Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tài chính - Ngân hàng Bảo hiểm Báo cáo chuyên đề bảo hiểm bh08 phần 3...

Tài liệu Báo cáo chuyên đề bảo hiểm bh08 phần 3

.PDF
20
91
146

Mô tả:

LuËn v¨n tèt nghiÖp ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n thời giải thích rõ yêu cầu của bảo hiểm để họ kê khai đầy đủ mới cấp đơn bảo hiểm. Phải xem xét kỹ tính chất và phương thức xếp dỡ của từng mặt hàng có phù hợp với điều kiện bảo hiểm mà khách hàng lựa chọn không để giải thích và yêu cầu khách hàng điều chỉnh lại cho thích hợp với mặt hàng đó. Trên giấy yêu cầu bảo hiểm phải đòi hỏi khách hàng trả lời được các nội dung yêu cầu của phòng Kế toán- tài vụ quy định nhằm giúp phòng làm đủ các thủ tục thu phí một cách nhanh chóng. Lưu ý: Giấy yêu cầu bảo hiểm phải có đẩy đủ tên, dấu và chữ ký của khách hàng. Giấy chứng nhận bảo hiểm phải đánh máy đủ 08 bản. cần xem kỹ tên tàu vận chuyển (nếu là tàu vận chuyển), phải yêu cầu khách hàng kê khai quốc tịch tàu, tuổi tàu. Nếu là tàu già phải thu thêm phí như đã quy định trong biểu phí bảo hiểm. Trường hợp trị giá hàng bảo hiểm cao trên mức quy định phân cấp của công ty, trước khi cấp đơn cần thông báo và trao đổi ý kiến với phòng tái bảo hiểm để có kế hoạch phân tán rủi ro. Bước 2 : Vào sổ cấp đơn, lấy số đơn và xếp chuyến tàu: Sau khi kiểm tra xong các chứng từ liên quan nếu hợp lệ thì vào sổ cấp đơn theo từng danh mục ghi trong sổ. Sổ đơn bảo hiểm lấy theo sổ thứ tự trong sổ cấp đơn. Xếp chuyến tàu theo số thứ tự trong sổ đăng ký số tàu. Lưu ý:  Thông thường luồng Châu Á đi trong khoảng 20-30 ngày làm một chuyến.  Luồng Châu Âu tàu đi trong khoảng 2-4 tháng làm 1 chuyến.  Số đơn bảo hiểm và số chuyến tàu ghi rõ trong đơn, số chuyến ghi trước và số đơn bảo hiểm ghi sau. Ví dụ: Số đơn bảo hiểm là 100, số tàu là 8 thì ghi: 8/100 Bước ba: Tính phí bảo hiểm sửa đổi và huỷ đơn bảo hiểm. Trước khi tính phí bảo hiểm phải xác định số tiền bảo hiểm. Số tiền bảo hiểm được tính theo công thức: CIF = C+F 1-R Trong đó: C- là giá trị hàng hoá theo giá FOB F- là cước phí vận chuyển R- là tỷ lệ phí bảo hiểm Trong trường hợp khách hàng nhập theo giá FOB, nếu họ không xác định rõ được phí vận tải thì bảo hiểm ước tính như sau: đối với luồng Châu Á cước phí bïi v¨n khoa 41 bé m«n b¶o hiÓm LuËn v¨n tèt nghiÖp ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n vận tải F=5% giá FOB và luồng Châu Âu là F=10% giá FOB. R áp dụng cho từng mặt hàng tuỳ theo từng điều kiện bảo hiểm. R=R1+R2 trong đó R1 bao gồm tỷ lệ phí chính + tỷ lệ phí theo luồng. R2 là tỷ lệ phí phụ - tỷ lệ phí phụ được cộng thêm khi khách hàng mua thêm các điều kiện bảo hiểm phụ như bảo hiểm chiến tranh, bảo hiểm đình công, thiếu nguyên kiện, thiếu hụt trọng lượng... Lưu ý: Mỗi một mặt hàng có tỷ lệ phí bảo hiểm khác nhau tuỳ theo từng điều kiện bảo hiểm. Do đó, khi tính phí phải xem xét kỹ tính chất của từng mặt hàng, điều kiện bảo hiểm mà khách hàng lựa chọn có phù hợp với quy định của bảo hiểm đối với mặt hàng đó không, trên cơ sở đó để xác định tỷ lệ phí cho chính xác. Phí bảo hiểm được tính trên cơ sở số tiền bảo hiểm và tỷ lệ phí bảo hiểm: I = CIF * R Trong trường tàu già khi tính phí bảo hiểm sẽ tính như sau: CIF = C+F 1-R I = CIF * R/ R=R1+R2 R/=R1+R2+R3 Trong đó R3 là tỷ lệ phí tàu già. Trường hợp khách hàng xin điều chỉnh trị giá bảo hiểm như điều chỉnh giá FOB, CF, cước phí vận tải và điều kiện bảo hiểm thì phải tính lại giá CIF và phí bảo hiểm bằng hình thức cấp cho khách hàng 4 giấy sửa đổi bổ sung và thu lệ phí sửa đổi đơn. Phần chênh lệch tăng đề nghị khách hàng thanh toán thêm phí, phần chênh lệch giảm bảo hiểm sẽ hoàn lại phí cho khách hàng. Trừ trường hợp điều chỉnh số B/L, trọng lượng. Lưu ý: Trước khi làm sửa đổi bổ sung phải yêu cầu khách hàng gửi lại toàn bộ đơn bảo hiểm đã cấp để điều chỉnh. Sau khi làm xong giấy sửa đổi bổ sung phải ghi rõ trên đơn các giấy tờ sửa đổi để bộ phận bồi thường dễ xem xét. Sau đó gửi trả lại đơn của khách hàng kèm theo giấy sửa đổi. Nếu khách hàng yêu cầu huỷ đơn phải xem xét rõ lý do, sau đó cấp cho khách hàng giấy sửađổi: Huỷ đơn, hoàn trả lại cho khách hàng toàn bộ số phí đã thu và trừ lệ phí huỷ đơn đồng thời thu hồi lại toàn bộ đơn gốc đã cấp để huỷ bỏ đi. Đơn thu lại phải huỷ ngay để tránh nhầm lẫn. Giấy sửa đổi bổ sung in ra thành 06 bản (1 bản lưu kèm theo công văn yêu cầu sửa đổi của khách hàng, 1 bản gửi cho Tái bảo hiểm, 1 bản trả khách hàng). Trường hợp: bïi v¨n khoa 42 bé m«n b¶o hiÓm LuËn v¨n tèt nghiÖp ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n - Yêu cầu khách hàng thanh toán thêm phí: đưa Tài vụ 3 bản - Hoàn phí và huỷ đơn: đưa Tài vụ 2 bản - Điều chỉnh tên tàu: đưa Tài vụ một bản Sau khi lập đơn, kiểm tra lại và đóng dấu “thu phí bảo hiểm bằng ngoại tệ” hoặc “thu phí bảo hiểm bằng đồng Việt Nam” lên đơn theo yêu cầu thanh toán phí của khách hàng. Bước 4: Giao chứng từ cho các bộ phận liên quan: Sau khi thực hiện 3 bước trên, đánh máy, trình ký và đóng dấu xong chứng từ được phân ra như sau: bản gốc viết tay (bản đầu tiên) lưu phòng Nghiệp vụ, 3 bản lưu phòng Tài vụ, 1 bản gửi Tái bảo hiểm, nếu chi nhánh cấp đơn thì gửi 1 bản cho công ty còn lại trả cho khách hàng. Đối với hàng hoá xuất khẩu: bao gồm 4 bước sau: Bước 1: Kiểm tra chứng từ- tương tự như bước 1 đối với hàng hoá nhập khẩu. Lưu ý: - Đối với hàng hoá xuất khẩu chỉ bảo hiểm bằng ngoại tệ không bảo hiểm bằng đồng Việt Nam. - Đơn bảo hiểm hàng hoá xuất khẩu và giấy sửa đổi bổ sung phải đánh máy bằng tiếng Anh hoặc tiếng Pháp. - Phải chú ý đến “điều kiện bảo hiểm” do khách hàng đề nghị. Nếu theo tín dụng thư (L/C- Letter of credits) thì phải làm đúng tín dụng thư đã mở, nhưng nếu điều kiện đề nghị có những điểm bất hợp lý hoặc vượt quá phạm vi trách nhiệm thông thường của công ty thì phải sửa lại (nếu việc sửa lại đó không mâu thuẫn với thư tín dụng về cơ bản) hoặc hỏi lại người mua hàng ở nước ngoài. - Đối với hàng xuất tư nhân của các đại sứ quán phải yêu cầu khách hàng cung cấp “bản kê chi tiết hàng hoá” và trị giá tiền của mỗi loại. Chỉ bảo hiểm theo điều kiện “mọi rủi ro” cho các loại hàng hoá mới, đối với hàng cũ bảo hiểm theo điều kiện C. Trước khi chấp nhận bảo hiểm phải yêu cầu khách hàng cho xem cụ thể hàng hoá và bao bì để xác định trị giá hàng hoá và điều kiện bảo hiểm. Giấy chứng nhận bảo hiểm chỉ cần in 06 bản là đủ. Bước 2: Vào sổ cấp đơn Sau khi kiểm tra các chứng từ có liên quan, nếu hợp lệ thì vào sổ cấp đơn theo từng danh mục ghi trong sổ. Số đơn bảo hiểm đã được in sẵn trên đơn nếu chỉ cần đánh máy thêm ký hiệu của địa phương đó để nghiệp vụ tiện theo dõi. bïi v¨n khoa 43 bé m«n b¶o hiÓm LuËn v¨n tèt nghiÖp ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n Ví dụ: Đơn do chi nhánh TP. HCM cấp, số đơn bảo hiểm là 1580 thì ghi như sau:1580-HX/HCM/95 Bước 3: Tính phí bảo hiểm và huỷ bỏ đơn bảo hiểm Số tiền bảo hiểm hàng hoá xuất khẩu chính là giá CIF mà khách hàng kê khai trên giấy yêu cầu bảo hiểm cộng thêm 10% lãi dự tính hay 10%CIF. Vì vậy phí bảo hiểm được tính theo công thức (CIF + 10%CIF)* R trong đó R là tỷ lệ phí bảo hiểm được tính theo từng luồng, theo từng điều kiện bảo hiểm và chủng loại hàng hoá. Lưu ý:- Đối với hàng xuất của đại sứ quán các nước đóng tại Việt Nam, số tiền bảo hiểm chính là giá trị hàng hoá mà khách hàng kê khai cộng thêm 10%. - Trường hợp khách hàng xin điều chỉnh giá trị bảo hiểm, điều kiện bảo hiểm thì phải tính lại giá CIF và phí bảo hiểm bằng hình thức cấp cho khách hàng 1 giấy sửa đổi bổ sung. - Điều chỉnh số B/L, trọng lượng và huỷ đơn cách thức tương tự như hàng nhập ở bước 3. Bước 4: Giao chứng từ cho các bộ phận liên quan Sau khi thực hiện 3 bước trên, nộp đơn trình ký và không cần đóng dấu tròn, chứng từ được phân ra như sau: 3 bản đầu giao cho khách hàng, 1 bản lưu Nghiệp vụ, 3 bản giao cho Tài vụ, 1 bản giao cho Tái bảo hiểm. Lưu ý: - Đối với hàng xuất của đại sứ quán các nước đặt tại Việt Nam thì chứng từ đưa sang Tài vụ chỉ cần 1 bản để theo dõi tiền về. - Khi giao chứng từ cho các bộ phận liên quan phải ghi vào sổ giao chứng từ và có ký nhận. - Đối với hàng xuất 3 bản đầu giao cho khách hàng không được ghi tỷ lệ phí bảo hiểm và phí bảo hiểm chỉ cần ghi giá CIF là đủ. - Đơn giao cho tái bảo hiểm đưa qua bộ phận thống kê của phòng vào sổ thống kê sau đó mới đưa sang tái bảo hiểm. - Bản nghiệp vụ giữ để lưu theo từng chi nhánh và phân theo từng tàu. Mỗi cán bộ nghiệp vụ cuối tháng/quý/năm phải nắm được sổ phí thu của từng khách hàng mà mình phụ trách và tổng kim ngạch hàng nhập và xuất qua bảo hiểm trong tháng đó của khách hàng để phân tích, đánh giá được tình hình kinh doanh. bïi v¨n khoa 44 bé m«n b¶o hiÓm LuËn v¨n tèt nghiÖp ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n Là công ty cổ phần đầu tiên trong ngành bảo hiểm, PJICO có thế mạnh là các cổ đông có lượng hàng hoá xuất nhập khẩu hàng năm khá lớn (Tổng công ty xăng dầu Việt Nam - Petrolimex, Tổng công ty thép Việt Nam - VSC). Vì vậy ngay từ năm đầu tiên hoạt động (tháng 06/1995) nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển đã chiếm tỷ trọng lớn trong tổng doanh thu hoạt động kinh doanh của PJICO và từ đó tới nay nghiệp vụ này đã không ngừng tăng trưởng và phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu. Nhờ có sự ủng hộ, trợ giúp của các Bộ, Ngành liên quan, các tổ chức kinh tế, sự chỉ đạo đúng đắn kịp thời của các cấp lãnh đạo PJICO và đặc biệt là sự cố gắng phấn đấu nỗ lực của toàn thể cán bộ nhân viên công ty, sau hơn 6 năm hoạt động trong thị trường cạnh tranh, nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển của PJICO đã đạt được lượng doanh thu phí khá lớn. Tỷ trọng trung bình chiếm từ 15%-20% trong tổng doanh thu phí bảo hiểm của toàn công ty và chiếm khoảng hơn 2% tổng doanh thu phí bảo hiểm của toàn thị trường. Cụ thể ta có: bïi v¨n khoa 45 bé m«n b¶o hiÓm LuËn v¨n tèt nghiÖp ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n Để phân tích một cách cụ thể và chi tiết, ta tính một số chỉ tiêu sau: Bảng 7: Bảng chỉ tiêu đánh giá kết quả hoạt động khai thác bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển ở PJICO từ 1995-2000. Chỉ tiêu 1995 1996 1997 1998 1999 2000 1.Số tiền BH bình quân một đơn cấp(Triệu:VND) 1.146 1.159 1.588 1.546 1.586 2.296 2.Tốc độ tăng DT phí BH (%) - 204,2 55,7 66,0 26,1 15,3 3.Tốc độ tăng KNHH tham gia BH (%) - 180 70,8 49,8 22,7 54,6 4.Tốc độ tăng (giảm) tỷ lệ phí BH bình quân (%) - 8,7 (8,9) 10,7 2,7 (25,5) Qua bảng số liệu trên ta có thể nhận xét rằng hoạt động khai thác bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển ở PJICO đạt kết quả tương đối cao. Trước hết là số đơn cấp hàng năm tăng nhanh, nếu như 6 tháng năm 1995 chỉ khai thác được 427 đơn cấp thì đến năm 2000 con số này đã đạt tới 2.896 đơn. Cùng với sự biến động về tỷ lệ phí bảo hiểm trên toàn thị trường nói bïi v¨n khoa 46 bé m«n b¶o hiÓm LuËn v¨n tèt nghiÖp ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n chung và của công ty nói riêng thì số tiền bảo hiểm bình quân một đơn cấp có xu hướng tăng dần qua các năm, điều này được thể hiện: năm 1995 số tiền bảo hiểm bình quân một đơn cấp là 1.146 triệu nhưng đến năm 2000 số tiền bảo hiểm trong một đơn cấp đạt tới 2.296 triệu lớn gấp 2 lần năm 1995, điều đó chứng tỏ PJICO ngày càng thu hút được nhiều hợp đồng bảo hiểm có giá trị cao của các khách hàng lớn. Mặt khác ta thấy tốc độ tăng doanh thu phí bảo hiểm và tốc độ tăng kim ngạch hàng hoá tham gia bảo hiểm đều có xu hướng giảm dần và tốc độ tăng doanh thu phí bảo hiểm bình quân 1995/2000 (1) lại nhỏ hơn tốc độ tăng kim ngạch hàng hoá tham gia bảo hiểm bình quân trong cùng thời kỳ(2)nhưng sự chênh lệch này là tương đối nhỏ. Nguyên nhân của sự chênh lệch này là do PJICO đã điều chỉnh tỷ lệ phí bảo hiểm phù hợp với sự biến động của thị trường. Quá trình điều chỉnh tỷ lệ phí làm cho tỷ lệ phí có xu hướng chung là giảm xuống từ 1995/2000 (từ 0,3795% xuống còn 0,3187%). Nhìn vào bảng chỉ tiêu đánh giá ta có thể thấy rằng chiến lược khai thác của PJICO là hết sức linh hoạt và có hiệu quả đặc biệt là việc điều chỉnh tỷ lệ phí bảo hiểm qua các năm cho phù hợp với tình hình chung của toàn thị trường bảo hiểm. Điều chỉnh tỷ lệ phí lần 1 năm 1997 giảm 8,9% so với năm 1996 do nhiều nguyên nhân, cơ bản là do hai nguyên nhân sau: chủ quan là do chiến lược phát triển của công ty và khách quan là do cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực Châu Á. Ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế trong nước, khu vực và trên thế giới. Mặc dù tỷ lệ phí giảm song doanh thu phí bảo hiểm không những không giảm xuống mà còn tăng 55,7% so với năm 1996. Có sự tăng lên của tổng doanh thu phí trong khi tỷ lệ phí giảm xuống là do tổng kim ngạch hàng hoá tham gia bảo hiểm tăng lên (70,8%) và do tốc độ tăng này lớn hơn nên có thể bù đắp được phần doanh thu giảm đi do giảm tỷ lệ phí bảo hiểm. Điều chỉnh giảm tỷ lệ phí lần hai năm 2000 so với năm 1999 xuống còn 0,3187 năm 2000 do có sự cạnh tranh gay gắt giữa các công ty bảo hiểm trên thị trường và do tỷ lệ tổn thất năm 1998, 1999 đã giảm xuống dẫn đến tỷ lệ bồi thường giảm theo. Và cũng tương tự lần 1 mặc dầu tỷ lệ phí bảo hiểm bình quân giảm mạnh song tổng doanh thu phí bảo hiểm tăng lên 15,3% tức là tăng thêm 2.750 triệu đồng. Có sự tăng lên của doanh thu phí bảo hiểm này là do sự điều chỉnh tỷ lệ phí bảo hiểm đã thu hút thêm được đông đảo khách hàng tham gia bảo hiểm tại công ty làm cho kim ngạch hàng hoá tham gia bảo hiểm tăng 54,6% bù đắp được phần doanh thu phí giảm do tỷ lệ phí bảo hiểm giảm do tỷ lệ phí giảm. Lại lấy ví dụ quá trình điều chỉnh tỷ lệ phí bảo hiểm năm 1998 tăng 10,7% so với năm 1998, tỷ lệ thu phí tăng lên do rất nhiều nguyên nhân nhưng trong đó chủ (1) trong đó :73,46% ) là 75,58% (2 bïi v¨n khoa 47 bé m«n b¶o hiÓm LuËn v¨n tèt nghiÖp ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n yếu do tình hình tổn thất năm 1996, 1997 là rất lớn dẫn đến tỷ lệ bồi thường rất cao. Mặc dù tỷ lệ phí bảo hiểm tăng nhưng kim ngạch tham gia bảo hiểm không những không giảm mà còn tăng 49,8%, kéo theo tổng doanh thu phí bảo hiểm tăng tới 66% bù đắp được các khoản chi phí kinh doanh trong đó có khoản chi chính là bồi thường tổn thất, ngoài ra còn có các khoản chi khác như chi quỹ dự phòng, đề phòng và hạn chế tổn thất, chi quản lý... điều đáng nói ở đây là tổng doanh thu phí bảo hiểm năm 1998 tăng lên không hoàn toàn là vì tỷ lệ phí bảo hiểm tăng mà chủ yếu là do kim ngạch hàng hoá trong bảo hiểm tăng rất nhanh 49,48% cao hơn rất nhiều so với tốc độ tăng của tỷ lệ phí 10,7%. Từ sự phân tích ở trên ta có thể nhận định rằng biểu phí mà PJICO tính toán đưa ra là rất linh hoạt, phù hợp với nhu cầu của khách hàng cũng như sự biến động đa dạng của thị trường bảo hiểm và của toàn bộ nền kinh tế. Do đó đã góp phần làm tăng doanh thu từ phí bảo hiểm hay nói cách khác số lượng hàng hoá xuất nhập khẩu được bảo hiểm tại PJICO ngày càng nhiều, uy tín của công ty đối với khách hàng ngày càng cao. Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu đạt được, PJICO còn rất nhiều tồn tại và khó khăn trong quá trình thực hiện chiến lược khai thác của mình. Trước hết ta thấy rằng tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của cả nước đang tăng dần qua các năm, hoạt động ngoại thương đang có xu hướng phát triển mạnh, đẩy nhanh tiến trình hội nhập nền kinh tế vào nền kinh tế khu vực và kinh tế thế giới trong xu thế khu vực hoá, toàn cầu hoá đang diễn ra hết sức mạnh mẽ và sôi động như hiện nay. Mặc dù nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu của PJICO có tăng trưởng và phát triển song tỷ lệ kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá tham giam bảo hiểm ở PJICO so với tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá lại rất thấp chỉ khoảng 2%. Điều này không chỉ đặt ra đối với riêng PJICO mà đang là vấn đề chung của toàn thị trường bảo hiểm Việt Nam hiện nay, ngoài số lượng khách hàng trong cổ đông là những khách hàng truyền thống chủ yếu quen thuộc đối với PJICO là các tổng công ty, một số đơn vị nhà nước kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá, trong đó cơ cấu mặt hàng được bảo hiểm chưa đa dạng chủ yếu là hàng lương thực thực phẩm, hàng tiêu dùng... vì vậy giá trị bảo hiểm không cao và rủi ro tổn thất rất lớn. PJICO chưa thực sự hấp dẫn đối với các doanh nghiệp, đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu có vốn đầu tư nước ngoài vì vậy họ chủ yếu tham gia bảo hiểm ở các công ty nước ngoài có khả năng tài chính lớn uy tín và chất lượng cao. Mặt khác PJICO chưa thực sự tuyên truyền bám sát khách hàng chưa thâm nhập được vào quá trình đàm phán các hợp đồng vay nợ, liên doanh bïi v¨n khoa 48 bé m«n b¶o hiÓm LuËn v¨n tèt nghiÖp ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n đầu tư với nước ngoài để đấu tranh giành lại quyền lợi cho phía mình. Sự phối hợp giữa PJICO với các doanh nghiệp bảo hiểm khác để khai thác mở rộng thị trường, thu hút khách hàng còn hạn chế chưa thống nhất đánh giá được các tồn tại cần khắc phục và cần phải cải thiện hơn nữa của ngành bảo hiểm. Chưa nghiên cưú để tham mưu cho các cơ quan quản lý có những chủ trương, giải pháp giúp đỡ hoặc tổ chức hội nghị phối kết hợp với các chủ hàng, chủ doanh nghiệp đặc biệt trong lĩnh vực xuất khẩu (có những trận địa còn bỏ trống như mặt hàng dầu thô kim ngạch xuất khẩu hơn 1 tỷ USD hàng năm vẫn bảo hiểm 100% ở nước ngoài). Những khó khăn tồn tại trên ở PJICO một phần cũng là khó khăn của toàn bộ thị trường bảo hiểm và toàn bộ nền kinh tế do vị thế nền kinh tế nước ta trên thương trường quốc tế chưa cao nên trong quan hệ ngoại thương ta thường phải chịu sức ép nhập khẩu theo giá CIF và xuất khẩu theo giá FOB hay CF, hàng hoá của Việt Nam đang trong quá trình xâm nhập thị trường, sức cạnh tranh hạn chế nên thế của ta chưa đủ để ép đối tác nước ngoài dành quyền mua bảo hiểm cho phía Việt Nam. Ngoài ra do lượng hàng hoá nhập theo chương trình ODA (đã giải ngân) chiểm khoảng 3-5% tổng kim ngạch nhập khẩu không khai thác được do bên viện trợ đầu tư thu xếp bảo hiểm và hàng hoá nhập khẩu từ nguồn vốn đầu tư nước ngoài chiếm 23%, mặt khác trình độ nghiệp vụ của các khai thác viên bảo hiểm đòi hỏi thực tế về bảo hiểm của khách hàng trong nền kinh tế đang phát triển như hiện nay của nước ta. Công tác thống kê nghiệp vụ, quản lý và đánh giá rủi ro, xác định tỷ lệ phí, điều kiện, điều khoản áp dụng còn có những hạn chế, do vậy mà nó chính là một trong những nguyên nhân làm cho công tác khai thác của PJICO hiện nay chưa đạt được kết quả cao. Chính vì vậy trong những năm tới PJICO cần phải đưa ra các biện pháp chiến lược khai thác bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu phù hợp mới mẻ và thực hiện một cách tích cực triệt để nhằm đạt được kết quả cao hơn vưà góp phần vào sự phát triển của công ty nói riêng và thị trường bảo hiểm nói chung dự kiến phí bảo hiểm xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển của PJICO năm 2001 tăng khoảng 15%-20% so với năm 2000. 2. Quy trình giám định hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển ở PJICO. Giám định tổn thất là việc làm của các chuyên viên giám định của người bảo hiểm hoặc công ty giám định được người bảo hiểm uỷ quyền nhằm xác định mức độ và nguyên nhân của tổn thất làm cơ sở cho việc bồi thường đồng thời qua việc bïi v¨n khoa 49 bé m«n b¶o hiÓm LuËn v¨n tèt nghiÖp ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n giám định đó kịp thời đề xuất các biện pháp bảo quản và phòng ngừa thiệt hại cho hàng hoá. Quá trình giám định tổn thất được tất cả các công ty bảo hiểm Việt Nam quy định rất chặt chẽ theo một quy trình giám định nhằm tiến hành đánh giá, giám định tổn thất xảy ra cho hàng hoá một cách chính xác ít tốn kém nhất, đồng thời đảm bảo quyền lợi cho cả hai bên: khách hàng và công ty bảo hiểm. Khi có tổn thất xảy ra, các công ty bảo hiểm phải xem xét tổn thất đó có thuộc phạm vi, trách nhiệm bảo hiểm của mình hay không và nếu có thì mức độ tổn thất là bao nhiêu? thông thường các nguyên tắc chung của các công ty bảo hiểm khi tiến hành giám định là: - Bảo đảm giám định kịp thời, đầy đủ, trung thực, khách quan đảm bảo tốt cho việc xét bồi thường sau này. - Công ty bảo hiểm có thể trực tiếp giám định hoặc có thể chỉ định đại lý giám định của mình ở trong nước hay quốc tế hoặc thuê các công ty giám định trong và nước ngoài như: Vinacontrol, Davidcontrol, FCC, Craw Ford (công ty tính toán tổn thất lớn nhất Châu Á của Mỹ)...Đây là xu hướng phổ biến của các công ty bảo hiểm hiện nay. - Trừ trường hợp đặc biệt nhiệm vụ chính của giám định hàng hoá là giám định và thực hiện công tác đề phòng và hạn chế tổn thất hàng hoá được bảo hiểm. Ở PJICO, quy trình giám định hàng hoá xuất nhập khẩu bị tổn thất đã được ban hành kèm theo quyết định số 113/BH-HH ngày 15/07/1995 của Tổng giám đốc PJICO. Nhìn chung, khi tiến hành một vụ giám định hàng hoá vận chuyển bị tổn thất giám định viên cần thực hiện công việc theo trình tự sau: - Chấp nhận yêu cầu giám định - Tiến hành giám định - Lập biên bản giám định - Cung cấp biên bản giám định và thu phí giám định 2.1. Chấp nhận yêu cầu giám định Khi xảy ra tổn thất người được bảo hiểm phải gửi ngay yêu cầu giám định đến công ty bảo hiểm bằng bất kỳ hình thức nào nhưng sau đó buộc phải bằng văn bản để lưu trữ hồ sơ giám định. Giấy yêu cầu giám định này là thủ tục cơ bản và cần thiết cho việc thực hiện một vụ giám định và là căn cứ để đề nghị người yêu cầu giám định thanh toán phí giám định. Thông thường giấy yêu cầu giám định bao gồm các nội dung sau: - Tên, địa chỉ người hoặc tổ chức yêu cầu giám định bïi v¨n khoa 50 bé m«n b¶o hiÓm LuËn v¨n tèt nghiÖp ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n - Tên hàng - Số lượng, khối lượng hàng hoá cần giám định - Nội dung yêu cầu giám định - Thời gian, địa điểm yêu cầu giám định Giám định bảo hiểm chỉ được chấp nhận yêu cầu giám định trong những trường hợp xảy ra tai nạn, có tổn thất, thuộc phạm vi trách nhiệm bảo hiểm. Vì vậy, đối với những trường hợp phát hiện không thuộc phạm vi trách nhiệm bảo hiểm cần có ý kiến ngay để người nhận hàng có thể nhanh chóng yêu cầu cơ quan giám định ngoại thương giám định, bảo đảm việc đòi bồi thường người bán hàng hoặc người thứ ba có trách nhiệm trực tiếp. Với những trường hợp thuộc phạm vi trách nhiệm bảo hiểm có thể yêu cầu giám định khi xét thấy có đủ điều kiện sau đây:  Các chứng từ người yêu cầu giám định phải xuất trình: - Vận tải đơn đường biển (B/L) - Giấy chứng nhận bảo hiểm (đặc biệt đối với trường hợp hàng do người nước ngoài bảo hiểm ) - Hoá đơn thương mai - Giấy kê chi tiết hàng hoá (Packing list, Specification) - Các chứng từ giao nhận hàng hoá giữa tàu và cảng, COR, hoặc biên bản giao nhận người chuyên chở. Tuỳ từng trường hợp, cần yêu cầu cung cấp hoặc tìm kiếm các giấy tờ liên quan như sau: - Giấy chứng nhận hàng hoá hư hỏng - Thư dự kháng (thư từ khiếu nại người thứ ba) - Báo cáo hải sự hoặc trích sao nhật ký hàng hải (Sea-protest). Khi sử dụng các giấy tờ cần cân nhắc đối chiếu các giấy tờ với thực hàng, đối chiếu giữa các loài giấy tờ để tránh nhầm lẫn trong mọi vụ giám định và cũng là để có thêm điều kiện xác định nguyên nhân được chính xác hơn (về số lượng, loại hàng, trách nhiệm người bán, trách nhiệm người vận tải, tìm kiếm những ghi chú trên vận tải đơn)  Công tác chuẩn bị hiện trường cần xét tới: - Thời gian và địa điểm yêu cầu giám định. - Yêu cầu sẵn sàng giám định (hàng xấu hỏng để riêng hay còn lẫn với hàng tốt) bïi v¨n khoa 51 bé m«n b¶o hiÓm LuËn v¨n tèt nghiÖp ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n - Sự có mặt của các bên liên quan Tuỳ tình hình đặc điểm của mỗi cảng trong nước, tuỳ từng công ty bảo hiểm sẽ có những quy định cụ thể để làm việc được thuận lợi đối với đại diện người được bảo hiểm, nhưng nhất thiết không được trái với những nguyên tắc sau đây: - Chỉ giám định những trường hợp tổn thất xảy ra thuộc phạm vi bảo hiểm và trong khi hợp đồng bảo hiểm đang còn hiệu lực. - Hàng bị hư hỏng, mất mát cần được giám định ngay mà không dựa vào thời hiệu bảo hiểm để chậm trễ yêu cầu giám định. - Hàng có tổn thất sau khi dỡ khỏi tàu phải được giám định ngay tại cảng dỡ hàng, hoặc tại kho cuối cùng nếu trước khi di chuyển từ tàu về kho cuối cùng đã có biên bản ký kết với tàu, với cảng, ghi rõ số lượng và trạng thái hàng hoá bị tổn thất. - Định nghĩa về kho cuối cùng không được trái với quy tắc chung về bảo hiểm hàng hoá vận chuyển bằng đường biển của công ty bảo hiểm hoặc điêù kiện trong đơn bảo hiểm của nước ngoài trong trường hợp làm việc với danh nghĩa đại lý giám định cho công ty bảo hiểm nước ngoài. - Đối tượng giám định là hàng hoá được bảo hiểm có tổn thất rõ rệt hoặc có hiện tượng nghi vấn tổn thất chứ không phải là hàng hoá nguyên đai, nguyên kiện, có nghi vấn về số lượng hoặc phẩm chất không do ảnh hưởng của những rủi ro từ bên ngoài tác động vào. - Giám định bảo hiểm là giám định đối địch giữa người bảo hiểm và người được bảo hiểm hoặc tuỳ trường hợp có thể có mặt của người thứ ba có trách nhiệm đối với tổn thất (đại diện cho người chuyên chở). Người mua hàng của ngoại thương (chủ hàng nội địa) không có quyền cản trở hoặc tranh chấp những vấn đề có liên quan tới công việc giám định bảo hiểm. 2.2. Tiến hành giám định: Sau khi nhận yêu cầu giám định và nghiên cứu kỹ các giấy tờ có liên quan, đúng ngày đã hẹn giám định viên cần có mặt tại địa điểm như đã nêu trên để thực hiện công việc giám định. Giám định viên cần mang theo các dụng cụ cần thiết phục vụ cho việc giám định (cân, thước do, máy ảnh, máy tính, nhiệt kế) Công việc giám định cần được tiến hành khẩn trương, ý kiến của giám định viên đưa ra phải đảm bảo tính chất chính xác, hợp lý và nhất quán. Với những trường hợp phải giám định kéo dài ngày, giám định viên phải bám sát hiện trường. bïi v¨n khoa 52 bé m«n b¶o hiÓm LuËn v¨n tèt nghiÖp ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n Do không thể có mặt thường xuyên trong khi theo dõi giám định những lô hàng hoá lớn tại các kho hàng hoặc trên tàu biển, giám định viên cần phải biết chia và chọn thời gían thích hợp nhất để kiểm tra đúng lúc bảo đảm đuợc tình hình và mức độ tổn thất tiêu biểu cho mỗi vụ. Muốn làm tốt được việc này, tại mỗi cảng có hàng nhập về, các chi nhánh cần đề ra những nguyên tắc cụ thể và phối hợp chặt chẽ với các cơ quan liên quan như: cảng, đại diện cho người được bảo hiểm , các chủ hàng nội địa, đại lý tàu biển để ổn định quá trình tiến hành giám định và đảm bảo tính chất trung thực trong các khâu giao nhận, kiểm đếm và bảo quản hàng hoá được bảo hiểm. Phải có biện pháp giải quyết dứt điểm. Trong mỗi vụ giám định cần chú ý tới các mặt sau đây trong mỗi bước kiểm tra: * Kiểm tra bao bì cần chú ý: - Xem lại bao bì và các mã hiệu ngoài để xác định được đúng đối tượng giám định. - Ký hiệu đề phòng tổn thất ngoài bao bì (phát hiện khả năng tổn thất có nguyên nhân do thiếu loại ký hiệu này) - Quy cách và chất lượng bao bì phù hợp với yêu cầu vận chuyển bằng đường biển (hàng hỏng do khuyết tật của bao bì không) - Bao bì cũ/ mới (có phù hợp với tập quán và điều kiện mua bán, vận chuyện không) - Vật liệu làm bao bì (hàng hỏng có phải do khuyết điểm của nguyên liệu bao bì không). - Và các chất liệu khác cần phát hiện để tìm ra khả năng tổn thất là do bao bì hàng hoá hay còn do những nguyên nhân nào khác. - Nếu bao bì có niêm phong kẹp chì thì cần kiểm tra kỹ xem có khác gì với sự miêu tả trong chứng từ vận chuyển không. * Kiểm tra bên trong kiện hàng cần chú ý: - Cách sắp xếp và bao bì hàng hoá bên trong kiện hàng cũng như vật chèn, lót (có phù hợp với tính chất hàng hoá không). - Tính chất hàng hoá. - Phát hiện các vết ướt, mốc, chỗ trống, vật lạ. - Và các hiện tượng khả nghi khác để tìm ra nguyên nhân tổn thất có thể do bao bì, chèn lót bên trong, khả năng mất mát, đóng thiếu hoặc nhầm hàng. * Phân loại tổn thất và xác định mức độ tổn thất: bïi v¨n khoa 53 bé m«n b¶o hiÓm LuËn v¨n tèt nghiÖp ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n Sau khi phát hiện các dấu vết khả nghi bên ngoài và trong kiện hàng, cần phân loại và xác định mức độ tổn thất, khó phân loại và xác định có thể tham khảo ý kiến của các chuyên viên mặt hàng được mời tham dự giám định. Việc xác định mức độ tổn thất phải chính xác, hợp lý và thiết thực xác định riêng số lượng từng loại hàng thiếu, xác định riêng hàng hỏng với mức độ thiệt hại khác nhau tuỳ theo hiện trạng hàng hoá. Cân nhắc giá trị sử dụng và ước tính giá bán hàng kém phẩm chất để tránh hiện tượng giảm giá không phù hợp. Cần xác định mức độ tổn thất và mức độ giảm giá riêng kho hàng hoá hỏng do những nguyên nhân khác nhau, thuộc các bên chịu trách nhiệm khác nhau và cần có sự thoả thuận của người yêu cầu giám định. Trường hợp có tổn thất lớn và phức tạp dễ gây ra tranh chấp khi xác định mức độ tổn thất cần lấy mẫu hàng hoá (mẫu hàng tốt, mẫu hàng hỏng các loại). Tuỳ từng trường hợp có thể lấy mẫu một lần hoặc nhiều lần có khoảng cách về thời gian thích hợp. Ngoài việc xác định mức độ thiệt hại các lọai hàng hoá còn phải xác định các loại phí tổn của hàng, chỉnh lý, sửa chữa và thay thế nếu cần trên cơ sở tính toán hợp lý. Khi phân loại và xác định mức độ tổn thất cần chú ý: + Với trường hợp thiếu số lượng: - Xác định trên cơ sở (số liệu) ghi trong giấy đóng gói và hoá đơn bán hàng. - Chỉ rõ kích cỡ, thể loại mặt hàng thiếu hụt so với giấy đóng gói. - Xét khả năng đóng thiếu hàng hoặc đóng nhầm hàng từ kiện này sang kiện kia. - Với các mặt hàng như xe cộ, máy móc cần xét khả năng có những bộ phận người khách hàng không gửi kèm theo hàng hoá đó. + Với trường hợp thiếu trọng lượng: - Xét tới hao hụt tự nhiên, thuỷ phân và hợp chất. - Xác định thiếu hụt trên cơ sở giấy chứng nhận của người bán hoặc trọng lượng trung bình của mỗi kiện hàng tính theo số liệu ghi trên hoá đơn hay vận tải đơn. - Hàng hoá có trọng lượng đồng đều hay có chênh lệch giữa các bao, kiện. - Bao bì có trọng lượng đồng đều hay có chênh lệch giữa các thùng, kiện hàng của mỗi lô hàng. - Kiểm tra cân và sử dụng được khi giám định. + Với trường hợp hàng bị hư hỏng: - Xác định số lượng và trọng lượng của hàng hỏng. bïi v¨n khoa 54 bé m«n b¶o hiÓm LuËn v¨n tèt nghiÖp ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n - Xét tới giá trị sử dụng theo đúng thứ loại hàng và khả năng đưa vào sử dụng việc khác. - Hàng được thay thế bộ phận, chỉnh lý, sửa chữa theo yêu cầu của giám định viên sẽ được tính giảm giá sau khi chỉnh lý, thay thế bộ phận hoặc sửa chữa. - Khi mức độ rủi ro của hàng hoá trong cùng một lô hàng có khác nhau thì định mức riêng cho từng loại và nếu cần lấy mẫu riêng của từng loại. - Với các mặt hàng thiết bị máy móc, cần xét tới ảnh hưởng của công suất và độ bền của hàng hóa. - Xét tới trường hợp của tổn thất bộ phận ảnh hưởng tới toàn bộ cố máy. - Có biện pháp tích cực khắc phục tình trạng xác định tỷ lệ giảm giá mỗi lần một khác ở các vụ có dạng tổn thất khác nhau. - Phải có ý kiến tập thể lãnh đạo trước khi thừa nhận tổn thất toàn bộ. - Tỷ lệ giảm giá được xác định trên cơ sở giá trị còn lại của hàng hoá đã bị tổn thất (tỷ lệ giá bán hàng tổn thất và nguyên vẹn trên thị trường). Các mặt hàng máy móc, thiết bị, ô tô thì chỉ xác định tổn thất thực tế. * Xác định nguyên nhân tổn thất : Xác định nguyên nhân tổn thất tức là xác định nguời chịu trách nhiệm gây ra tổn thất cho hàng hoá. Để xác địng đúng nguyên nhân gây ra tổn thất cần tìm hiểu, xem xét kĩ hiện trường, thu thập đầy đủ chứng từ và nghi nhận đầy đủ các vấn đề liên quan ngay từ khi bắt đầu tới khi kết thúc giám định. Có thể xác định nguyên nhân tổn thất trên cơ sở sau: - Tính chất hàng hoá và bao bì hàng hoá. - Đặc điểm phương tiện chuyên chở và hành trình của hàng hoá. - Dạng tổn thất. - Tình hình bốc dỡ, chất xếp, lưu kho, chuyển tải. - Tình hình giao nhận của các bên liên quan. Khi kết luận không được vội vã, chủ quan và tuỳ tiện, thiếu cơ sở thực tiễn, thiếu khoa học. Cần hạn chế đến mức thấp nhất việc sử dụng những câu chữ chung chung, không qui được ssố trách nhiệm riêng lẻ của từng trường hợp, gây khó khăn cho việc xem xét giải quyết sau này. Cần thiết phải chỉ rõ hỏng, mất mát. Như vậy là do thiếu sót về phần bao bì hàng hoá, do kho tàng, bốc dỡ chuyên chở để có thể qui được phần trách nhiệm là do: Người bán hàng, nguời vận tải, kho hàng hay do chính người được bảo hiểm đã gây thiệt hại cho hàng hoá. bïi v¨n khoa 55 bé m«n b¶o hiÓm LuËn v¨n tèt nghiÖp ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n 2.3. Lập biên bản giám định. Sau khi đã giám định xong, giám định viên suy nghĩ và chắt lọc những chi tiết cơ bản để phản ánh toàn bộ những điều đã được chứng kiến tại hiện trường vào một bản gọi là "Biên bản giám định". Biên bản giám định này là tài liệu chính để xét duyệt bồi thường cho người được bảo hiểm và sử dụng để khiếu nại đòi bồi thường đối với người thứ ba. Vì vậy, nội dung biên bản phải đảm bảo tính trung thực, chính xác, rõ ràng, cụ thể. Các số liệu phải phù hợp với trạng thái và không mâu thuẫn khi đối chiếu với các tài liệu do chính nội dung biên bản dẫn chứng. Với một số mặt hàng xuất nhập khẩu thường xuyên và khi bị tổn thất thường hay gặp ở những dạng giống nhau thì không cần thiết phải mô tả dài dòng. Nhưng với những trường hợp có tổn thất lớn, những trường hợp liên quan đến nhiều tình tiết phức tạp thì cần được mô tả một cách đầy đủ và thật cụ thể để người giải quyết khiếu nại có thể thông qua biên bản mà có thể hình dung được nguyên nhân và mức độ tổn thất, thuận lợi cho việc quyết định bồi thường hay từ chối trách nhiệm bồi thường. Vì vậy, ngoài yêu cầu trả lời đầy đủ những mục in sẵn trong biên bản giám định để có được số liệu và tình hình cụ thể về trạng thái hàng hoá, phương tiện vận chuyển cũng như các chặng đường vận chuyển thì cần chú ý liên hệ tới các điểm sau đây: - Tài liệu sử dụng để tham khảo, đối chiếu hoặc dẫn chứng - Những phát hiện riêng của giám định viên trên cơ sở hiện vật ngoài hiện trường để đi đến kết luận về mức độ thiệt hại và nguyên nhân gây ra tổn thất - Ý kiến của cán bộ chuyên môn về mặt hàng (chuyên viên, cán bộ kỹ thuật) - Dẫn chứng bằng tài liệu kiểm nghiệm (chứng nhận, phân tích) - Dẫn chứng bằng ảnh chụp ngoài hiện trường. Với những trường hợp sử dụng kỹ thuật viên trong việc kiểm tra phẩm chất hàng hoá hư hỏng tại phòng thí nghiệm hoặc qua kiểm tra chi tiết máy để xác định tổn thất, giám định viên có thể đưa kết quả giám định vào nội dung biên bản giám định. Nhưng với trường hợp kiểm nghiệm hoặc kiểm tra quan trọng, cần có những phân tích tỉ mỉ và phức tạp thì phải có riêng giấy chứng nhận kiểm nghiệm phẩm chất hoặc báo cáo kiểm tra kỹ thuật kèm theo biên bản. Trong mọi trường hợp khi chỉ định cơ quan hoặc cá nhân làm công việc kiểm tra kỹ thuật, giám định viên pải chịu trách nhiệm theo dõi cho tới khi có đầy đủ những kết quả kiểm nghiệm hoặc kiểm tra hợp lý. bïi v¨n khoa 56 bé m«n b¶o hiÓm LuËn v¨n tèt nghiÖp ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n Trong quá trình giám định phải đề xuất ý kiến và hướng dẫn khách hàng thực hiện mọi biện pháp nhămg ngăn ngừa và hạn chế tổn thất. Đồng thời theo yêu cầu giám định, giám định viên có thể ghi thêm các chi phí và lao động đã thực hiện trong quá trình phục vụ giám định vào biên bản. Tuy nhiên, những ý kiến và các chi phí nói trên được thực hiện trong quá trình giám định cũng không có nghĩa là ngưoừi bảo hiểm được chấp nhận tổn thất xẩy ra thuộc trách nhiệm của bảo hiểm và chấp nhận các chi phí phục vụ trên. Với những vụ tổn thất lớn, quan trọng và phức tạp cần phải có ý kiến của tập thể và lãnh đạo trước khi lên biên bản giám định. 2.4. Cung cấp biên bản giám định và thu phí giám định. Sau khi đã lập biên bản giám định, giám định viên cần tuân thủ những quy định sau: - Theo nguyên tắc, biên bản giám định làm ra chỉ cấp phát cho những người yêu cầu giám định. Không tiết lộ một nội dung giám định nào cho các cơ quan hoặc cá nhân khác ngoài cơ quan hay cá nhân yêu cầu giám định, từ trường hợp đã được người yêu cầu giám định thoả thuận hoặc lãnh đạo công ty bảo hiểm cho phép. - Những chứng từ tài liệu liên quan tới mọi vụ giám định phải được lưu trữ cùng với biên bản giám định, trừ khi là tài liệu mượn phải trả sau khi hoàn thành công tác giám định. Với những tài liệu cần sử dụng làm bằng chứng thì trước khi trả cần sao chép lại để lưu trữ. - Việc cấp thêm biên bản giám định cho bất kỳ người nào khác phải được sự thoả thuận hay uỷ quyền của người yêu cầu giám định bằng văn bản và sẽ tính thêm phí nếu cần. - Việc chỉnh lý biên bản giám định hoặc số liệu theo yêu cầu của người yêu cầu giám định phải được xem xét cẩn thận. Nếu việc chỉnh lý này là do lỗi của bản thân giám định viên tính toán hoặc đánh máy sai trong biên bản giám định thì việc chỉnh lý này là việc làm đương nhiên và giám định viên phải chỉnh lý lại cho khách hàng. Nếu việc chỉnh lý này liên quan tới vấn đề kết luận nguyên nhân của tổn thất hoặc tỷ lệ giảm giá thương mại thì giám định viên quyết đúng đắn. Trên cơ sở các chứng từ mà giám định viên được cung cấp khi giám định công ty bảo hiểm và khách hàng có thể gặp nhau để thương lượng những điểm cần chỉnh lý. Nếu hai bên không thống nhất ý kiến với kết quả của biên bản giám định mới thì có thể cùng thuê cơ quan giám định khác tiến hành giám định và bên không thoả mãn với kết quả giám định của công ty bảo hiểm sẽ tự chịu chi phí. Kết quả giám định mới này có thể là chứng cứ để đưa vào hồ sơ khiếu nại đòi bảo hiểm bồi thường sau này. - Giám định viên phải tiến hành thu phí giám định theo quy định và hướng dẫn của ngành. bïi v¨n khoa 57 bé m«n b¶o hiÓm LuËn v¨n tèt nghiÖp ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n - Định kỳ, giám định viên phải có báo cáo thống kê tình hình tổn thất và giám định. Cố gắng tìm ra những nguyên nhân chính và thường xuyên xẩy ra để từ đó đề xuất các biện pháp đề phòng và hạn chế tổn thất cho các lô hàng sau nhằm giảm chi phí bồi thường. Đặc trưng rủi ro gây ra tổn thất trong bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển là thường xẩy ra hết sức phức tạp, trên một pham vị rộng lớn, tổn thất một lượng giá trị hàng hoá cao, có liên quan đến nhiều chủ thể, lĩnh vực và nhiều thông lệ, bộ luật của nhiều quốc gia trên thế giới nên công tác giám định gặp rất nhiều khó khăn trở ngại. Đây không phải là vấn đề riêng có ở PJICO mà là vấn đề đặt ra đối với toàn bộ các công ty bảo hiểm trên thị trường bảo hiểm. Từ khi chính thức đi vào hoạt động ngày 17/06/ 1995, PJICO đã có nhiều cố gắng trong việc nâng cao hiệu quả của công tác giám định nói chung và của nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển nói riêng. Nhưng do công việc này đòi hỏi người thực hiện phải có trình độ, kinh nghiệm thực tiễn và đặc biệt là do chưa đánh giá đúng vai trò của công tác này cho nên những năm đầu đi vào hoạt động, sự hỗ trợ của công tác giám định đối với các khâu khác trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm chưa nhiều, bản thân công tác giám định vẫn còn nhiều hạn chế. Trong những năm gần đây, được sự chỉ đạo đúng đắn của các cấp lãnh đạo của công ty, sự nỗ lực của cán bộ giám định nên công tác giám định ở PJICO đã có nhiều chuyển biến tích cực và ngày càng khẳng định được vai trò của nó trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Thời gian qua công tác giám định hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển ở PJICO đang ngày càng được hoàn thiện và đã đạt được những kết quả đáng khích lệ, thể hiện rõ qua bảng số liệu sau: Bảng 8: Chi phí giám định hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển ở PJICO từ 1995- 2000 Đơn vị: Nghìn VND Chỉ tiêu Phí giám định tự làm Phí giám định thuê ngoài Phí giám định được uỷ thác 1995 0 65.8573 0 1996 75.485 164.192 0 1997 92.617 181.795 0 Năm bïi v¨n khoa 58 bé m«n b¶o hiÓm LuËn v¨n tèt nghiÖp ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n 1998 165.588 127.682 17.215 1999 159.712 102.374 20.175 2000 238.642 77.593 33.656 Nguồn số liệu: Phòng Giám định bồi thường- PJICO. Bảng số liêu trên cho thấy: Chi phí giám định tự làm của nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển ở PJICO đã không ngừng tăng lên qua các năm. Năm 1995 do mới đi vào hoạt động trong vòng 6 tháng cuối năm, nên việc bố trí cán bộ làm giám định viên chưa thống nhất và một số giám định viên còn đang được cử đi đào tạo nâng cao trình độ trong công tác giám định, chính vì vậy công tác giám định hàng hoá bị tổn thất hoàn toàn uỷ quyền lại cho các công ty giám định trung gian, chi phí này là 65.873 nghìn đồng. Từ năm 1996 hoạt động kinh doanh đi vào ổn định, tuy nhiên phòng Giám định bồi thường vẫn chưa được thiết lập để thực hiện chuyên trách nhiệm vụ, chức năng của mình trong cơ cấu tổ chức của công ty mà các cán bộ phòng Hàng hải và một số phòng ban chức năng phải kiêm nhiệm công tác giám định bồi thường hàng hóa xuất nhập khẩu bị tổn thất. Mặc dù công tác giám định hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển ở PJICO đã đạt được kết quả rất khả quan thể hiện phí giám định tự làm, phí giám định được uỷ thác luôn có xu hướng tăng dần qua các năm và phí giám định thuê ngoài có xu hướng giảm dần, nhưng việc thiết lập phòng chức năng chuyên trách công tác giám định bồi thường ở PJICO là rất cấp bách và cần thiết. Ngay khi đi vào hoạt động kinh doanh, PJICO đã tích cực chuẩn bị về mọi mặt: nhân lực, trang thiết bị kỹ thuật giám định, các chương trình đào tạo, huấn luyện thực tế… và tới năm 2000 phòng Giám định bồi thường của công ty đã chính thức được thành lập và thực hiện chức năng của mình do các chuyên viên giám định đảm nhận. Kết quả của công tác giám định năm 2000 đã thể hiện được vai trò to lớn của phòng: phí giám định tự làm đạt 283.642 nghìn đồng gấp 3,2 lần so với năm 1996; phí giám định thuê ngoài giảm mạnh qua các năm, nếu như năm 1996 phí giám định thuê ngoài chiếm 68,5% tổng phí giám định thì đến năm tỷ lệ này chỉ khoảng 22,2% và phí giám định được uỷ thác đạt 33.656 nghìn đồng cao nhất từ khi thành lập công ty đến nay. Hoạt động kinh doanh bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển cũng như các nghiệp vụ bảo hiểm khác ở PJICO thường được tiến hành theo các khâu: khai thác, giám định, đề phòng và hạn chế tổn thất, bồi thường, đòi người thứ ba. Mỗi khâu đóng một vai trò nhất định trong toàn bộ quá trình kinh doanh bảo hiểm. Đồng thời chất lượng, hiệu quả hoạt động của từng bïi v¨n khoa 59 bé m«n b¶o hiÓm LuËn v¨n tèt nghiÖp ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n khâu có ảnh hưởng trực tiếp đến các khâu còn lại cũng như ảnh hưởng đến kết quả và hiệu quả kinh doanh của công ty. Vì vậy, những tác động tích cực hay ảnh của công tác giám định hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển đến các khâu còn lại của quá trình kinh doanh nghiệp vụ cũng như đối với kết quả và hiệu quả kinh doanh bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển ở PJICO trong thời gian qua là rất lớn, không thể liệt kê chi tiết bằng các con số hay số liệu. Với kết quả đã đạt được, công tác giám định đang ngày càng khẳng định được vai trò to lớn của nó trong việc nâng cao hiệu quả kinh doanh bảo hiểm nói chung và hoạt động bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển nói riêng. Tuy nhiên, do tính chất phức tạp của công việc nên cho đến nay công tác giám định hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển ở PJICO vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế cần phải tích cực hoàn thiện hơn nữa: - Việc tiến hành giám định ở PJICO còn gặp nhiều khó khăn do hệ thống các chi nhánh, đại lý của công ty chưa hoàn chỉnh. Đến thời điểm này PJICO chỉ có 9 chi nhánh công ty ở một số tỉnh, thành phố trong cả nước: TP. Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng, Cần Thơ, Quảng Ninh, Quảng Bình, Thừa Thiên Huế, Nghệ An, Khánh Hoà, và chỉ ở các chi nhánh công ty này mới có thẩm quyền và có cán bộ làm công tác giám định. Vì vậy, khi có rủi ro xảy ra ở các khu vực khác thì các chi nhánh vẫn chưa có sự phối hợp chặt chẽ với nhau trong công tác giám định nhằm đạt hiệu quả tối ưu. - Giám định là một công việc hết sức phức tạp đặc biệt là trong nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu, đối tượng giám định là những lô hàng hoá xuất nhập khẩu có giá trị rất lớn, chủng loại hàng hoá rất đa dạng, việc xác định nguyên nhân và mức độ tổn thất rất khó khăn, rủi ro gây ra tổn thất lại thường xuyên xảy ra đòi hỏi người thực hiện phải có trình độ chuyên môn cao, am hiểu nhiều lĩnh vực. Mặt khác do công ty mới đi vào hoạt động nên trình độ và kinh nghiệm của các giám định viên còn hạn chế vì vậy công tác này vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu trong quá trình kinh doanh nghiệp vụ của công ty. - Công tác giám định hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển ở PJICO trong những năm qua mặc dù đạt được nhiều kết quả to lớn nhưng vẫn còn một số vấn đề đặt ra cần phải khắc phục và hoàn thiện trong thời gian tới. Phí giám định mà PJICO thu được do bên ngoài uỷ thác còn quá thấp và hầu như không có. Năm 1995 - 1997 công ty không thu được một đồng nào từ khoản phí này, từ năm 1998 - 2000 cũng chỉ thu được vài chục triệu đồng, thấp hơn bïi v¨n khoa 60 bé m«n b¶o hiÓm
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan