Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tài chính - Ngân hàng Bảo hiểm Báo cáo chuyên đề bảo hiểm bh29 phần 2...

Tài liệu Báo cáo chuyên đề bảo hiểm bh29 phần 2

.PDF
20
128
82

Mô tả:

Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp những biện pháp tuyên truyền có hiệu quả nhất, làm tăng uy tín của công ty và có ảnh hưởng tích cực tới khâu khai thác bảo hiểm. Đảm bảo được mục đích, ý nghĩa, nhiệm vụ của công tác bồi thường, cán bộ công ty cần thực hiện tốt những bước sau : 3.1 Kiểm tra hồ sơ khiếu nại và xác định trách nhiệm bảo hiểm Nhận được hồ sơ đòi bồi thường, người bảo hiểm phải kiểm tra, xem xét hồ sơ có đầy đủ và hợp lệ không. Trường hợp hồ sơ thuộc trách nhiệm bảo hiểm nhưng chưa đầy đủ thì phải yêu cầu khách hàng bổ sung kịp thời và ngày trả lời khách hàng. Sau đó, cán bộ bồi thường xem xét đối chiếu với quy tắc bảo hiểm và văn bằng hướng dẫn của Tổng công ty để xác định trách nhiệm bảo hiểm. Cụ thể : khiếu nại có nằm trong phạm vi thoả thuận bảo hiểm không; có điểm loại trừ nào tác động và ảnh hưởng đến khiếu nại đó không; có điều kiện bảo hiểm nào bị vi phạm làm vô hiệu hoá hoặc thu hẹp phạm vi được bảo hiểm của khiếu nại không ? 3.2 Xác định mức độ thiệt hại Chức năng chính của công tác bảo hiểm là bồi thường những thiệt hại thực tế xảy ra cho người tham gia bảo hiểm nhằm đảm bảo sản xuất kinh doanh cho người được bảo hiểm. Xác định đúng giá trị thiệt hại mới đảm bảo việc bồi thường thực sự đem lại hiệu quả cho người được bảo hiểm.Việc xác định giá trị thiệt hại được tiến hành trên nguyên tắc : phải xác định ngay tại thời điểm và địa điểm xảy ra tổn thất. Trên cơ sở biên bản giám định về mức độ thiệt hại cùng các biên lai, chứng từ xác minh kèm theo các hồ sơ khiếu nại, cán bộ bồi thường sẽ xác định được mức thiệt hại thực tế của từng đối tượng bảo hiểm. 3.3 Xác định số tiền bồi thường Nếu hồ sơ khiếu nại đã hợp lệ, đầy đủ, tổn thất đã được xác định là thuộc phạm vi bảo hiểm và tính toán được số tiền thiệt hại thì ta có thể tiến hành xác định số tiền bồi thường. Số tiền bồi thường xác định dựa trên các cơ sở sau : T¹ Quang TuÊn F4-K36 21 Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp - Giá trị thiệt hại thực tế - Số tiền bồi thường (là giới hạn trên của số tiền bồi thường ) - Mức miễn thường : sẽ không phải bồi thường nếu tổn thất bằng hoặc nhỏ hơn mức miễn thường. Nếu tổn thất lớn hơn mức miễn thường thì phải trừ đi mức miễn thường ( trong trường hợp áp dụng mức miễn thường có khấu trừ ). Trước khi tính toán số tiền bồi thường, người được bảo hiểm cần xem xét số tiền khách hàng đòi bồi thường là bao nhiêu. Nếu số tiền đó bằng hoặc nhỏ hơn mức miễn thường thì không cần tính toán mà có thể trả lời ngay cho khách hàng là tổn thất không được bồi thường vì nằm trong phạm vi mức miễn thường. Nếu tổn thất lớn hơn mức miễn thường thì phải tính chi tiết mức độ thiệt hại. Cụ thể : * Đối với bảo hiểm Hoả hoạn : Số tiền bảo hiểm Số tiền bồi thường = Giá trị thiệt hại  ____________________ Giá trị bảo hiểm 3.4 Lập hồ sơ bồi thường, giải quyết bồi thường và khiếu nại Trên cơ sở tính toán được số tiền bồi thường như trên, cán bộ bồi thường sẽ lập hồ sơ bồi thường và trình lên lãnh đạo Tổng công ty xét duyệt bồi thường. Sau khi có quyết định của lãnh đạo, cán bộ bồi thường sẽ thông báo cho khách hàng cụ thể về mức bồi thường, thời gian, địa điểm công ty bảo hiểm chi trả số tiến đó cũng như các giấy tờ cần thiết mà họ phải có. Nếu khách hàng chấp nhận thì việc bồi thường sẽ được chuyển cho phòng kế toán-tài vụ. Trong thực tế, khâu bồi thường là khâu dễ phát sinh các tranh chấp, khiếu nại khi khách hàng cho rằng số tiền bồi thường là chưa hợp lý. Bởi vậy, cần xem xét nghiên cứu các ý kiến khiếu nại một cách khách quan. Cũng cần lưu ý là trước khi chính thức bồi thường, trên cơ sở những thông T¹ Quang TuÊn F4-K36 22 Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp tin nhận được và đánh giá chung, cán bộ bồi thường sớm ước tính số tiền bồi thường và thông báo cho khách hàng biết trước để cho họ không bị bất ngờ khi công bố số tiền chính thức. Cần chú ý lắng nghe nguyện vọng của khách hàng, nhẹ nhàng và kiên nhẫn giải thích kỹ những thắc mắc của họ ngay cả khi từ chối bồi thường. 4. Các biện pháp đề phòng Hoả hoạn Mục tiêu của công tác phòng Hoả hoạn là đề phòng hoả hoạn phát sinh và không cho đám Hoả hoạn lan rộng. Hiện nay có hai biện pháp phòng Hoả hoạn là phòng Hoả hoạn bằng thiết kế xây dựng và sử dụng các biện pháp quản lý. + Phòng Hoả hoạn bằng thiết kế xây dựng :nhằm cách ly các vật dễ Hoả hoạn với nguồn lửa. Các nguồn lửa có thể phát sinh từ các thiết bị toả nhiệt, bếp, lò sấy, lò sưởi, các thiết bị điện... Do vậy, việc thiết kế xây dựng cần lưu ý tới việc bố trí các phòng ban, kho, phân xưởng cũng như các thiết bị nội thất một cách hợp lý, đảm bảo độ an toàn cao. + Các biện pháp quản lý : Thực hiện các biện pháp quản lý là trách nhiệm của người tham gia bảo hiểm. Dựa vào các quy định phòng Hoả hoạn và chữa Hoả hoạn của Nhà nước và địa phương, các giám đốc, thủ trưởng đơn vị cần đề ra nội quy, biện pháp PCCC cho cơ sở mình đồng thời có kế hoạch giáo dục, đôn đốc, theo dõi, kiểm tra việc chấp hành nội quy, biện pháp đó. Các cán bộ, công nhân phải triệt để chấp hành các nội quy PCCC cũng như các tiêu chuẩn về an toàn trong hoạt động công tác, sản xuất.. Cùng với cảnh sát PCCC, các công ty bảo hiểm sẽ hướng dẫn người tham gia bảo hiểm thực hiện tốt công tác PCCC ở các khu vực dễ xảy ra rủi ro, đề nghị họ có các biện pháp ngăn ngừa kịp thời và hợp lý. 5. Công tác chữa Hoả hoạn Trước hết cần trang bị các phương tiện thiết bị báo Hoả hoạn để xác định vùng xảy ra Hoả hoạn nhằm hạn chế tổn thất đến mức tối thiểu. Thành lập các đội cứu hoả ở các đơn vị cũng như trang bị các phương tiện dập lửa T¹ Quang TuÊn F4-K36 23 Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp thì mới đảm bảo chữa Hoả hoạn có hiệu quả và kịp thời. Các công ty bảo hiểm qua việc tham quan các cơ sở bảo hiểm yêu cầu họ không những thực hiện các nội quy PCCC mà còn phải tranh bị các thiết bị chữa Hoả hoạn cần thiết. III. Đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm Hoả hoạn 1. Kết quả khai thác và thực hiện doanh thu Công cuộc đổi mới kinh tế của đất nước mỗi năm lại mang đến những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Kinh tế phát triển cộng với cơ chế quản lý theo hướng thị trường đã làm cho nhu cầu và khả năng tham gia bảo hiểm tăng. Năm năm qua ( 91-95 ) là những năm khởi đầu cho nghiệp vụ bảo hiểm Hoả hoạn. Do có sự nỗ lực của ban lãnh đạo Tổng công ty cũng như các cán bộ trong công tác bảo hiểm Hoả hoạn nên kết quả nghiệp vụ này ngày càng cao.Hơn một năm đầu triển khai nghiệp vụ ( 89-90 ) các đơn vị tham gia còn quá ít ỏi. Trong số hàng vạn các xí nghiệp hoạt động trên phạm vi cả nước thì đơn vị tham gia bảo hiểm Hoả hoạn chỉ dừng lại ở con số trên dưới 100. Đây là những doanh nghiệp thực sự có nhu cầu và thường là những công ty thuộc về ngành xăng dầu, do vậy khả năng xảy ra rủi ro là rất lớn. Nguyên nhân của tình trạng này là do bước đầu chuyển sang kinh tế thị trường, nhiều đơn vị còn lúng túng, kinh doanh chưa ổn định nên không có điều kiện tham gia bảo hiểm. Mặt khác do nước ta tồn tại quá lâu cơ chế cũ, nên khi chuyển sang cơ chế mới, lãnh đạo các xí nghiệp còn mang nặng tư tưởng bao cấp, chưa thấy rõ được trách nhiệm phải bảo toàn vốn của mình. Một phần nưã là về phía công ty, do đây là nghiệp vụ mới, cán bộ làm công tác bảo hiểm Hoả hoạn chưa nhiều, chưa có kinh nghiệm. Hơn nữa, cán bộ chưa phục vụ tận tình mà để khách hàng phải tự đến gõ cửa công ty. T¹ Quang TuÊn F4-K36 24 Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Nắm bắt được tình hình như vậy, Văn phòng Tổng công ty cũng như các công ty địa phương đã có những nỗ lực lớn để khắc phục tình hình. Do vậy đã đạt được những kết quả đáng khích lệ trong những năm gần đây : Nếu như năm 2000, Bảo Việt mới chỉ nhận bảo hiểm cho 1413 đơn vị thì đến năm 2003, số đơn vị được bảo hiểm đã lên tới 3102 đơn vị -gần gấp 3 lần. Còn giá trị bảo hiểm cũng tăng nhưng tăng hơn gấp 14 lần. Có thể nói giá trị bảo hiểm tăng nhanh như vậy một mặt là vì nền kinh tế Việt Nam trong những năm vừa qua đang trên đà phát triển vượt bậc. Trong thời gian đầu mở cửa, đã có những Công ty nước ngoài đầu tư nhưng chỉ đầu tư với mức độ rất dè dặt mục đích của họ là muốn thăm dò thị trường Việt Nam. Sau một thời gian nghiên cứu, thấy Việt Nam là nơi có cơ hội đầu tư tốt nên những dự án lớn hơn về quy mô đã được ký kết. Doanh thu của nghiệp vụ bảo hiểm Hoả hoạn tăng nhanh, với tốc độ cao và khá đều. Năm sau doanh thu tăng hơn năm trước. Sở dĩ Bảo Việt đạt được kết quả như vậy là do những nguyên nhân chủ yếu sau : - Về khách quan : sự ban hành các quyết định của Bộ tài chính có liên quan đến vấn đề bảo hiểm đã tạo ra ảnh hưởng lớn đối với việc kinh doanh bảo hiểm của công ty. Điều đó được thể hiện là số đơn bảo hiểm cấp và doanh thu trong năm 2003 tăng gần gấp đôi so với năm 2000. Những năm gần đây số đơn bảo hiểm và doanh thu tăng không mạnh nguyên nhân chủ yếu là do nghiệp vụ bảo hiểm hoả hoạn của Công ty bị mất hẳn một phần doanh thu về phía Công ty bảo hiểm Petrolimex và Bảo Minh. Mặc dù bị hao hụt lớn nhưng nghiệp vụ bảo hiểm hoả hoạn những năm gần đây vẫn duy trì được doanh thu năm sau tăng hơn năm trước. Đó là kết quả nỗ lực không thể phủ nhận của toàn bộ cán bộ trong nghiệp vụ bảo hiểm hoả hoạn. Những năm gần đây do chính sách của nhà nước ngày càng thông thoáng nên các Công ty bảo hiểm nước ngoài đã có thể được kinh doanh trên thị trường Việt Nam. Điều này tạo nên sự cạnh tranh không nhỏ đối với Bảo Việt. Nhưng nhờ có uy tín từ trước nên doanh thu bảo hiểm của Bảo Việt T¹ Quang TuÊn F4-K36 25 Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp những năm gần đây vẫn tăng cao và nghiệp vụ bảo hiểm hoả hoạn cũng tăng theo. - Về chủ quan : Tổng công ty đã có những cố gắng đáng kể trong việc đào tạo, bồi dưỡng và mở rộng đội ngũ cán bộ. Thỉnh thoảng, công ty có mở lớp hướng dẫn, tập huấn cho cán bộ, cộng tác viên để trau dồi thêm nghiệp vụ. Ngoài ra, các cán bộ nghiệp vụ bảo hiểm Hoả hoạn cũng cố gắng tìm mọi cách để mở rộng địa bàn tiếp thị, triển khai mạng lưới các văn phòng đại diện quận, huyện ở các địa phương giúp cho việc tiếp cận khách hàng được tốt hơn đồng thời giữ vững địa bàn hoạt động, không để mất khách hàng. Tổng công ty đã mở rộng mạng lưới tuyên truyền, quảng cáo thông qua các phương tiện thông tin đại chúng như : đài, báo, tạp chí, vô tuyến truyền hình.... Đi đôi với việc bồi dưỡng cán bộ, Tổng công ty đã từng bước hoàn thiện hơn trong việc tính phí. Việc áp dụng biếu phí linh hoạt đã đưa ra được những mức phí cạnh tranh, phù hợp với cơ chế thị trường. Nếu như trước đây, Baỏ Việt chủ trương áp dụng một tỷ lệ phí trung bình cho tất cả các ngành sản xuất kinh doanh, các loại tài sản khác nhau là 0,29 %, sau đó sử dụng hệ số điều chỉnh thì đến tháng 12 năm 1993, Tổng công ty đã đề nghị Bộ tài chính cho phép áp dụng phí bảo hiểm Hoả hoạn mới xây dựng trên cơ sở theo những kinh nghiệm của Munich Re và một số nước khác trong khu vực. Biểu phí này giảm đi 20% so với biểu phí cũ nhưng vẫn đảm bảo hoạt đông kinh doanh của Bảo Việt và quan trọng hơn nữa là vẫn được các nhà tái bảo chấp nhận. Mặt khác, Tổng công ty đã có quan hệ rất tốt với Bộ tài chính, Tổng cục đầu tư và phát triển, các ngân hàng, cục CSPCCC... Giờ đây, Bảo Việt cũng luôn luôn được sự ủng hộ của các ngân hàng. Các ngân hàng chỉ cho các doanh nghiệp vay vốn khi họ đã tham gia bảo hiểm cho tài sản của mình. Nhiều ngân hàng đã buộc các đơn vị vay tiền phải xuất trình giấy tờ chứng nhận bảo hiểm thì mới cho vay tiền. Tổng công ty cũng đã theo dõi T¹ Quang TuÊn F4-K36 26 Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp chặt chẽ các công trình đầu tư lớn, kịp thời thông báo cho địa phương. Nhiều trường hợp đã phối hợp với Tổng cục đầu tư và phát triển thông qua Bộ tài chính đề nghị Nhà nước cấp bổ sung vốn để tham gia bảo hiểm. Bảo Việt đã phối hợp chặt chẽ với một số ngành có số lượng tài sản lớn như bưu điện, y tế, công nghiệp để triển khai đồng bộ trong cả nước. Bên cạnh đó, sự thành lập các công ty môi giới bảo hiểm, các công ty bảo hiểm nước ngoài cũng có những đóng góp tích cực trong việc đem lại dịch vụ bảo hiểm cho công ty Doanh thu tăng còn được thể hiện qua bảng sau : T¹ Quang TuÊn F4-K36 27 Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Bảng : Cơ cấu doanh thu bảo hiểm Hoả hoạn tại Bảo Việt Năm Đơn vị 1999 Doanh thu BH Hoả tỷ 40,48 2000 102,04 197, đồng hoạn Doanh thu của Bảo tỷ 2001 2002 2003 392,76 417,94 5 1559, Việt đồng 1 Tỷ lệ % 2,59 3272,3 5073 7040,1 8779,1 3,12 3,89 5,58 4,76 Nguồn số liệu: Phòng bảo hiểm Hoả hoạn và kỹ thuật - Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam Tỷ lệ doanh thu của bảo hiểm Hoả hoạn so với doanh thu toàn công ty ngày càng tăng.. Năm 2003, tỷ lệ này có giảm đi một ít, nguyên nhân là do doanh thu của bảo hiểm Hoả hoạn tăng không đáng kể trong khi đó doanh thu của toàn Tổng công ty tăng (do sự tăng doanh thu của các nghiệp vụ khác như : bảo hiểm hàng xuất, bảo hiểm thân tàu, bảo hiểm thân xe ô tô...). Tuy nhiên, đến nay bảo hiểm Hoả hoạn đã là một nghiệp vụ quan trọng đem lại nguồn doanh thu không nhỏ cho Bảo Việt. 2 Tình hình chi bồi thường Ta đã biết được vai trò, ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác bồi thường trong bảo hiểm. Bồi thường chính xác, nhanh chóng là phương pháp tốt nhất để tạo ra sự tín nhiệm của khách hàng vào công ty. Quán triệt quan điểm đó, Bảo Việt đã đề ra những biện pháp về quản lý cũng như việc tiến hành công tác này sao cho có hiêụ quả nhất. Về biện pháp quản lý, quỹ chi bồi thường chiếm tỷ lệ phần trăm đáng kể trong tổng số phí thu được. Hiện nay, biểu phí bảo hiểm Hoả hoạn gồm các thành phần như sau : T¹ Quang TuÊn F4-K36 28 Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp - Chi bồi thường thường xuyên chiếm 65%. - Chi dự trữ tổn thất lớn chiếm 10% - Chi đề phòng và hạn chế tổn thất chiếm 5% - Chi quản lý và thuế doanh thu chiếm 15% - Chi hoa hồng, cộng tác viên chiếm 5%. Như vậy phần trích lập quỹ dự trữ bồi thường ( bao gồm chi bồi thường thường xuyên và chi dự trữ tổn thất lớn ) chiếm 75% tổng số phí. Cách hoạch định như vậy là rất cần thiết đối với các nhà bảo hiểm. Nó không những giúp cho việc nghiên cứu doanh thu bảo hiểm của nghiệp vụ có đủ khả năng chi trả bồi thường cho người tham gia bảo hiểm hay không, mà còn nhằm tránh sự phá sản hay thâm hụt lớn cho công ty bảo hiểm. Điều đó đã giúp cho Bảo Việt có khả năng chi trả cho những vụ tổn thât lớn. Điển hình ngày 15.7. 93, Bảo Việt đã giải quyết bồi thường nhanh chóng cho công ty 100% vốn nước ngoài SCANSIA. LTD ( Malaysia ) với số tiền bồi thường 129000 $. C ũng trong năm 93, nhà máy giày Hiệp Hưng đã bị ngọn lửa thiêu huỷ, ước tính thiệt hại khoảng 13,5 tỷ đồng, ngay lập tức Bảo Việt đã tạm ứng 5 tỷ để nhà máy kịp thời ổn định sản xuất đời sống cho công nhân. Ngoài ra, Bảo Việt còn bồi thường nhiều vụ Hoả hoạn lớn khác như bồi thường vụ Hoả hoạn chợ Đồng Xuân với số tiền bồi thường 8,2 tỷ đồng, nhà máy may Sông bé với số tiền bồi thường 17,5 tỷ đồng... Từ năm 2002 - 2003, tình hình giải quyết bồi thường tại Bảo Việt được thể hiện qua bảng sau: T¹ Quang TuÊn F4-K36 29 Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Bảng : Tình hình bồi thường thực tế của nghiệp vụ bảo hiểm Hoả hoạn Năm Số tiền bồi thường Quỹ bồi thường Tỷ lệ bồi thường (triệu đồng) (triệu đồng) thực tế (%) = (1) : (2) (1) (2) 1991 0 3448,50 - 2000 3424.68 17653,00 19,4 2001 23972,76 41329,05 70,24 2002 71918,28 107877,42 50,14 2003 143849,34 230158,94 60,25 Nguồn số liệu: Phòng bảo hiểm Hoả hoạn và kỹ thuật - Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam Nếu như trong 2 năm ( 90-91 ) không xảy ra vụ tổn thất nào thì trong các năm sau đã có nhiều vụ Hoả hoạn gây tổn thất lớn. Số tiền bồi thường ngày càng tăng do những nguyên nhân chủ yếu sau : - Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, nhiều công ty đã trang bị thêm nhiều những máy móc hiện đại,với dây chuyền sản xuất lớn, có khả năng tận dụng những nguyên vật liệu rẻ tiền hơn nhưng cũng dễ gây Hoả hoạn hơn. Khi Hoả hoạn thường trên một diện rộng vì quy mô sản xuất lớn. - Các doanh nghiệp mới chỉ đầu tư vốn vào xây dựng, sửa chữa tài sản, lắp đặt các máy móc mới chứ chưa để ý đến việc mua sắm các thiết bị an toàn, các biện pháp PCCC. - Thêm vào đó số doanh nghiệp tham gia bảo hiểm tăng nên số vụ bồi thường cũng như số tiền bồi thường tăng. Ngoài ra, theo bảng trên có thể thấy công tác bồi thường của Bảo Việt được đảm bảo. Tỷ lệ số tiền bồi thường thực tế so với quỹ dự trữ bồi T¹ Quang TuÊn F4-K36 30 Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp thường gần bằng 50 % - như vậy đảm bảo cho Bảo Việt có khả năng chi trả bồi thường cho khách hàng. Tuy vậy trong năm 2001, tỷ lệ này tăng vọt từ 19,4% lên 70,24 % do trong năm 2001 xảy ra nhiều vụ Hoả hoạn liên tiếp với mức độ tổn thất nghiêm trọng làm số tiền bồi thường năm 2001 tăng cao hơn hẳn so với các năm. Doanh thu tăng là tốt song số tiền bồi thường cũng tăng lại là một điều cần phải suy nghĩ. Những năm tới để đảm bảo đạt hiệu quả kinh doanh, Tổng Công ty cần đẩy mạnh các biện pháp đề phòng, hạn chế tổn thất không những giảm thiểu số tiền bồi thường mà còn góp phần ổn định hoạt động kinh doanh. 3 Tái bảo hiểm Với đặc thù là giá trị tài sản được bảo hiểm trong bảo hiểm Hoả hoạn rất lớn, hay có nghĩa là hạn mức trách nhiệm của công ty bảo hiểm cao, vai trò của việc thu xếp tái bảo hiểm là rất quan trọng. Ngoài các hợp đồng tái bảo hiểm cố định (treaty), hiện nay Bảo Việt cũng thực hiện nhiều hợp đồng tái bảo hiểm tạm thời (falcutative) để bảo đảm có đầy đủ khả năng tài chính bồi thường cho tổn thất thuộc phạm vi, trách nhiệm bảo hiểm. Tái bảo hiểm cũng đóng một vai trò không nhỏ trong việc tạo ra một tâm lý an tâm hơn cho các nhà đầu tư nước ngoài vì họ sẽ được đảm bảo tài chính một cách chắc chắn hơn bởi những công ty tái bảo hiểm thế giới. Trong phạm vi đề tài này, xin chỉ đề cập một vấn đề rất nhỏ của công tác tái bảo hiểm trong việc tính doanh thu thực của Bảo Việt. Như ta đã biết , do trong doanh thu một phần phải tái bảo hiểm đi cho các công ty khác nên doanh thu của Bảo Việt sẽ bị giảm xuống, doanh thu thực của công ty chỉ là mức mà Bảo Việt giữ lại. Mặt khác, khi xảy ra những tổn thất, Bảo Việt chỉ phải chịu trách nhiệm theo tỷ lệ mà họ giữ lại. Vì vậy cách tính lợi nhuận thực của Bảo Việt theo " Doanh thu - Chi phí " phức tạp hơn ( vì phải xác định doanh thu và bồi thường trong phạm vi của Bảo Việt ).Thay thế vào phương pháp phân tích lợi nhuận thực, xin được phân tích chỉ tiêu doanh thu thực như sau: T¹ Quang TuÊn F4-K36 31 Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Doanh thu thực =Mức phí giữ lại +Hoa hồng tái bảo hiểm +Thuế Trong đó : Hoa hồng tái bảo hiểm = 7,5 - 15 % phí tái bảo hiểm . Thuế = 4 % doanh thu . Doanh thu thực của Bảo Việt tăng hàng năm cũng tương ứng với sự tăng doanh thu. Nếu như trong số 4130 đơn bảo hiểm được cấp năm 1998 với số đơn được tái đi là 710 thì đến năm 2003 số dơn bảo hiểm phải tái đi đã lên tới 2030 đơn trong số 10730 đơn được cấp. Số đơn phải tái bảo hiểm trong 5 năm tăng hơn 8 lần trong khi tổng số đơn mà Bảo Việt cấp chỉ tăng 4 lần. Sự tăng tốc độ không đều này đã nói lên rằng ngày càng nhiều những doanh nghiệp mua bảo hiểm với những giá trị rất lớn. Một phần vì họ đã hiểu được mua bảo hiểm chính là công cụ hữu ích nhất giúp họ bảo toàn vốn. Phần khác nữa là vì những dự án đầu tư vào Việt Nam không còn là những khoản tiền nhỏ nữa, nó đã được mở rộng về quy mô và chất lượng. T¹ Quang TuÊn F4-K36 32 Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp CHƯƠNG III MỘT SỐ ĐỀ NGHỊ NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM HOẢ HOẠN Trong giai đoạn hiện nay sư tồn tại và phát triển của Bảo Việt nói chung hay nghiệp vụ bảo hiểm Hoả hoạn nói riêng là có một sự cố gắng nỗ lực không ngừng.Việc tìm ra những khiếm khuyết vạch ra đường đi đúng đắn là những việc cần làm ngay và là nhiệm vụ quan trong số một. Sau một thời gian tìm hiểu thực tế tại Bảo Việt, qua quá trình thu thập số liệu cũng như phân tích tình hình thực tế hoạt động kinh doanh, với mong muốn góp phần nâng cao chất lượng của nghiệp vụ bảo hiểm Hoả hoạn xin mạnh dạn đưa ra một số biện pháp kiến nghị sau: 1) Về công tác khai thác  Công tác tuyên truyền quảng cáo: Có thể nói trong những năm qua khâu khai thác bảo hiểm vẫn còn yếu. Đẩy mạnh công tác khai thác nghiên cứu thị trường là rất cần thiết. Mặc dù công tác khai thác bảo hiểm không phải là kinh doanh thuần tuý nhưng không vì thế mà không tuyên truyền quảng cáo. Với nhiều nước trên thế giới, bảo hiểm đã trở thành nhu cầu và trở thành tập quán của đời sống nhưng với nước ta tất cả mới bắt đầu. Do vậy tuyên truyền quảng cáo là hết sức quan trọng với mục đích giới thiệu các loại hình bảo hiểm. ý nghĩa và tác dụng của nó là gây danh tiếng cho Công ty và cạnh tranh khách hàng. Từ trước đến nay, Bảo Việt đã quan tâm đến hoạt động này nhưng hiệu quả chưa cao nhìn chung sự nhận thức về bảo hiểm Hoả hoạn còn thấp. Vì lẽ đó mà việc tuyên truyền nên phản ánh lại các vụ Hoả hoạn lớn và hậu quả của nó sau đó đưa ra những con số bồi thường cụ thể để từ đó làm nổi T¹ Quang TuÊn F4-K36 33 Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp bật được vai trò và sự cần thiết của bảo hiểm Hoả hoạn. Trong cơ chế thị trường khách hàng thường rất khó tính, không phải họ chấp nhận tham gia bảo hiểm ngay tại Bảo Việt, nhất là tâm lý “của ngoại” đang được ưu thích tại Việt Nam. Vì vậy công tác này đòi hỏi sự kiên trì của cán bộ khai thác phải hưỡng dẫn tận tình, nêu rõ cho khách hàng thấy rõ sự thuận lợi khi họ tham gia bảo hiểm tại Bảo Việt mà ở các Công ty khác không có. Chỉ có cách thông qua mặt mạnh như vậy, Bảo Việt mới có thể duy trì và củng cố được các mối quan hệ cũ, xây dựng mối quan hệ cũ tốt đẹp. Thu hút khách hàng qua thành phần trung gian cũng là điều quan tâm, Bảo Việt cần đẩy mạnh và mở rộng hơn nữa đối với các nghành quản lý chủ quan và nghành liên quan như Tổng cục đầu tư và phát triển, các ngân hàng thương mại, lực lượng cảnh sát PCCC, các Công ty dịnh vụ tư vấn về đầu tư, các doanh nghiệp nhà nước, tư nhân lớn...để thông qua những đối tượng này Bảo Việt giới thiệu sản phẩm bảo hiểm hoả hoạn với khách hàng. Ngoài ra cần quan hệ chặt chẽ hơn với các Công ty bảo hiểm địa phương. Đây là những tiềm năng to lớn mà Bảo Việt cần khai thác. Hoả hoạn chợ đã trở thành nạn dịch nhưng thực tế bảo hiểm Hoả hoạn ở chợ chưa được khai thác là bao. Do vậy Bảo Việt cần đi sâu khai thác sức mua bảo hiểm của các hộ kinh doanh ở chợ, các khu vực triển lãm cũng như các hộ nhà dân...Ngoài ra cần phải chú ý vào các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Thực tế số lượng những doanh nghiệp này ỏ nước ta là rất lớn nhưng phần lớn chưa tham gia bảo hiểm. Đây là phần thị trường rất hoang sơ và là điểm trọng tâm cần khai thác trong giai đoạn tới. Ngoài ra Bảo Việt nên áp dụng bảo hiểm Hoả hoạn ở những bãi đỗ xe của nhà nước cũng như của tư nhân thành bảo hiểm bắt buộc.  Về hoa hồng: Đối vơi các Công ty môi giới những cộng tác viên hoặc cá nhân đứng ra mua bảo hiểm cũng cần có những chính sách hoa hồng thoả đáng cho họ. Trong cạch tranh hai doanh nghiệp bảo hiểm có điều kiện bảo hiểm và tỷ lệ phí bảo hiểm như nhau người T¹ Quang TuÊn F4-K36 34 Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp mua bảo hiểm và các môi giới sẽ đến với doanh nghiệp nào có tỷ lệ hoa hồng cao hơn vì vậy chính sách hoa hồng hết sức linh hoạt và hấp dẫn, phải căn cứ vào hiệu quả mà quyết định hoa hồng. Đối với các tổ chức cá nhân có liên quan hỗ trợ cho Bảo Việt dành dịnh vụ thì phải có những ưu đãi đặc biệt.  Về phạm vi bảo hiểm: Cải tiến nâng cao chất lượng sản phẩm có sẵn để đáp ứng được nhu cầu của khách hàng là một trong những nhiệm vụ được đề ra. Song không vì thế mà khách hàng yêu cầu gì ta cũng chấp nhận. Hết sức hạn chế những đối tượng có điểm chuẩn PCCC loại trung bình, kiên quyết không nhận bảo hiểm theo lối chọn điểm, tức là người bảo hiểm chỉ mua bảo hiểm cho những phân xưởng, công đoạn sản xuất có nhiều rủi ro nhất. Ngoài ra có thể bảo hiểm nhưng phải xem xét thận trọng khi nhận hợp đồng bảo hiểm lũ lụt đối với những công trình kiên cố, xây dựng bê tông cốt thép... 2)Công tác giám định và giải quyết bồi thường.  Về công tác giám định: Bảo Việt nên tổ chức những khoá học nâng cao trình độ chuyên môn, chất lượng phục vụ của các giám định song bên cạch đó phai duy trì mở rộng các mối quan hệ với các Công ty giám định, các đội ngũ chuyên gia trong mọi lĩnh vực. Trong khi làm công tác giám định tạo niềm tin cho khách hàng các cán bộ phải quán triệt quan điểm” khách quan, vô tư ” phản ánh đúng và toàn bộ sự việc, diễn biến gây ra rủi ro. Đồng thời phải có sự đúc kết và tổng hợp thành sổ tay giám định nghiệp vụ bảo hiểm hoả hoạn để các giám định viên dễ dàng tra cứu và đưa ra kết luận chính xác.  Về công tác bồi thường: Khách hàng chỉ nhận thấy rõ tác dụng của bảo hiểm nhất là khi họ gặp rủi ro. Trách nhiệm của Bảo Việt lúc này là phải bồi thường. Khẩu hiệu “ Bồi thường nhanh chóng chính xác và công bằng “ phải hoàn toàn tuân theo trong mọi trường hợp vì đây là lĩnh vực tuyên truyền quảng cáo có hiệu quả nhất gây uy tín cho T¹ Quang TuÊn F4-K36 35 Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Công ty bằng sự việc cụ thể chứ không phải bằng những lời nói suông. Song song với việc phục vụ tốt khách hàng, Bảo Việt cần tăng cường bổ sung quỹ dự trữ bồi thường bằng cách đầu tư vốn nhàn rỗi như: mua công trái nhà nước, mua bất động sản cho vay có thế chấp. Trong thực tế thủ tục về công tác bồi thường còn rất rườm rà và phức tạp và tốn khá nhiều thời gian. Bảo Việt cần phải có tài liệu về hưỡng dẫn giải quyết bồi thường cho khách hàng như hướng dẫn cụ thể khi yêu cầu bồi thường, khách hàng cần thiết phải làm ngay những công việc gì, phải nộp ngay những giấy tờ gì 3) Công tác đề phòng và hạn chế tổn thất Ta đã biết một nguyên nhân làm cho hoạt đông kinh doanh của nghiệp vụ chưa đạt hiệu quả tối ưu- đó là thực hiện chưa tốt công tác PCCC. Để làm tốt công tác này, Công ty cần phải kết hợp chặt chẽ hơn nữa phòng cảnh sát PCCC các cấp chính quyền và ban nghành để kiểm tra tình hình thực hiện PCCC ở các đơn vị. Với các xí nghiệp sản xuất, qua việc phối hợp với công an PCCC để có yêu cầu cụ thể về phương tiện PCCC, lập thêm các phương an chữa Hoả hoạn cho các cơ sở trọng điểm. Cần cho khách hàng hiểu rằng không phải tham gia bảo hiểm là dồn hết trách nhiệm cho người bảo hiểm mà bản thân họ phải có trách nhiệm bố trí và quản lý tài sản tốt, có kế hoạch chữa Hoả hoạn được cảnh sát PCCC thông qua, thường xuyên tụ bảo đưỡng nhà cửa trang thiết bị. Số phí bảo hiểm Công ty phải trả sẽ thấp hơn nếu như công tác PCCC của đơn vị được thực hiện tốt theo đúng yêu cầu. Ngoài ra phải hưỡng dẫn các địa phương chi tiết về phòng và hạn chế tổn thất vì hầu hết họ gần như không chi về khoản này. Trong điều kiện cạnh tranh hiện nay, việc chi đề phòng hạn chế tổn thất lại có tác dụng khuyến khích, giữ khách hàng rất quan trọng. Vì vậy các địa phương cần xác định rõ tỷ lệ được phép chi bồi thường và hạn chế tổn thất. T¹ Quang TuÊn F4-K36 36 Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Công ty cũng cần có một khoản chi hợp lý cho công tác đề phòng hạn chét tổn thất ở các đơn vị tham gia bảo hiểm , coi như trợ giúp một phần cho họ trong việc trang bị phượng tiện PCCC, nâng cao chất lượng đề phòng hạn chế tổn thất. Hầu hết các vụ Hoả hoạn kiện mang nguyên nhân là do chập điện nên trước khi cấp đơn bảo hiểm phải kiểm tra hệ thống điện. Có thể phải chi phí để làm lại hệ thống điện này, nhưng chi phí đó nhỏ hơn rất nhiều so với số tiền bồi thường nếu có tổn thất xảy ra. 4) Công tác tính phí Hoạt động bảo hiểm Hoả hoạn và gián đoạn kinh doanh là một hình thức kinh doanh dịnh vụ, quỹ dùng để chi trả dịnh vụ được hình thành từ việc đóng góp của người bảo hiểm dưới dạng phí bảo hiểm. Vì vậy, việc tích phí phải đảm bảo chi trả bồi thường đảm bảo kinh doanh có lãi, đông thời phải tạo được mức phí có khả năng cạnh trạnh được với các công ty ở nước ngoài. Sẽ cho hoàn toàn đúng nếu cho rằng biểu phí bảo hiểm hoả hoạn hiện hành mà Bảo Việt áp dụng là hoàn thiện sự biến đổi của thị trương hoạt động của đối thủ canh tranh sẽ làm cho giá cả của bảo hiểm hoả hoạn thay đổi. Vì vậy khi đưa ra mức phí cần phải thường xuyên xem xét , giám sát theo dõi tỷ lệ phí của đối thủ cạnh tranh đồng thời phải theo sat biến động của các ruỉ ro, tỷ lệ lạm phát. Nên tìm cách hạ phí xuống vì đây là cách cạch tranh có hiệu quả nhất. Tuy nhiên nó vấp phải giới hạn dưới đó là tối thiểu phí thu phải đủ trả cho bồi thường. Đặc biệt hạ phí cho các toà nhà xây dựng, mới xây dựng để cho thuê các văn phòng đại diện, các Công ty xây dựng bằng vật liệu không Hoả hoạn...ít nhất phải thấp hơn so với các Công ty bảo hiểm khác. Đôi khi phải chấp nhận hạ phí thấp hơn so với số liệu thống kê để thu hút đông đảo khách hàng trên cơ sở số đông bù số ít mà vẫn đảm bảo nghiệp vụ kinh doanh. Theo như thoả thuận với chuyên gia của EU, trong năm tới đây EU sẽ giúp Bảo Việt nâng cao cải tiến sản phẩm Hoả hoạn về mẫu đơn, phạm vi T¹ Quang TuÊn F4-K36 37 Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp bảo hiểm và mức phí. Tuy nhiên không vì thế mà ỷ lại áp dụng y nguyên máy móc, mà phải cải cách sửa đổi cho đúng phù hợp với tình hình Việt Nam. Bảo Việt cần phải nghiên cứu chính sách phí phân biệt với từng loại khách hàng. Đối với các khách hàng thường xuyên có mối quan hệ lâu dài, những khách hàng lớn cần được ưu tiên hơn những khách hàng mới và nhỏ. Hiện nay, tỷ trọng chi phí quản lý bảo hiểm vẫn còn lớn. Để khắc phục tình trạng này Bảo Việt cần phải nghiên cứu những hình thức đầu tư nguồn doanh thu vào các hoạt động kinh doanh để tăng lợi nhuận đẻ tử đó có cơ sở giảm ty trọng chi quản lý. Không chỉ đơn thuần gửi tiền vào ngân hàng, kinh doanh bất động sản mà Bảo Việt còn góp vốn cùng kinh doanh với các tổ chức trong và ngoài nước. Bảo Việt nên đề nghị với bộ tài chính đưa ra một hành lang phí cụ thể. Điều này không ngừng tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh mà còn tạo điều kiện cho các Công ty bảo hiểm khẳng định mình. Công ty mạnh sẽ giành được thị trường và khách hàng chấp nhận. 5) Công tác cán bộ Đào tạo cán bộ giỏi nghiệp vụ là vấn đề Công ty cần quan tâm. Bảo hiểm hoả hoạn là loại bảo hiểm cần giao dịnh với nhiều Công ty nước ngoài, nhưng do đây là nghiệp vụ mới cho nên cán bộ giỏi về nghiệp vụ này còn ít ỏi lại thêm trình độ về tiếng anh, máy tính chưa thành thạo nên khó có thể giao dịnh với nước ngoài. Cũng cần thấy rằng cán bộ giỏi nghiệp vụ thì không những thực hiện công tác một cách nhanh chóng, trôi chảy mà nếu khi khách hàng thắc mắc yêu cầu gì cán bộ có thể giải đáp một cách rõ ràng, tạo niềm tin cho khách hàng. Một mặt nữa có một cán bộ giỏi nghiệp vụ có trình độ tiếng anh thành thạo, Công ty có khẳ năng xâm nhập thị trường nhanh chóng trực tiếp đỡ tốn kém không phải qua con đường môi giới. Trên thực tế , trình độ của cán bộ địa phương còn rất kém vì thế Công ty cần tổ chức thêm những đợt tập huấn, đào tạo hưỡng dấn cán bộ ở địa T¹ Quang TuÊn F4-K36 38 Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp phương để nâng cao trình độ nghiệp vụ. Ngoài ra cần phát hiện và nhin nhận đúng đắn năng lực, trình độ của từng cán bộ mà có chính sách đãi ngộ, sự ưu tiên thích đáng. 6) Thúc đẩy các doanh nghiệp tham gia bảo hiểm là biện pháp để bảo toàn vốn Tiến trình cải cách đang đặt nền kinh tế Việt Nam phải đương đầu với một giai đoạn mà trong đó tổng vốn được coi là bàn đạp thúc đẩy hết sức quan trọng. Bởi lẽ nhìn vào cơ sở hạ tầng còn rệu rã, chúng ta có thể thấy được nền kinh tế đang cần rất nhiều vốn để cải tạo nâng cấp đường bộ, đường sắt, sân bay...Và còn biét bao dự án khác. Huy động vốn , giao vốn, bảo toàn vốn và phát triển vốn là sự cần thiết trước hết xuất phát từ cơ chế quản lý kinh tế đối với các xí nghiệp quốc doanh. Chuyển sang nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp quốc doanh hoạt động theo phương thức hoạch toán kinh doanh, đòi hỏi phải bảo toàn giữ gìn số vốn được nhà nước đầu tư, tự bổ sung và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn vốn được tài trợ. Hiện nay nước ta đang cần rất nhiều vốn, vì vậy ngoài việc huy động vốn trong nước ta phải huy động thêm vốn nước ngoài. Điều đó càng làm cho việc bảo toàn và phát triển vốn trở nên quan trọng. Giao vốn là việc xác định rõ quyền hạn và trách nhiệm trong sở hữu quản lý và sử dụng vốn. Giao vốn tạo ra sử chủ động cho các doanh nghiệp đồng thời cũng gắn trách nhiệm của xí nghiệp đối với việc bảo toàn và phát triển vốn. Việc huy động vốn đã là khó song việc bảo toàn và phát triển vốn là khó khăn hơn nhiều. Để bảo toàn và phát triển vốn, các chủ doanh nghiệp lập ra các phương án, kế hoạch kinh doanh sao cho thích hợp. Ngoài ra việc giao vốn các doanh nghiệp phải tự chủ trong kinh doanh kể cả tự chiu rủi ro và thiên tai bất ngờ ảnh hưởng không tốt đến khẳ năng bảo toàn vốn. Trong trường hợp này thì tham gia bảo hiểm là trường hợp hữu hiệu nhất. Từ khi xoá bỏ cơ chế bao cấp, chính phủ đã chủ trương phát triển T¹ Quang TuÊn F4-K36 39 Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp mạnh mẽ các khâu bảo hiểm nhằm làm dảm nhẹ gách nặng cho ngân sách. Vì lẽ đó trong bối cảnh mới, cần nhận thức đúng vị trí nghành kinh doanh bảo hiểm. Nhiều doanh nghiệp hiện nay tham gia bảo hiểm vì họ chỉ nghĩ đơn giản là họ sẽ được bồi thường khi không may rủi ro xảy ra chứ phần lớn doanh nghiệp không biết rằng tham gia bảo hiểm là số vốn của họ được bảo toàn. Do yêu cầu bức bách đặt ra đối với bảo hiểm Hoả hoạn không chỉ dừng lại ở chỗ khai thác phục vụ khách hàng tốt mà còn phải nêu bật được vai trò của mình qua việc bảo toàn vốn. Có như vậy , các doanh nghiệp mới hiểu được đầy đủ căn kẽ về ý nghĩa và bản chất của bảo hiểm. Điều cuối cùng muốn nói ở đây là bất kể nguồn vốn nào cũng đều là kết tinh của sức lao động, là tài sản của nguồn vốn cho nên mọi chính sách, chế độ, mọi quan hệ phải được xây dựng trên cơ sở tôn trọng giá trị của đồng vốn, giúp người có vốn không những bảo toàn được giá trị của nó mà làm cho no sinh lời và có quyền hưởng phần lợi nhuận chính đáng đó. Tôn trọng quan tâm điều đó, Bảo Việt với nghiệp vụ Hoả hoạn sẽ cố gắng hết sức góp phần của mình vào bảo toàn vốn cho các doanh nghiệp nói riêng và cho toàn bộ nền kinh tế nói chung. T¹ Quang TuÊn F4-K36 40
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan