sử dụng dưới 10 lao động; người làm việc trong các HTX phi nông nghiệp; người làm việc trong các tổ chức bán công, dân lập có thuê mướn lao động của các ngành: Giáo dục, văn hoá, du lịch... Người làm việc thuộc các hộ gia đình đăng ký kinh doanh có thuê mướn lao động... - Hình thức bảo hiểm xã hội tự nguyện sẽ được thực hiện với các đối tượng: Xã viên các HTX nông nghiệp, ngư nghiệp, người lao động tự do... Dự kiến đến năm 2010 số người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện khoảng 8 triệu người, đưa tổng số người tham gia bảo hiểm xã hội (cả bắt buộc và tự nguyện) chiếm 30% tổng số lao động trong cả nước. Bảng 13: Dự báo số người có thể tham gia bảo hiểm xã hội. Đơn vị: 1000 người 2005 Năm 2010 1. Dân số 82.000 87.000 2. Số người trong độ tuổi lao động 50.650 55.575 3. Số người tham gia BHXH bắt buộc 6.500 9.000 4. Số người tham gia BHXH tự nguyện 4.400 8.000 Nguồn: Vụ BHXH Như vậy phần đóng góp của người lao động sẽ gồm: - Sự đóng góp của công chức nhà nước. - Sự đóng góp của lực lượng vũ trang. 49 - Sự đóng góp của người lao động trong các doanh nghiệp. - Sự đóng góp của nông dân và lao động nông thôn. - Sự đóng góp của lao động nước ngoài tại Việt Nam (nếu có). 2. Mở rộng hệ thống các chế độ bảo hiểm xã hội -Thực hiện chế độ trợ cấp thất nghiệp Như đã nêu, việc thực hiện 9 chế độ bảo hiểm xã hội trong Công ước 102 của ILO là mục tiêu của mỗi quốc gia. Việt Nam tuy chưa thể thực hiện được 9 chế độ do những điều kiện về kinh tế- xã hội, song việc mở rộng các chế độ sẽ được thực hiện từng bước phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước mà trước tiên là (trong giai đoạn hiện nay) thực hiện chế độ trợ cấp thất nghiệp, do vai trò đặc biệt quan trọng của chế độ này trong nền kinh tế thị trường vừa là công cụ góp phần giải quyết thất nghiệp, ổn định KT- CT- XH, vừa là một chính sách xã hội rất quan trọng trong việc bảo đảm đời sống người lao động. Nếu thực hiện chế độ trợ cấp thất nghiệp thì sẽ do quỹ bảo hiểm xã hội ngắn hạn bảo đảm do thời hạn trợ cấp được xác định trước và trong khoảng thời gian ngắn. 3. Dự báo quỹ bảo hiểm xã hội a, Dự báo thu bảo hiểm xã hội  Căn cứ dự báo: - Số người dự kiến bảo hiểm xã hội giai đoạn 2000- 2010 - Mức lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội bình quân 1 người của năm 1998 từ năm 2000 trở đi tính bù giá vào lương (tính bình quân tỷ lệ trượt giá 5%/ năm). - Tỷ lệ đóng góp bảo hiểm xã hội: Chủ sử dụng lao động đóng 20% (hiện hành 15%, thêm 5% cho chế độ thất nghiệp và chi quản lý), người lao động đóng 6% (hiện hành 5%, thêm 1% cho chế độ thất nghiệp). Bảng 14: Dự báo thu BHXH đến năm 2010. Đơn vị tính: Triệu đồng 2005 NĂM 50 2010 Thu BHXH bắt buộc 11.939.739 21.099.420 Thu BHXH tự nguyện 1.528.348 3.502.220 13.468.087 24.601.640 (Cả đối tượng xã phường) Tổng cộng Nguồn: Vụ BHXH Bộ lao động thương binh và xã hội b, Dự báo chi quỹ BHXH  Căn cứ dự báo - Tổng số người dự kiến nghỉ hưu giai đoạn 2000- 2010 do quỹ BHXH chi trả. - Dự kiến số mỗi năm số người về hưu khoảng 9 vạn người. - Lương hưu bình quân một người có cộng thêm tỷ lệ trượt giá (bình quân 5%/năm). - Tỷ lệ chết bình quân 1 năm là 3,2%. - Chi ốm đau thai sản là 4% trên tổng số lương làm căn cứ đóng BHXH. - Bảo hiểm y tế của số người nghỉ hưu tính 3% trên mức lương hưu có cộng thêm trượt giá. - Tiền mai táng phí, tuất một lần, tuất định suất cộng thêm tỷ lệ trượt giá. Bảng 15: Dự báo chi quỹ BHXH đến năm 2010. Đơn vị 2005 2010 1- Số người hưởng lương hưu từ quỹ BHXH. Người 640.000 1.090.000 2- Tổng số tiền dự kiến chi từ quỹ BHXH Triệu đồng 6.112.434 12.320.648 “ 3.391.172 7.371.279 Trong đó Chi lương hưu 51 Chi bảo hiểm tế “ 101.735 221.138 Chi ốm đau, thai sản, tai nạn lao động bệnh nghề nghiệp “ 1.836.882 3.246.064 Chi tiền tuất “ 243.922 498.102 Chi quản lý bộ máy “ 538.723 984.065 Nguồn: Vụ BHXH c, Cân đối quỹ BHXH Bảng 16: Bảng cân đối thu-chi quỹ BHXH. Đơn vị: Triệu đồng Năm Tổng thu BHXH Tổng chi BHXH Số dư 2001 7.257.668 2.703.150 4.554.518 2002 8.623.973 3.448.827 5.175.146 2003 10.108.765 4.262.231 5.846.534 2004 11.720.476 5.148.354 6.572.122 2005 13.468.087 6.112.434 7.355.653 2006 15.361.161 7.161.690 8.199.471 2007 17.409.874 8.300.592 9.109.282 2008 19.625.052 9.535.478 10.089.574 2009 22.018.219 10.873.101 11.145.118 2010 24.601.640 12.320.648 12.280.992 Nguồn:Vụ BHXH Bảng số liệu trên cho thấy trong tương lai quỹ BHXH sẽ có số dư tương đối lớn (nếu tính cả tồn tại quỹ qua các năm thì đến 2010 quỹ BHXH sẽ có số dư là 94.293.606 triệu đồng). 52 Trên cơ sở dự báo trên giúp cho BHXH Việt Nam phối hợp với các cơ quan chức năng hoàn thiện và nghiên cứu các chính sách BHXH làm cho ngành BHXH Việt Nam ngày càng trở nên phong phú và đa dạng và là nhu cầu của mọi người dân Việt Nam, từ đó đạt kết quả cao hơn trong tương lai. 53 CHƯƠNG III THÀNH LẬP QUỸ BẢO HIỂM XÃ HỘI THÀNH PHẦN Ở BẢO HIỂM XÃ HỘI VIỆT NAM I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 1. Sự ra đời, tồn tại và phát triển của quỹ bảo hiểm xã hội là một xu thế tất yếu của mỗi hệ thống bảo hiểm xã hội. BHXH ra đời là một tất yếu khách quan trong nền kinh tế hàng hoá và việc thiết lập quỹ BHXH cũng là một tất yếu đối với mỗi hệ thống BHXH. Để thực hiện các chức năng của mình, BHXH cũng như quỹ BHXH luôn phải tự hoàn thiện mình để đáp ứng được xu thế tiến bộ của xã hội. Nếu như trước đây, quỹ BHXH của chúng ta chỉ tồn tại trên danh nghĩa (do yêu cầu của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa) thì đến nay chúng ta đã có một quỹ BHXH độc lập, tập trung, nằm ngoài Ngân sách Nhà nước, điều đó cho thấy những bước phát triển của hệ thống BHXH nói chung và quỹ BHXH nói riêng. Hiện nay, đối với nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần của Việt Nam, việc thành lập các quỹ BHXH nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của người lao động trong mọi thành phần kinh tế. 2. Quỹ bảo hiểm xã hội là hạt nhân của tổ chức bảo hiểm xã hội BHXH là chính sách xã hội nhằm bảo đảm thu nhập cho người lao động khi họ tạm thời hoặc vĩnh viễn mất khả năng lao động. Về mặt tài chính, BHXH là một quỹ tiền tệ tập trung và việc tổ chức quỹ BHXH để từ đó thực hiện chính sách BHXH là chức năng cơ bản của mỗi hệ thống BHXH. Các hoạt động của BHXH ( công tácd thu, chi, giải quyết chính sách, quản lý sự nghiệp…) đều xoay quanh vấn đề tổ chức và sử dụng quỹ BHXH. Quỹ BHXH được hình thành , tồn tại và phát triển gắn liền với chính sách xã hội, với chức năng vốn có của nhà nước, vì quyền lợi của người lao động. Do đó quỹ BHXH là hạt nhân tài chính của mỗi hệ thống BHXH. Việc xây dựng và hoàn thiện quỹ là yêu cầu và nhiệm vụ của BHXH, trong đó thành lập quỹ BHXH thành phần là một nội dung của công tác này. 54 3. Từ những bất cập trong tổ chức quản lý và thực hiện Việc quy định mức đóng góp như hiện nay-có ý kiến cho rằng-là thấp và không đảm bảo lâu dài cân đối nguồn chi. Tuy nhiên lại có ý kiến cho rằng (chủ yếu là chủ sử dụng lao động) mức đóng góp như hiện nay là cao. Trong thực tế, các chi phí trên còn chưa rạch ròi từng khoản chi riêng rẽ, vì BHXH không có quỹ thành phần, do đó chúng ta cần thành lập ra các quỹ BHXH thành phần để từ đó có thể cân đối thu chi quỹ BHXH. Các chế độ bảo hiểm xã hội của chúng ta hiện nay chưa hoàn thiện mà cần được tiếp tục nghiên cứu, đổi mới cho phù hợp: - Việc không quy định thời gian nhất định đóng BHXH trước khi nghỉ ốm hưởng BHXH sẽ dẫn đến sự lạm dụng, hoặc vừa làm việc đã nghỉ ốm dài ngày là không công bằng giữa đóng và hưởng BHXH. - Chế độ thai sản không quy định thời kỳ dự bị (thời gian đóng BHXH trước khi hưởng chế độ nghỉ đẻ), dẫn đến sự lạm dụng hoặc có trường hợp vừa tuyển dụng vào đã sinh con, ảnh hưởng đến tài chính quỹ BHXH cũng như người sử dụng lao động. Việc hạn chế chỉ cho hưởng chế độ thai sản ở hai lần sinh là không phù hợp với công ước quốc tế về BHXH. - Cách tính lương hưu như hiện nay có lợi cho những người có mức lương cao trước khi nghỉ hưu nhưng thiệt thòi cho những người có mức lương cao trong thời gian đầu tham gia công tác nhưng có mức lương thấp trước khi nghỉ hưu. - Mức đóng góp và mức hưởng bảo hiểm xã hội có sự chênh lệch quá xa giữa các khu vực hành chính sự nghiệp, khu vực sản suất kinh doanh và các tổ chức kinh tế xã hội khác. Sự chênh lệch quá lớn này làm mất đi ý nghĩa và mục đích của bảo hiểm xã hội. - ... Thành lập các quỹ BHXH thành phần sẽ cho phép việc cải cách từng chế độ được thuận lợi hơn nhằm từng bước hoàn thiện hệ thống bảo hiểm xã hội phù hợp nguyện vọng và ý chí của người lao động, với điều kiện kinh tế- xã hội của đất nước. 4. Các chế độ có mục đích sử dụng và cơ chế đóng góp khác nhau Mục đích của BHXH là nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động khi gặp các rủi ro trong và cả ngoài quá trình lao động, tuy nhiên mục đích của việc chi trả 55 trợ cấp các chế độ BHXH có khác nhau. Trợ cấp ngắn hạn nhằm bù đắp phần thu nhập tạm thời bị mất của người lao động và sẽ kết thúc khi người lao động đi làm trở lại, ngay cả trong trường hợp họ chưa thể đi làm trở lại thì việc trợ cấp vẫn có thể kết thúc theo quy định về thời gian tối đa người lao động được hưởng trợ cấp. Còn trợ cấp dài hạn nói chung không quy định giới hạn về thời gian người lao động được hưởng do khả năng lao động bị suy giảm không thể phục hồi, do đó trợ cấp dài hạn có mục đích đảm bảo ổn định đời sống người lao động trong thời gian dài. Cũng do mục đích khác nhau của các chế độ ngắn hạn và dài hạn mà cơ chế đóng góp BHXH cho mỗi chế độ cũng khác nhau: Xác định mức đóng góp cho các chế độ ngắn hạn dựa vào cơ chế đánh giá hàng năm những chi phí có thể sảy ra, còn với các chế độ dài hạn thì việc xác định mức đóng góp phải dựa trên một khoảng thời gian tương đối dài quá trình đóng góp và hưởng trợ cấp cùng với những thay đổi có thể xảy ra trong thời gian đó. Nói chung, quy trình định phí BHXH đối với các chế độ dài hạn phức tạp hơn. Việc tổ chức các quỹ BHXH thành phần sẽ cho phép phát huy được tính độc lập tương đối của từng loại quỹ nhưng vẫn giữ được tính thống nhất của các hệ thống quỹ BHXH. 5. Đáp ứng được chiến lược đầu tư dài hạn và ngắn hạn Trong quỹ BHXH luôn tồn tại một lượng tiền tạm thời nhàn rỗi chưa được dùng đến cần được dùng để đầu tư nhằm: - Bảo toàn và tăng trưởng nguồn quỹ; - Góp phần phát triển nền kinh tế đất nước. Đối với các chế độ dài hạn, lượng tiền nhàn rỗi trong quỹ đôi khi rất lớn (do tính chất tích luỹ của quỹ) và trong một khoảng thời gian tương đối dài do đó đầu tư hài hạn với lợi nhuận cao là thích hợp nhằm đảm bảo khả năng chi trả trợ cấp BHXH cho người lao động trong tương lai. Các chế độ ngắn hạn thực hiện cơ chế thu đến đâu chi đến đấy, tuy nhiên như thế không có nghĩa là không có một lượng tiền nhàn rỗi trong quỹ, đó là phần được trích lập cho những sự cố có thể sảy ra ngoài dự tính (đó là phần an toàn trong công thức xác định phí BHXH ) và phần này nên được đưa vào đầu tư ngắn hạn với tính thanh khoản cao. 56 Do đó việc thành lập quỹ BHXH thành phần sẽ cho phép chúng ta thực hiện chiến lược đầu tư (đầu tư ngắn hạn và đầu tư dài hạn) có hiệu quả hơn để từ đó nâng cao hiệu quả quỹ BHXH. 6. Phù hợp với nguyên tắc đổi mới của bảo hiểm xã hội Theo quan điểm của BHXH thì: “Bảo hiểm xã hội phải được phát triển dần từng bước phù hợp với các điều kiện kinh tế xã hội của đất nước trong từng giai đoạn cụ thể ”. Nền kinh tế nước ta hiện nay đã có những bước phát triển đáng kể, GDP bình quân tăng, đời sống vật chất, tinh thần của người dân được cải thiện, người lao động có khả năng hơn trong việc tham gia BHXH, với sự kết hợp cả hình thức bắt buộc và tự nguyện tham gia BHXH, trong thời gian tới số lượng người lao động tham gia BHXH ngày một lớn ở mọi ngành nghề, mọi thành phần kinh tế do đó ngành Bảo hiểm xã hội sẽ gặp khó khăn trong công tác quản lý đối tượng, thực hiện chi trả trợ cấp... đòi hỏi ngành Bảo hiểm xã hội phải đổi mới nhằm đáp ứng khả năng cũng như nhu cầu tham gia BHXH của người lao động. Việc thành lập quỹ BHXH thành phần phù hợp với yêu cầu đổi mới và chúng ta hoàn toàn có thể thực hiện được. Với hơn 6 năm hoạt động của Bảo hiểm xã hội Việt nam và hơn 30 năm thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội, đội ngũ cán bộ BHXH đã qua thực tiễn và có nhiều kinh nghiệm, với trình độ tổ chức và quản lý có thể đáp ứng được yêu cầu đổi mới BHXH. II. NHỮNG THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN 1. Thuận lợi - Chính sách bảo hiểm xã hội là một chính sách lớn, luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát và hỗ trợ kịp thời khi cần thiết. Bảo hiểm xã hội Việt nam thường xuyên nhận được sự chỉ đạo trực tiếp của Thủ tướng Chính phủ, sự quan tâm, tạo điều kiện của các Bộ, Ngành liên quan. - Trong những năm qua, Bảo hiểm xã hội Việt nam đã đạt được những thành tựu to lớn góp phần vào công cuộc xây dựng đất nước, chính sách bảo hiểm xã hội đã tạo được niềm tin từ phía người lao động, làm cho người lao động ngày càng quan tâm, gắn bó mật thiết hơn với chính sách BHXH của Đảng và Nhà nước, tạo điều kiện thuận lợi để cơ quan BHXH phục vụ người lao động ngày càng tốt hơn 57 và việc thành lập quỹ BHXH thành phần sẽ được người lao động đồng tình ủng hộ. - Đội ngũ cán bộ bảo hiểm xã hội qua thực tiễn công tác đã thể hiện bản lĩnh chính trị vững vàng, nắm vững chính sách, pháp luật BHXH, tiếp thu những kiến thức mới về khoa học quản lý, tin học, ngoại ngữ... đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ trong bối cảnh mới. 2. Khó khăn - Bảo hiểm xã hội Việt nam mới trải qua hơn 6 năm thành lập và trưởng thành, trong bối cảnh chuyển đổi cơ chế, chuyển đổi tổ chức, Bảo hiểm xã hội Việt nam phải thực hiện nhiều công việc trong việc thực hiện chế độ chính sách BHXH, kiện toàn bộ máy hoạt động... Do đó trong tổ chức hoạt động vẫn còn nhiều bất cập. - Hiện nay chúng ta chưa có luật BHXH, do đó trong quá trình tổ chức thực hiện chính sách BHXH còn gặp rất nhiều khó khăn, chưa có sự phân định rõ giữa quản lý nhà nước và quản lý sự nghiệp BHXH, cán bộ BHXH không có đủ phương tiện thực hiện các biện pháp chế tài khi người lao động, chủ sử dụng lao động vi phạm điều lệ BHXH… - Trong quá trình hoạt động, BHXH Việt Nam đang gặp rất nhiều khó khăn do ngành mới thành lập, các chế độ BHXH đang trong quá trình hoàn thiện, chuẩn hoá đội ngũ cán bộ BHXH, kiện toàn cơ cấu tổ chức cũng như thống nhất cơ chế quản lý quỹ BHXH. III. THÀNH LẬP QUỸ BẢO HIỂM XÃ HỘI THÀNH PHẦN Ở BẢO HIỂM XÃ HỘI VIỆT NAM 1. Quỹ bảo hiểm xã hội ngắn hạn a, Các chế độ ngắn hạn Các chế độ ngắn hạn được xác định dựa vào thời gian chi trả trợ cấp (nói cách khác là dựa vào thời gian hưởng trợ cấp tối đa) và thường là dưới một năm. Đặc trưng của các chế độ này là chi phí hàng năm thường ổn định khi thể hiện cả ở tỷ lệ thu hàng năm về bảo hiểm cũng như mức hưởng bình quân cho một người tham gia, qua một khoảng thời gian dài tính thường xuyên trong một năm. 58 Quỹ BHXH ngắn hạn được hình thành từ sự tham gia các chế độ ngắn hạn và được dùng riêng biệt để chi trợ cấp cho các chế độ này và các khoản chi phí cho hoạt động sự nghiệp. Cơ chế tài chính của các chế độ ngắn hạn là thu đến đâu chi đến đấy hoặc theo cơ chế đánh giá hàng năm. Trong cơ chế không có dự trữ này, các mức đóng góp được xác định ở mức sao cho hàng năm, các mức này (cộng với thu nhập từ đầu tư ) phải thoả đáng để đáp ứng với các chi phí cho các chế độ và chi phí quản lý hàng năm. Để duy trì tỷ lệ đóng góp ổn định, một khoản chênh lệch nhỏ được bổ xung cho tỷ lệ đóng góp và quỹ tăng do khoản bổ xung này được đưa vào đự phòng các sự cố. Bảo hiểm xã hội Việt nam hiện nay đang thực hiện các chế độ ngắn hạn bao gồm:  Chế độ ốm đau (đặc trưng bởi thời gian hưởng trợ cấp ốm đau tối đa là từ 30 đến 50 ngày đối với người làm việc trong điều kiện bình thường ).  Chế độ thai sản (thời gian nghỉ việc hưởng trợ cấp tối đa là 4 tháng đối với người làm việc trong điều kiện bình thường).  Chế độ TNLĐ-BNN trợ cấp một lần với mức suy giảm khả năng lao động từ 5%-30%.  Chế độ tử tuất trợ cấp một lần. b, Xác định mức đóng góp BHXH Mức đóng góp BHXH được ấn định vào đầu năm, sau đó được điều chỉnh vào cuối năm tuỳ theo tình hình thực tế trong năm. Tỷ lệ đóng góp được ấn định trước trên cơ sở các đánh giá tài chính bảo hiểm cả dựa vào thực tế trước đây của hệ thống cũng như thực tế rút ra từ các hệ thống khác. Điều quan trọng là tỷ lệ đóng góp được ấn định theo cách nó giữ được ổn định càng lâu càng tốt mà không cần đến việc ấn định quá cao. Trong công thức xác định phí BHXH, phí thuần tuý được xác định như sau: Ptt = Chi phí có thể sảy ra cho các chế độ Hay Ptt =N.f.m.k Trong đó N: Số người tham gia f: Tần suất xảy ra rủi ro 59 m: Số ngày bình quân của một trường hợp rủi ro k: Chi phí bình quân cho một ngày Những thành phần trong tính toán thực tế sẽ phụ thuộc vào công thức trong đó số liệu có thể thu thập được thông quy các phương pháp thống kê (cuả một số năm trước đó), điều tra chọn mẫu và các phương pháp dự báo. Khi điều chỉnh phí bảo hiểm dựa vào sự thay đổi của các thành phần trong công thức trên. Điều quan trọng là sau khi xác định được tổng chi phí cho các chế độ (hay tổng phí thuần tuý) ta phải gắn nó với tổng mức tiền lương hàng năm làm căn cứ đóng BHXH theo một tỷ lệ nhất định. Sau đây là một ví dụ xác định mức đóng góp đối với chế độ ốm đau. Các giả định: Mức hưởng trợ cấp ốm đau = 50% tiền lương ngày Số người lao động tham gia bảo hiểm xã hội N = 100.000 Tần số sảy ra rủi ro f = 1 Số ngày bình quân một trường hợp rủi ro m = 16 Tiền lương bình quân năm s = 1.200 Có 300 ngày làm việc trong một năm Từ các giả định trên chúng ta tính được: Chi phí bình quân cho một ngày k = 50%x1200/300 = 2 Tổng chi phí cho một năm = 100.000x0,5x16x2 = 1.600.000 Tổng tiền lương một năm làm căn cứ đóng góp là: Nxs = 100.000x1200 =120.000.000 Vậy tỷ lệ đóng góp Ptt = Tổng chi phí cho một năm/Tổng tiền lương đóng bảo hiểm = 1.600.000/120.000.000 =0,0133 =1,33% của tiền lương đóng bảo hiểm. 2. Quỹ bảo hiểm xã hội dài hạn a, Các chế độ dài hạn 60
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan