§¹i häc Kinh tÕ quèc d©n
LuËn v¨n tèt nghiÖp
tượng hưởng BHXH kịp thời, đầy đủ, đúng đối tượng và đúng chế độ chính
sách. Theo quy định cơ quan BHXH cấp tỉnh chỉ chịu trách nhiệm chi trả trợ
cấp ốm đau, thai sản và trợ cấp một lần cho các đối tượng hưởng mà đơn vị
sử dụng mà cơ quan BHXH cấp tỉnh đã thu đóng góp. Cơ quan BHXH cấp
huyện chi trả trợ cấp ốm đau, thai sản và các trợ cấp một lần cho các đơn vị
sử dụng lao động mà cơ quan BHXH cấp huyện đã thu đóng góp. BHXH
huyện cũng chi trợ cấp định kì liên quan đến các chế độ tai nạn lao động và
bệnh nghề nghiệp, hưu tuổi già, tử tuất cho các đối tượng trên địa bàn quản lí
và chi trả trợ cấp cho cán bộ xã phường thị trấn đã tham gia BHXH. Như
vậy là đã có sự phân cấp cụ thể cho từng cấp quản lí, ngoài ra để thực hiện
quản lí việc chi trả trợ cấp cơ quan BHXH các cấp còn phải lập các báo cáo
và tổng hợp các khoản chi trợ cấp để nộp lên cơ quan BHXH cấp trên theo
định kì. Dựa vào các báo cáo này mà cơ quan BHXH cấp trên sẽ thực hiện
thẩm định, xét duyệt chi trợ cấp BHXH theo đúng quy định hiện hành.
2.1.2. Phương thức chi trả.
Như chúng ta đã biết việc chi trả trợ cấp hiện nay có hai phương thức
chính để chi trả, mỗi phương thức đều có những ưu điểm và nhược điểm
riêng, tuỳ thuộc vào hoàn cảnh mà chúng ta nên lựa chọn cho phủ hợp. Tại
Việt Nam hiện nay phương thức chi trả gián tiếp thông qua hệ thốnh đại lí
chi trả là phổ biến nhất. Hệ thống đại lí chi trả hầu hết là quan hệ dựa trên
hợp đồng lao động và thường là chính người sử dụng lao động, cán bộ xã
phường, bưu điện hoặc ngân hàng. Thường các đại lí chi trả là người sử
dụng lao động được BHXH Việt Nam sử dụng cho việc chi trả cho các trợ
cấp ngắn hạn như ốm đau, tai nạn, bệnh nghề nghiệp... rất tiện lợi. Các đại lí
còn lại phù hợp hơn với các chế độ dài hạn. Với điều kiện như hiện nay của
Việt Nam thì phương thức chi trả như vậy là hợp lí, chi phí thấp, tiện lợi đối
với người được hưởng trợ cấp.
Cùng với sự phát triển của nước ta như hiện nay BHXH cũng cần
nghiên cứu và xem xét tới các phương thức thanh toán khác như chi trả gián
tiếp qua hệ thống tài khoản ngân hàng. Với sự phát triển của hệ thống ngân
hàng như hiện nay thì tại các thành phố có thể nghiên cứu và ứng dụng chó
§¹i häc Kinh tÕ quèc d©n
LuËn v¨n tèt nghiÖp
phương pháp chi trả hiện đại này. Ưu điểm lớn nhất của phương thức này là
nhanh chóng và tiết kiệm chi phí.
2.1.3. Quản lí đối tượng được hưởng và số tiền chi trả.
Quản lí chi trả trợ cấp BHXH yêu cầu cơ quan BHXH quản lí đối
tượng được hưởng theo từng loại chế độ, tình hình biến động tăng giảm và
kiểm tra xác định đúng đối tượng hưởng, quản lí số tiền chi trả theo từng kì
thanh toán và đảm bảo an toàn nguồn tiền mặt trong suốt quá trình chi trả.
- Quản lí người phụ thuộc: ngay từ khi thực hiện việc đăng kí tham gia
BHXH và ghi hồ sơ, phải cập nhật các thông tin chính xác về đối tượng phụ
thuộc đủ điều kiện hưởng trợ cấp.
- Lập báo cáo thống kê định kì về đối tưọng hưởng BHXH riêng cho
từng loại trợ cấp định kì hay một lần, chi tiết theo từng loại chế độ và tách
riêng theo từng đối tượng hưởng từ NSNN hay từ quỹ BHXH.
- Thiết kế, cải tiến và sửa đổi thủ tục xét hưởng trợ cấp đảm bảo đơn
giảm, khoa học nhưng vẫn nhanh chóng và chính xác. Kiểm tra kĩ các điều
kiện hưởng BHXH dựa vào các quy định về điều kiện hưởng cán bộ sẽ xem
xét tư cách được hưởng của đối tượng và nhanh chóng ra quyết định từ chối
hay chấp nhận trợ cấp. Để đảm bảo công việc trên được thực hiện nhanh
chóng và chính xác yêu cầu cán bộ xét hưởng phải có trình độ và đạo đức tốt
và nhận thức rõ được tầm quan trọng của công việc.
- Thu hồi số tiền chi sai nếu có căn cứ chính xác, xác định việc giả mạo
hồ sơ giấy tờ để được hưởng trợ cấp BHXH. Khi đó cơ quan BHXH phải
ngừng ngay việc thực hiện chi trợ cấp và nhanh chónh thu hồi số tiền đã chi
sai về đồng thời nhanh chóng có biện pháp xử lí thích đáng.
Kết quả chi BHXH Việt Nam thực hiện sau đổi mới 1995 được thể
hiện ở bảng số liệu 3.
Bảng 3: Tình hình chi các chế độ BHXH từ 1995- 2004.
Năm
Tổng chi BHXH
( triệu đồng)
Tỉ trọng từ
NSNN (%)
Tỉ trọng từ quỹ
BHXH (%)
Chi
BHYT
(%)
§¹i häc Kinh tÕ quèc d©n
LuËn v¨n tèt nghiÖp
1995
1.153.984
96
4
-
1996
4.711.054
92
8
-
1997
5.756.618
90
10
-
1998
5.885.055
87
13
-
1999
5.955.971
84
16
-
2000
7.574.775
82
18
-
2001
9.215.061
79
21
-
2002
9.480.875
74
26
-
2003
15.934.778
62
31
7
2004
16.832.957
60
29
11
( Nguồn BHXH Việt Nam)
Qua bảng 3 ta có thể nhận thấy BHXH Việt Nam số chi ngày càng
tăng đặc biệt là từ năm 2003 khi chi BHYT được tính vào chi BHXH. Tình
hình chi của BHXH Việt Nam có nhiều phức tạp vì những người về hưu
trước năm 1995 còn hưởng các chế độ do NSNN cấp, quỹ BHXH chỉ chi trợ
cấp cho các lao động về hưu sau 1995. Đặc biệt năm 2002 BHYT chính thức
chuyển sang BHXH nên chi còn bao gồm cả mảng BHYT. Tỉ trọng chi từ
nguồn ngân sách giảm, chi từ quỹ BHXH tăng đều, điều này cũng phù hợp
với thực tiễn đối tượng chi trả của NSNN theo thời gian giảm dần, các đối
tượng chi trả của quỹ BHXH ngày càng tăng. Theo tình hình như hiện nay
thì chi từ NSNN sẽ giảm và theo dự tính 2050 thì các đối tượng này sẽ giảm
hết và chi từ quỹ BHXH sẽ chiếm 100%, lúc đó NSNN chỉ đóng vài trò hỗ
trợ trong trường hợp cần thiết.
Năm 2004, toàn ngành giải quyết cho 93.289 người hưởng trợ cấp
định kì, trong đó có 70.000 người hưởng chế độ hưu trí và giải quyết cho
159.989 lượt người hưởng trợ cấp một lần tăng 20.7% so với năm 2003. Khó
khăn trong công tác này là sau khi nghỉ lao động nhiều người đã chuyển đến
nơi khác vậy nên việc giải quyết các trợ cấp một lần là còn nhiều tồn đọng.
2.2. Chi quản lí hoạt động bộ máy.
§¹i häc Kinh tÕ quèc d©n
LuËn v¨n tèt nghiÖp
Theo quy chế tài chính hiện nay có quy định chi quản lí hoạt động của
hệ thống BHXH Việt Nam được chia làm hai phần chính là chi thường
xuyên và kinh phí mua sắm tài sản có định, xây dựng cơ sở vật chất. Chi
thường xuyên là khoản chi bao gồm cả chi phí nghiên cứu khoa học, đào tạo
và đào tạo lại. Khoản chi này được trích từ tiền sinh lời do thực hiện các
biện pháp bảo tồn và tăng trưởng quỹ, mức trích bằng 4% trên số thực thu
của BHXH và BHYT được áp dụng đến năm 2005. Chi xây dựng cơ sở vật
chất, mua sắm tài sản cố định là khoản chi được trích từ tiền sinh lời do thực
hiện các biện pháp bảo tồn và tăng trưởng quỹ.
Chi phí quản lí của hệ thống BHXH Việt Nam do Hội đồng quản lí
quyết định trên cơ sở định mức, tiêu chuẩn hiện hành của Nhà nước Việt
Nam và hoạt động đặc thu của ngàn, đảm bảo nguyên tắc tiết kiệm có hiệu
quả. BHXH Việt Nam có trách nhiệm phân bổ chi phí quản lí cho BHXH
các cấp phù hợp với nhiệm vụ được giao, đảm bảo kinh phí phân bổ cho
BHXH các cấp không được vượt quá so với tổng mức.
Nội dung quản lí chi hoạt động thường xuyên tập chung vào các nội
dung cụ thể sau:
+ Quản lí lao động và quỹ lương đối với các đơn vị, cơ quan BHXH.
+ Quản lí chi cho công tác tuyên truyền về chính sách BHXH.
+ Quản lí chi hoạt động nghiệp vụ: chi cho công tác thu, chi BHXH;
chi tiếp khách.
+ Quản lí kinh phí cấp cho đào tạo và đào tạo lại cán bộ công nhân
viên.
+ Quản lí chi cho các chuyến công tác.
+ Ngoài ra BHXH Việt Nam còn thực hiện quản lí chi hỗ trợ đời sống
cho cán bộ, chi hỏi thăm các đối tượng được hưởng các chế độ.
Chi hoạt động được BHXH Việt Nam cân đối góp phần ổn định cuộc
sống của đội ngũ nhân viên trong ngành, cải thiện trang thiết bị làm việc
giúp cho việc quản lí các đối tượng, lưu trữ thông tin, ... tốt hơn. Đặc biệt là
việc nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng của BHXH như trụ sở BHXH Việt
§¹i häc Kinh tÕ quèc d©n
LuËn v¨n tèt nghiÖp
Nam, trụ sở BHXH ở cả các tỉnh và huyện đã được nâng cấp, xây mới và
đang dần hoàn thiện đồng bộ. Các khoản chi là đúng với quy định của Nhà
nước. Sau đây là những số liệu về chi quản lí trong một vài năm qua:
Bảng 4: Tình hình chi quản lí BHXH Việt Nam giai đoạn 2001-2004.
Năm
2001
2002
2003
2004
Tổng chi (triệu đồng)
238.092
279.240
572.359
512.000
Tốc độ tăng chi (%)
-----
17,28
104,97
- 10.70
(Nguồn BHXH Việt Nam)
Qua bảng 4 ta có thể nhận thấy số chi quản lí của BHXH Việt Nam
ngày càng tăng đặc biệt là số chi của năm 2003 tăng gần gấp đôi số chi của
năm 2002. Song số chi của năm 2004 đã giảm so với năm 2004, như vậy là
BHXH đã có những điều chỉnh kịp thời tránh được tình trạng bội chi quá
lớn.
3. Quản lí hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ.
Hiện nay BHXH Việt Nam có quản lí quỹ dựa trên các tài khoản mở
tại ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam và tại Kho bạc
Nhà nước. Theo quy định hiện nay thì số dư trong quỹ BHXH được dùng để
đầu tư tăng trưởng nhằm mục đích bảo tồn và tăng trưởng quỹ. Đây cũng là
một hoạt động hữu hiệu để đảm bảo chi mà không phải tăng thu, hơn nữa
đây cũng là một nguồn thu rất lớn của BHXH Việt Nam. Đối với hoạt động
đầu tư tăng trưởng quỹ phải đảm bảo được yêu cầu an toàn, bảo tồn được giá
trị và có hiệu quả về kinh tế- xã hội. Năm 1996 hoạt động đầu tư mới chỉ
dừng lại ở việc nhận lãi suất 0,3% theo quy định hưởng lãi suất không kì hạn
thì đến năm 1997 các biện pháp bảo toàn và tăng trưởng quỹ đã được mở
rộng, hiện nay hoạt động này gồm có:
+ Mua trái phiếu, tín phiếu, kì phiếu, công trái của Kho bạc Nhà nước
và các ngân hàng thương mại của Nhà nước.
+ Cho NSNN, Quỹ hỗ trợ đầu tư phát triển, các ngân hàng thương mại
của Nhà nước, ngân hàng chính sách vay.
§¹i häc Kinh tÕ quèc d©n
LuËn v¨n tèt nghiÖp
+ Đầu tư vào một số dự án có nhu cầu về vốn do Thủ tướng Chính
phủ quyết định.
Nhìn chung công tác đầu tư tăng trưởng quỹ đã được triển khai thực
hiện ở BHXH Việt Nam, đây cũng là mảng hoạt động quan trọng và bước
đầu đã đem lại những hiệu quả nhất định. Tại BHXH Việt Nam hoạt động
này do Ban kế hoạch- tài chính thưc hiện, theo những đánh giá chung thì số
tiền lãi đã có những đóng góp đáng kể vào chi tiêu xây dựng cơ sở vật chất
kĩ thuật, tríc lập Quỹ khen thưởng, phúc lợi ... . Hoạt động đầu tư được tiến
hành quản lí để đảm bảo được hoạt động theo đúng danh mục, quản lí quá
trình xây dựng và thẩm định để đưa ra những phương án khả thi và có hệu
quả nhất. Kết quả hoạt động đầu tư quỹ BHXH Việt Nam qua những năm
vừa qua được thể hiện ở bảng 5.
Bảng 5: Lãi hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH Việt Nam.
Năm
Lãi thu trong năm
(triệu đồng)
Tăng trưởng lãi
(triệu đồng)
Tỉ lệ tăng trưởng
lãi (%)
1997
209.800
209.800
1998
472.579
262.779
78,84
1999
665.715
193.136
40,86
2000
824.164
158.449
23,80
2001
870.942
46.778
5,68
2002
1.300.100
360.100
41,35
2003
1.911.000
611.000
47,00
2004
2.197.302
268.302
14,04
( Nguồn BHXH Việt Nam)
Từ bảng trên ta có thể thấy được tình hình thực hiện của công tác đầu
tư tăng trưởng quỹ đã có những bước tiến đáng kể. Tuy năm 2001là năm
hoạt động có số lãi tăng lên là nhỏ nhất nhưng những năm gần đây số lãi đầu
tư đang tăng dần, đặc biệt là năm 2004 số lãi đầu tư đã lên tới 2.197.302
triệu đồng. Như vậy, đầu tư chiếm một vị trí quan trọng trong tổng thu
§¹i häc Kinh tÕ quèc d©n
LuËn v¨n tèt nghiÖp
BHXH và đặc biệt trong những năm tới chắc chắn vai trò của hoạt động đầu
tư còn phải lớn hơn nữa. Ba năm gần đây tỉ lệ tăng trưởng lãi đầu tư của
BHXH là tương đối cao, ổn định ở mức tỉ lệ là sấp sỉ 40%. Riêng có năm
2004 vừa qua tỉ lệ lãi đầu tư chưa cao vì tình hình giá cả trong nước có nhiều
biến động. Tỉ lệ lạm phát tăng khá cao, thị trường tài chính biến động mạnh.
Sang đầu năm 2005 Nhà nước ta đã có những biện pháp đối với thì trường
tiền tệ. Hiện nay NHNN đang sử dụng chính sách tiền tệ thắt chặt, nâng lãi
suất đầu tư của Việt Nam đồng. Có thể trong năm 2005 này số thu lãi đầu tư
của BHXH Việt Nam sẽ cao hơn.
3. Quản lí hoạt động cân đối quỹ BHXH.
Sau Nghị định 12/CP được thực hiện, quỹ BHXH Việt Nam mới
chính thức đi vào hoạt động và được quản lí thống nhất, hạch toán độc lập
với NSNN. BHXH là một chính sách xã hội, hệ thống BHXH hoạt động
không vì mục tiêu lợi nhuận mà hoạt động vì mục tiêu xã hội, do vậy quỹ
BHXH hoạt động và được bằng thu chi hợp lí (tthu bù chi). Để quản lí tốt
việc cân đối thu chi quỹ trước hết ta phải quản lí tốt các hoạt động thu, chi
BHXH và cả hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ. Trên lí thuyết là như vậy
song quá trình thực hiện quả là khó khăn bởi thứ nhất là đặc trưng của ngành
này là thu trước chi sau, các khoản chi ta không thể xác định chính xác ngay
khi triển khai để xác định mức thu cho hợp lí. Hơn nữa điều kiện kinh tế xã
hội thì luôn luôn vận động không ngừng, các biến cố có thể xảy ra mà chúng
ta không thể điều kiển được.
Đặc biệt là ở Việt Nam hiện nay, BHXH được hoạt động theo nguyên
tắc tài chính PAYGO đối với chế độ hưu trí. Tức là các khoản thu trong năm
sẽ dùng để chi trả cho các khoản chi trong năm đó. Nhìn chung hệ thống tài
chính BHXH theo cơ chế PAYGO hầu như không có hoặc có rất ít các
khoản tích luỹ cho các giai đoạn sau, việc quản lí là rất đơn giản. Đối với cơ
chế quản lí tài chính này, chu kì thực hiện được chia làm 3 giai đoạn sau:
- Giai đoạn thanh niên: là giai đoạn khoảng 20 năm sau khi bắt đầu áp
dụng cơ chế nay (ở Việt Nam là khoảng thời gian từ 1995- 2015). Giai đoạn
này chưa có nhiều người về hưu, số người tham gia tăng, như vậy là số
người phụ thuộc ít, tỉ lệ thay thế cao dẫn đến tỉ lệ đóng góp thấp.
§¹i häc Kinh tÕ quèc d©n
LuËn v¨n tèt nghiÖp
- Giai đoạn già hoá: là khoảng 30 năm tiếp theo giai đoạn thanh niên (ở
Việt Nam là khoảng thời gian từ 2015- 2045). Giai đoạn này số người về
hưu tăng, tỉ lệ phụ thuộc tăng, để đảm bảo cân đối thu chi người ta có thể
dùng hai cách hoặc giảm tỉ lệ thay thế hoặc là tăng tỉ lệ đóng góp.
- Giai đoạn già hoá hoàn toàn: là giai đoạn khoảng trên 50 áp dụng chế
độ PAYGO như vậy ở Việt Nam là khoảng từ 2045 trở đi. Giai đoạn này tỉ
lệ phụ thuộc tăng lên rất cao và tỉ lệ đóng góp buộc phải tăng lên.
Theo dự báo thì BHXH Việt Nam đến khoảng năm 20036 là bắt đầu
chuyển sang giai đoạn già hoá (tức là thu không đủ chi, số dư quỹ sẽ âm).
Dự tính, quỹ BHXH Việt Nam sẽ phát triển đến tận năm 2022, tại đây số dư
quỹ sẽ lớn nhất. Nếu tỉ lệ tham gia BHXH thực hiện theo xu thế như hiện
nay thì đối tượng tham gia BHXH đến năm 2020 vào khoảng 15 triệu người,
đến năm 2030 là 22,4 triệu người và năm 2040 là khoảng 31 triệu người.
Tương đương với đó, số dư dự kiến của BHXH Việt Nam vào năm 2022 là
khoảng 200.000 tỷ đồng, sau đó sẽ giảm dần và đến năm 2036 dự kiến sẽ
âm. Do vậy vấn đề nêu ra hiện nay là quỹ BHXH đang tồn dư lớn, BHXH
Việt Nam ngay từ lúc này nên thực hiện các biện pháp, hoạch định chính
sách cho tương lai thâm hụt quỹ không xa.
Chế độ quản lí tài chính như vậy có ưu điểm là đơn giản song lại cũng
có nhiều nhược điểm cần khắc phục như sự tồn tại quỹ, quyền lợi của người
lao động và ngay cả những tác động không tốt đến nền kinh tế. Tuy nhiên ở
nước ta, chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy đây là lựa chọn chuyển cơ chế
quản lí tài chính sang cơ chế quản lí có đầu tư. Thực hiện các hoạt động đầu
tư để giảm những hạn chế của cơ chế quản lí này. Như vậy đầu tư là việc
làm rất quan trọng đối với việc cân đối quỹ BHXH cả hiện nay và trong
tương lai. Thu từ đầu tư có thể giúp bảo toàn giá trị quỹ và giúp chúng tăng
trưởng bù đắp được sự mất giá của đồng tiền do lạm phát. Chúng ta có thể
thấy được hoạt động cân đối quỹ BHXH Việt Nam được thực hiện trong
những năm qua:
Bảng 6: Tình hình cân đối quỹ BHXH Việt Nam từ 1995- 2004.
( triệu đồng)
§¹i häc Kinh tÕ quèc d©n
LuËn v¨n tèt nghiÖp
Năm
Số dư năm
trước
Số thu trong
năm
Tổng thu
Tổng chi
Số dư cuối
năm
1995
0
788486
788486
41954
746532
1996
746532
2569733
3316265
383150
2933115
1997
2933115
3724269
6657384
693525
5963862
1998
5963862
4394569
10358431
971630
9386801
1999
9386801
4867167
14253968
1200351
13053635
2000
13053635
6032387
19086022
1606783
17479239
2001
17479239
7229810
24709049
2381915
22327134
2002
22327134
8117437
30444571
2606542
50165163
2003
50165163
13565660
63730823
6150010
57580813
2004
57580813
15365802
73046615
7021000
66025615
( Nguồn BHXH Việt Nam)
Bảng cân đối cho ta cái nhìn tổng quan về hoạt động tài chính của
BHXH Việt Nam. Chúng ta có thể nhận thấy số dư quỹ hiện nay của chúng
ta đang rất lớn vì tình hình thu vào nhiều mà chi thì ít do có sự hỗ trợ rất lớn
từ NSNN. Qua đó ta nhận thấy, đối với tình hình như hiện nay hoạt động
đầu tư tăng trưởng quỹ cần phát huy hơn nữa. Số dư quỹ cuối năm tăng lên
đều đặn, số dư tính đến tháng 12/2004 lên tới 66025615 triệu đồng, đây là
con số rất lớn so với năm 1995. Tốc độ tăng tổng thu quỹ lớn hơn tổng chi
quỹ, đây là lí do khiến cho số dư quỹ tăng cao. Hơn nữa như chúng ta biết
BHXH Việt Nam đang trong giai đoạn đầu của cơ chế PAYGO nên việc số
dư quỹ cao là hoàn toàn hợp lí. Điều cần thiết hiện nay là cần có những biện
pháp hợp lí nhằm khắc phục những nhược điểm của chế độ quản lí tài chính
này. Số dư quỹ ngày càng tăng, theo tỉ lệ tăng số dư quỹ như hiện nay có lẽ
chỉ khoảng năm 2030 là số dư quỹ đạt được mức 200.000 tỷ đồng, mức cao
nhất theo dự báo.
§¹i häc Kinh tÕ quèc d©n
LuËn v¨n tèt nghiÖp
III. Đánh giá chung về công tác quản lí tài chính BHXH
Việt Nam.
1. Những kết quả đạt được.
1.1. Hình thành hệ thống pháp lí làm cơ sở cho cơ chế quản lí tài chính
BHXH:
Từ ngay sau 1995, Chính phủ đã ban hành hàng loạt các Nghị định về
BHXH quy định và hoàn thiện dần các quy chế quản lí cũng như hoạt động
của ngành nói chung và của tài chính BHXH nói riêng. Đây chính là nền
tảng, là định hướng quan trọng trong quá trình thực hiện chính sách BHXH.
Hơn nữa trong quá trình hoạt động hệ thống pháp lí của BHXH Việt Nam
luôn được sửa đổi bổ xung cho phù hợp với sự thay đổi của điều kiện kinh
tế, xã hội. Hệ thống BHXH Việt Nam ngày càng phát triển với số người
tham gia BHXH tăng, năm 1995 mới có 2.275.998 người tham gia BHXH
thì tính cho đến cuối năm 2004 số người tham gia đã lên tới 6.344.508 người
(tăng gần 3 lần). Như vậy là chính sách đổi mới là hoàn toàn phù hợp và
phát huy được hiệu quả hoạt động. Điều này thể hiện trong kết quả đạt được
trong mọi mặt, song trong khuôn khổ của đề tài chỉ xin đề cập đến khía cạnh
quản lí tài chính của BHXH Việt Nam.
1.2. Hình thành quỹ BHXH được quản lí tập trung và độc lập với NSNN.
Trước đây quỹ BHXH chỉ tồn tại trên danh nghĩa và hầu như không
có thu, nguồn chi trả cho các chính sách phụ thuộc vào NSNN. Hiện nay
BHXH đã hình thành nên quỹ BHXH, độc lập với NSNN. Thu BHXH từ hai
đối tượng là người lao động và người sử dụng lao động với quy định trích
nộp theo % lương của người lao động và quỹ lương của doanh nghiệp. Hoạt
động thu chi được thực hiện tương đối thuận lợi chi phí thấp mà hiệu quả
công việc cao. Việc phân cấp thu chi theo ba cấp, thu bằng chuyển khoản,
thực hiện chi trả thông qua đaị lí là rất phù hợp với điều kiện của Việt Nam
hiện nay. Mức chi BHXH dựa trên những căn cứ thực tế, mức lương tối
thiểu tính làm căn cứ đảm bảo được mức sống tối thiểu cho người lao động.
Tỉ lệ hưởng BHXH Việt Nam là tương đối cao so với các nước trên thế giới
thể hiện chức năng phân phối lại thu nhập của BHXH. Quỹ BHXH hiện nay
§¹i häc Kinh tÕ quèc d©n
LuËn v¨n tèt nghiÖp
luôn tăng trưởng qua các năm, quỹ đang thay thế dần các khoản chi với tỉ
trọng chi từ quỹ BHXH tăng, giảm tỉ trọng chi từ NSNN. Việc ra đời và phát
triển quỹ BHXH Việt Nam là bước ngoặt lớn trong sự phát triểm của ngành
BHXH, đánh dấu sự chuyển biến về cơ chế quản lí.
1.3 . Công tác thu được phân cấp, tổ chức thu hợp lí an toàn qua hệ thống
tài khoản thu BHXH Việt Nam.
Cấp Trung ương, cấp khu vực, cấp cơ sở là ba phân cấp quản lí của hệ
thống BHXH Việt Nam dựa trên phân cấp hành chính. Trên cơ sở phân cấp
này hoạt động thu, chi của BHXH được triển khai rộng khắp cả nước. Việc
thực hiện thu chủ yếu là thông qua chuyển khoản từ tài khoản của doanh
nghiệp vào tài khoản thu BHXH lập tại Kho bạc Nhà nước, hay ngân hàng
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt nam. Hình thức thu nộp trên vừa
đảm bảo tính an toàn, chính xác lại giúp cho các doanh nghiệp và cơ quan
BHXH thực hiện dễ dàng. Kết quả là số thu của BHXH Việt Nam năm sau
luôn tăng hơn năm trước, giảm tình trạng nợ đóng, trốn đóng, chậm đóng.
Từ đó quỹ BHXH được ổn định, thực hiện theo đúng kế hoạch quản lí, bảo
tồn và tăng trưởng quỹ, đảm bảo được khả năng chi trả của quỹ BHXH.
1.4 . Thực hiện chi trả các chế độ vừa nhanh chóng, kịp thời vừa đảm bảo
tính chính xác.
Hiện nay BHXH Việt Nam cũng như các ban ngành trong cả nước
đang thực hiện tốt công tác đơn giảm hoá thủ tục hành chính. Việc xét duyệt
các hồ sơ hưởng các loại chế độ đã dần được đổi mới, thủ tục nhanh chóng,
đơn giảm nhưng vẫn hiệu quả. Để tạo điều kiện thuận lợi cho các đối tượng
từ 1/1/2005 theo quy trình xét duyệt mới, việc xét duyệt hồ sơ được thực
hiện ở BHXH tỉnh bằng chương trình tin học, BHXH Việt Nam chỉ theo dõi,
chỉ đạo, hướng dẫn và kiểm tra việc thực hiện của BHXH tỉnh. Công tác chi
trả được thực hiện chủ yếu thông qua hệ thống đại lí là chủ sử dụng lao động
đối với các chế độ ngắn hạn, cán bộ xã phường với các chế độ dài hạn. Việc
chi trả hiện nay thực hiện kịp thời giúp người lao động đảm bảo cuộc sống
của họ. Quỹ BHXH đang có số chi chiếm tỉ trọng ngày càng cao, dần thay
thế NSNN trong vai trò chi trả các chế độ. Sau khi sát nhập BHYT sang
BHXH, công tác thu chi thực hiện đơn giản gọn nhẹ, giảm được chi phí quản
§¹i häc Kinh tÕ quèc d©n
LuËn v¨n tèt nghiÖp
lí vì các đối tượng phải tham gia BHXH thì đồng thời cũng phải tham gia
BHYT. Các khoản chi vào công tác nghiên cứu, ứng dụng công nghệ thông
tin vào quản lí BHXH đã làm giảm các loại chi phí quản lí khác.
1.5. Quỹ đã có thu từ hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ, giảm được nhược
điểm của cơ chế quản lí PAYGO.
Từ sau 1997 BHXH Việt Nam thực sự có thu từ hoạt động đầu tư tăng
trưởng quỹ. Đây là một hoạt động đóng vai trò vị trí thực sự quan trọng
không những làm tăng thu mà còn góp phần bảo toàn khả năng chi trả của
quỹ BHXH. Tuy thu từ đầu tư chưa cao song đảm bảo an toàn, không để xảy
ra thất thoát, nó đã thể hiện sự đúng đắn trong quản lí tài chính BHXH. Đặc
biệt như điều kiện nước ta hiện nay chỉ số giá tiêu dùng tương đối cao (tỉ lệ
lạm phát cao) có thể dẫn tới việc Nhà nước phải quy định lại mức lương tối
thiểu. Như vậy nếu không có sự đầu tư bảo toàn và tăng trưởng quỹ thì sự bù
thiếu cho những chênh lệch khi nộp và khi hưởng là không có. Hơn nữa,
hoạt động đầu tư còn mang lại không những lợi ích về mặt kinh tế mà cả về
mặt xã hội. Các dự án đầu tư có thể mang đến việc làm cho nhiều lao động
thất nghiệp giảm gánh nặng cho xã hội ... . Việc đầu tư đã được thực hiện
theo đúng danh mục đầu tư, đúng hạn mức đầu tư và đảm bảo an toàn, tăng
trưởng quỹ BHXH góp phần đảm bảo khả năng chi trả cho các chế độ.
2. Những tồn tại cần khắc phục và nguyên nhân.
2.1. Việc số người tham gia còn ít đặc biệt là tình trạng trốn tham gia, trốn
đóng, nợ đọng phí BHXH còn rất phổ biến.
Hiện nay theo quy định thì số lao động bắt buộc tham gia là rất lớn
song số người tham gia BHXH tính đến thời điểm này là chưa cao. Tình
trạng trốn tham gia BHXH của các đối tượng, đặc biệt là khối doanh nghiệp
ngoài quốc doanh, những công ty tư nhân, cổ phần, trách nhiệm hữu hạn vừa
và nhỏ là tương đối cao. Thứ nhất là tình trạng khai giảm, khai thiếu số lao
động trong doanh nghiêp, trường hợp thứ hai là không tham gia hoàn toàn.
Tồn tại tình trạng trên một phần do sự thiếu tích cực của chủ sử dụng lao
động, một phần do sự quản lí chưa chặt của cơ quan ban ngành có liên quan.
Chưa có sự phối kết hợp cần thiết giữa các đơn vị quản lí, bên cạnh đó các
§¹i häc Kinh tÕ quèc d©n
LuËn v¨n tèt nghiÖp
chế tài pháp luật cũng chưa có những biện pháp sử phạt nghiêm minh đối
với tình trạng này.
Các doanh nghiệp hiện nay trong việc đóng phí BHXH vẫn diễn ra
tình trạng khai giảm quỹ lương của doanh nghiệp để trốn đóng . Đặc biệt
hơn là tình trạng nợ đọng, nợ chậm đóng còn nhiều. Tình trạng trên còn tồn
tại là do cơ quan BHXH Việt Nam chưa có những biện pháp quản lí hữu
hiệu, các quy định về xử phạt là chưa thực sự nghiêm khắc.
2.2. Trong công tác chi trả BHXH Việt Nam còn nhiều hiện tượng sai sót
trong xét duyệt, tình trạng tồn đọng trong giải quyết chế độ vẫn tồn tại.
Qua việc kiểm tra các hồ sơ xét hưởng BHXH Việt Nam còn phát
hiện những trường hợp xét duyệt sai, như xét duyệt không đúng chế độ,
chính sách, tính toán sai, thiếu giấy tờ,... . Trong những năm qua BHXH Việt
Nam thông qua công tác thẩm định đã trả lại không ít hồ sơ để BHXH tỉnh
bổ xung, hoàn chỉnh lại. Có tình trạng này là do công tác đào tạo, hướng dẫn
nâng cao nghiệp vụ chưa được quan tâm đúng mức.
Tình trạng tồn đọng trong giải quyết các chế độ còn phổ biến, tức là
các đối tượng đặc biệt là các đối tượng được hưởng trợ cấp một lần sau khi
nghỉ việc đã chuyển đến nơi khác gây ra rất nhiều khó khăn cho công tác chi
trả. Đây là những hạn chế do nguyên nhân khách quan, hiện nay đang được
khắc phục bằng cách đưa những thông tin đó lên các phương tiện thông tin
đại chúng của địa phương để đối tượng được hưởng chế độ được biết.
2.3. Công tác đầu tư bảo tồn và phát triển quỹ tuy đã có thu nhưng còn
hạn chế lợi nhuận từ đầu tư còn rất nhỏ.
Vấn đề ở đây là hiệu quả đồng vốn bỏ ra là chưa cao, lí do chủ yếu
các hoạt động đầu tư còn theo chỉ định của Chính phủ. Các quy định về hạng
mục đầu tư còn hạn hẹp, hình thức đầu tư đơn điệu. Các ngân hàng được
phép vay mới chỉ bó hẹp trong các ngân hàng Nhà nước: NH Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn, NH Công thương, NH Ngoại thương, NH Đầu tư và
Phát triển. Trong quản lí đầu tư BHXH Việt Nam chưa có sự phân định trách
nhiệm rõ ràng, chưa có bộ phận chuyên môn quản lí nghiệp vụ này mà chỉ
mới giao cho Ban Kế hoạch- tài chính đảm nhiệm.
§¹i häc Kinh tÕ quèc d©n
LuËn v¨n tèt nghiÖp
Hoạt động đầu tư hiện nay vẫn hoàn toàn thụ động, chưa tiếp cận
được với những dự án lớn, lợi nhuận cao. Hiện nay lãi suất trung bình là rất
thấp, nếu cứ như hiện nay thì các biện pháp đầu tư bảo toàn và tăng trưởng
quỹ chưa đủ để khác phục sự mất cân đối lâu dài của quỹ BHXH trong
tương lai. Tình hình tài chính khu vực mới ổn định trở lại sau khủng hoảng
kinh tế khu vực năm 1997, nền kinh tế nước ta còn kém khả năng hấp thụ
vốn đầu tư. Bên cạnh đó thị trường tài chính Việt Nam chưa thực sự ổn định,
tỷ lệ lạm phát ở mức tương đối cao. Nhà nước hiện nay đang thực hiện chính
sách tiền tệ thắt chặt, tỷ lệ lãi suất huy động tiền gửi thấp.
§¹i häc Kinh tÕ quèc d©n
LuËn v¨n tèt nghiÖp
CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỐI VỚI CÔNG TÁC
QUẢN LÍ TÀI CHÍNH BHXH VIỆT NAM
TRONG THỜI KÌ TỚI
I. Những quan điểm chủ yếu về vấn đề quản lí tài chính BHXH
Việt Nam trong giai đoạn tới.
1. Quan điểm trong xây dựng chính sách BHXH.
Trong quá trình xây dựng chính sách BHXH phải thực sự quan tâm tới
đường lối, điều kiện kinh tế của đất nước để từ đó đưa ra được những chính
sách phù hợp. Sau đây là những quan điểm chủ yếu trong xây dựng chính
sách BHXH Việt Nam:
- Chính sách BHXH phải thể hiện được đường lối đổi mới, phát triển
của Đảng và Nhà nước ta trong thời kì mới, thời kì công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước.
- Chính sách BHXH phải phù hợp với điều kiện kinh tế- xã hội của nước
ta hiện nay.
- Nhà nước thống nhất quản lí và ban hành chính sách BHXH theo
hướng phát huy quyền của các bên tham gia BHXH.
- Đa dạng hoá các hình thức BHXH.
- Hoàn thiện cơ chế hoạt động và tổ chức bộ máy thực hiện chính sách
BHXH cho phù hợp với điều kiện của đất nước.
2. Những quan điểm cụ thể trong công tác quản lí tài chính BHXH Việt
Nam trong giai đoạn tới.
§¹i häc Kinh tÕ quèc d©n
LuËn v¨n tèt nghiÖp
- Quỹ BHXH hình thành nên từ những đóng góp của các bên than gia,
trong đó gồm người lao động và cả chủ sử dụng lao động. Bên cạnh đó có sự
hỗ trợ của NSNN, tiền sinh lời từ hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ và các
nguồn thu hợp pháp khác.
- Quỹ BHXH được quản lí tập trung, thống nhất, dân chủ và công khai
trong toàn hệ thống BHXH Việt Nam; hoạch toán theo quỹ thành phần độc
lập với NSNN và được Nhà nước bảo hộ.
- Quỹ BHXH đảm bảo cho các đối tượng hưởng chế độ sau ngày
1/10/1995 (trước ngày này do NSNN đảm bảo); chi BHYT cho các đối
tượng tham gia BHYT; chi quản lí bộ máy của hệ thống BHXH Việt Nam;
chi xây dựng cơ bản và các khoản chi khác.
- BHXH có trách nhiệm dùng quỹ nhàn rỗi để đầu tư an toàn, bảo toàn
được giá trị quỹ và có hiệu quả về mặt kinh tế- xã hội.
- Quỹ BHXH được hoạch toán riêng và cân đối thu chi theo từng năm.
II. Giải pháp cụ thể nhằm nâng cao chất lượng hoạt động quản
lí tài chính BHXH trong gian đoạn tới.
1. Bài học kinh nghiệm từ hệ thống BHXH CHLB Đức và Trung Quốc.
Qua tìm hiểu về tổ chức quản lí và hoạt động tài chính của hai hệ
thống BHXH trên ta nhận thấy một số những ưu điểm như khắc phục được
sự ảnh hưởng từ môi trường kinh tế. Đặc biệt là hệ thống BHXH của CHLB
Đức hiện nay đang thực hiện theo phương thức hàng năm sẽ thống kê ra số
chi, trên cơ sở số liệu đó tính toán số thu hợp lí cho năm đó. Thực hiện như
vậy lạm phát không thể ảnh hưởng tới quỹ BHXH cũng như việc chi trả các
chế độ chính sách. Vì vậy, BHXH sẽ chủ động hơn trong việc quản lí tài
chính. Hiện nay dự trữ quỹ BHXH là rất nhỏ chứng tỏ quỹ BHXH đảm bảo
được khả năng chi trả một cách tương đối ổn định. Tuy vậy việc triển khai
thực hiện phương thức này đòi hỏi phải có những điều kiện nhất định.
Thường là ở những nước phát triển, có tiềm năng kinh tế đủ mạnh thì mới có
thể áp dụng được phương pháp này. Việc triển khai phương thức này tại Việt
§¹i häc Kinh tÕ quèc d©n
LuËn v¨n tèt nghiÖp
Nam là tương đối khó khăn, việc thống kê là rất khó chính xác, chi phí lớn.
Hơn nữa điều kiện kinh tế nước ta là nước đang phát triển, điều kiện kinh tế
còn nhiều khó khăn. Tuy vậy BHXH CHLB Đức hiện nay được tổ chức thực
hiện thông qua cả tổ chức BHXH tư nhân, như vậy sẽ có sự cạnh tranh và
tất yếu của cạnh tranh là hiệu quả hoạt động càng cao. Từ hoạt động của
BHXH CHLB Đức có thể đưa việc triển khai việc thực hiện một số chính
sách thông qua hệ thống BHXH tư nhân là khả thi tại BHXH Việt Nam.
Đối với hệ thống BHXH Trung Quốc, đây là hệ thống BHXH được tổ
chức như một hệ thống mở, các chính sách được cụ thể hóa và thực hiện
chưa thực sự thống nhất trong cả nước song tính hiệu lực tương đối cao. Đây
cũng là một điểm mạnh mà BHXH Việt Nam cần xem xét vì hiện nay tính
hiệu lực trong các quy định của nước ta là chưa cao. Các đối tượng bắt buộc
tham gia của BHXH Việt Nam thực hiện chưa đầy đủ, việc trốn đóng hay
nợ đọng vẫn là những vấn đề còn tồn tại. Bên cạnh đó, việc tổ chức quỹ
thành hai phần: phần thứ nhất là một phần phí do người sử dụng lao động
nộp để sử dụng chung, phần thứ hai bao gồm phần phí do người lao động
nộp và phần còn lại do người sử dụng nôp. Phần thứ hai này được tổ chức
thành tài khoản cho người lao động, họ có thể chủ động hơn trong các kế
hoạch tài chính của mình.
2. Những giải pháp cụ thể.
2.1. Giải pháp cho công tác quản lí thu BHXH.
Quản lí đối tượng tham gia và đóng góp đầy đủ, chính xác, đúng thời
hạn là mục tiêu của chính sách quản lí thu. Để thực hiện tốt công tác quản lí
thu BHXH, cần thực hiện áp dụng những biện pháp sau:
- Cần tích cực phối kết hợp với các ban ngành quản lí từ Trung ương đến
địa phương, trước tiên là quản lí tốt các đơn vị bắt buộc tham gia BHXH,
sau đó ta mới quản lí đến lao động trong đơn vị đó. Một thực tế hiện nay là
còn rất nhiều đơn vị nhỏ chưa thực hiện tham gia BHXH cho những lao
động của đơn vị mình. Muốn thực hiện tốt công việc này chúng ta có thể
thông qua những đơn vị, cơ quan có thẩm quyền cấp giấy phép thành lập và
hoạt động như: Sở kế hoạch và đầu tư, cơ quan quản lí, cục thế,... . Như vậy
§¹i häc Kinh tÕ quèc d©n
LuËn v¨n tèt nghiÖp
ngay khi thành lập các đơn vị này phải tham gia thực hiện ngay từ đầu và
trong quá trình hoạt động sau này BHXH Việt Nam sẽ dễ dàng quản lí hơn.
- Trên cơ sở quản lí các đối tượng tham gia, BHXH Việt Nam có thể
thực hiện phân loại các đơn vị sử dụng lao động để dễ dàng trong công tác
kiểm tra theo dõi việc thực hiện chính sách BHXH. Chúng ta có thể phân
loại các đơn vị như sau: khối hành chính sự nghiệp, khối doanh nghiệp Nhà
nước, khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, khối doanh nghiệp ngoài
quốc doanh, các đơn vị khác (cán bộ xã phường, các tổ chức, ....). Việc phân
loại trên giúp cho BHXH Việt Nam dễ dàng hơn trong việc quản lí các đối
tượng, có thể phân công cán bộ hợp lí hơn.
- Thứ hai là công tác cấp sổ cho người lao động để theo dõi quá trình
tham gia và đóng góp của họ vào quỹ BHXH. Hiện nay công tác này thực
hiện tương đối tốt, song cần đưa những ứng dụng công nghệ thông tin vào
quản lí hoạt động này. Công nghệ mới này sẽ thay thế các phương pháp thủ
công trong việc cập nhật những thay đổi về của đối tượng tham gia BHXH.
Công việc này có thể giúp giảm chi phí mà tính chính xác lại cao, đây cũng
là lĩnh vực được ưu tiên áp dụng công nghệ trong quản lí sớm nhất. Cần tích
cực hơn nữa trong việc nghiên cứu ứng dụng công nghệ cho công tác quản lí
thu phù hợp với từng loại đối tượng, từng địa phương. Đây là hướng đi lâu
dài, đảm bảo thực hiện nhanh chóng, chính xác và tiết kiệm được chi phí
quản lí.
- Bên cạnh những biện pháp quản lí trên chúng ta cũng cần đẩy mạnh
công tác giáo dục, tuyên truyền cho các đối tượng thông qua các phương tiện
thông tin đại chúng. Qua đó họ có thể nhận thức được tầm quan trọng cũng
như ý nghĩa của việc tham gia BHXH. Có thể từ đó ngay chính người chủ sử
dụng cũng nhận thức được lợi ích của việc tham gia BHXH và họ sẽ tự
nguyện thực hiện mà không cần có những biện pháp cưỡng chế. Đối với nội
dung tuyên truyền phải dễ hiểu, dễ tiếp thu, gần gũi với đời sống của người
lao động, phù hợp với truyền thống dân tộc.
- Trong công tác thu cần đẩy mạnh việc kiểm tra đôn đốc việc thực hiện
thu nộp đối với những đơn vị chậm đóng hay nợ đọng thường xuyên. Đặc
biệt là phối hợp chặt chẽ với các bên như thanh tra, tổ chức chính trị xã hội (
§¹i häc Kinh tÕ quèc d©n
LuËn v¨n tèt nghiÖp
Liên đoàn lao động, tổ chức Đảng, Đoàn thể,...) để kiểm tra việc kê khai lao
động, kê khai quỹ lương của doanh nghiệp. Ngoài ra cần có những biện pháp
xử phạt nghiêm minh đối với các trường hợp vi phạm. Hiện nay các biện
pháp xử phạt của chúng ta chỉ mang tính chất cảnh cao, chưa đủ nghiêm
khắc để điều chỉnh hành vi chốn nộp hay nợ đọng. Bên cạnh những quy định
xử phạt, BHXH cũng nên thường xuyên thông báo cho các đơn vị số nợ lãnh
đạo các đơn vị tham gia BHXH được biết.
- Trong bản thân ngành cũng cần có những biện pháp quản lí tốt đối với
cán bộ thu, tránh tình trạng cán bộ BHXH thông đồng với các đơn vị tham
gia BHXH. Đối với các trường hợp vi phạm cần có những biện pháp xử phạt
nghiêm minh. Bên cạnh đó BHXH cũng cần có những chế độ khen thưởng
khuyến khích đối với các cá nhân đơn vị thực hiện tốt gồm cả các đơn vị
tham gia BHXH lẫn các cá nhân, đơn vị trong ngành.
2.2. Giải pháp cho công tác quản lí chi các chế độ BHXH.
Mục tiêu của công tác quản lí chi chế độ là chi đúng, kịp thời đảm bảo
an toàn tránh thất thoát quỹ BHXH. Chi cho các chế độ được quy định rõ
cho từng loại chế độ với mức hưởng, thời gian hưởng trong các văn bản. Sau
đây tôi chỉ xin đưa ra một số biện pháp để quản lí các khoản chi chế độ mà
không đị sâu vào các quy định hưởng của từng loại chế độ. Để quản lí chi
cần thực hiện tốt các giải pháp sau đây:
- Xây dựng một quy trình xét duyệt hồ sơ đơn giản nhanh chóng nhưng
phải đảm bảo chính xác, đúng chế độ, đúng đối tượng và đúng mức trợ cấp.
Quy trình xét duyệt hồ sơ được thực hiện thông qua ba cấp: đơn vị sử dụng
lao động hướng dẫn người lao động lập hồ sơ, BHXH cấp tỉnh sẽ thực hiện
kiểm tra và ra quyết định mức hưởng cho người lao động, BHXH Việt Nam
thẩm định tính chính xác của quyết định trên. Muốn thực hiện được như vậy
trước tiên chúng ta phải có những cán bộ xét duyệt được đào tạo và có năng
lực, trình độ và phải có đạo đức nghề nghiệp, tránh tình trạng thông đồng.
Phải thực hiện việc đào tạo các cán bộ chuyên trách của đơn vị tham gia
BHXH về thủ tục và các giấy tờ cần thiết để họ hướng dẫn lại cho các đối
tượng được hưởng của đơn vị mình, tránh tình trạng thiếu giấy tờ cần thiết
§¹i häc Kinh tÕ quèc d©n
LuËn v¨n tèt nghiÖp
trong hồ sơ. Phải phối hợp với các cơ quan đơn vị khác để kiểm tra tính hợp
pháp của các hồ sơ hưởng như: bên bệnh viện, cảnh sát, toà án, ... .
- Cần tích cực kiểm tra và rà soát lại các hồ sơ đã xét duyệt, nếu phát
hiện ra những vi phạm phải lập tức điều chỉnh hoặc dừng việc trợ cấp lại
ngay. Và việc kiểm tra này phải được thực hiện định kì, nếu có sai sót mà
BHXH tỉnh không thu hồi lại được thì phải có trách nhiệm bội thường cho
quỹ. Đặc biệt nếu phát hiện ra cán bộ BHXH có thông đồng với người được
hưởng trợ cấp thì phải xử phạt nghiêm minh.
- Lập hệ thống đại lí thực hiện chi trả kịp thời đảm bảo công tác chi
được thực hiện một cách nhanh chóng, chính xác. Theo như tình hình hiện
nay, đối với các chế độ ngắn hạn đại lí chính là người sử dụng lao động, đối
với các chế độ dài hạn chủ yếu là các cán bộ xã phường là phù hợp với điều
kiện nước ta hiện nay. Tuy vậy cùng với sự phát triển của hệ thống ngân
hàng hiện nay thì chúng ta có thể triểm khai áp dụng hình thức chi tra thông
qua hệ thống tài khoản. Đây cũng là định hướng tốt bởi nếu thực hiện được
thì chi phí quản lí sẽ tiết kiệm được chi phí quản lí lại vừa đảm bảo tính an
toàn.
2.3. Giải pháp cho công tác chi quản lí.
Như chúng ta đã biết chi quản lí hiện nay có hai khoản chi lớn đó là
chi hoạt động thường xuyên của bộ máy quản lí và chi đầu tư xây dựng cơ
bản. Đối với khoản chi thường xuyên của bộ máy quán lí cần áp dụng những
biện pháp sau để tiết kiệm chi phí quản lí mà vẫn đảm bảo được hiệu quả
hoạt động của hệ thống BHXH:
- Thứ nhất là cần phải ngiên cứu xem xét các khoản chi cho hợp lí cân
đối với các ngành khác. Vì hiện nay BHXH vẫn thực hiện quản lí lao động
dưới hình thức biên chế như các đơn vị hành chính khác, mức lương vẫn tính
trên cơ sở bảng lương Nhà nước.
- Cũng giống như các đơn vị hành chính khác BHXH vẫn còn bộ máy
quản lí tương đối cồng kềnh. Do vậy cần thực hiện các biện pháp sắp xếp lại
bộ máy quản lí, tuyển dụng những lao động được đào tạo chính quy, có năng
lực, có trình độ và đặc biệt có đạo đức. Tránh tình trạng số lao động nhiều
- Xem thêm -