Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tài chính - Ngân hàng Bảo hiểm Báo cáo chuyên đề bảo hiểm bh08 phần 2...

Tài liệu Báo cáo chuyên đề bảo hiểm bh08 phần 2

.PDF
20
88
118

Mô tả:

LuËn v¨n tèt nghiÖp ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n A  C 1   F R * (1  a) Trong đó: a là phần trăm lãi dự tính và thường bằng 10% của số tiền bảo hiểm hoặc giá trị bảo hiểm. Ngoài ra, để lập bảng chào phí người bảo hiểm còn phải tính đến các yếu tố khác như: -Loại hàng hoá: hàng hoá dễ bị tổn thất như dễ đổ vỡ, dễ bị mất cắp... thì tỷ lệ phí bảo hiểm cao hơn -Loại bao bì, phương thức đóng gói hàng hoá -Phương tiện vận chuyển: xem xét một số chi tiết liên quan đến tàu vận chuyển như tên tàu, quốc tịch, loại tàu, tuổi tàu... -Hành trình vận chuyển và các thiết bị cảng tại các cảng tàu cập bến -Điều kiện bảo hiểm càng rộng thì rủi ro càng nhiều do đó phí bảo hiểm tăng lên. Tỷ lệ phí bảo hiểm thường xuyên được xem xét, điều chỉnh lại một cách định kỳ trên cơ sở những hậu quả tổn thất cuả người được bảo hiểm trong kỳ trước cũng như tình hình thực tế. Điều này được gọi là định phí theo kết quả, vì vậy để giữ được tỷ lệ phí thấp việc đề phòng và hạn chế rủi ro gây ra tổn thất là rất quan trọng. Hợp đồng bảo hiểm chỉ có hiệu lực ngay sau khi phí bảo hiểm được trả, người bảo hiểm có quyền huỷ bỏ hợp đồng bảo hiểm nếu người được bảo hiểm không thực hiện đúng nghĩa vụ trả phí bảo hiểm hoặc có quyền từ chối bồi thường khi rủi ro xảy ra. 5. Khiếu nại đòi bồi thường trong bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển. 5.1. Nghĩa vụ của người được bảo hiểm khi xảy ra tổn thất. Khi phương tiện chuyên chở bị tai nạn và đe doạ đến sự an toàn cho hàng hoá của người được bảo hiểm thì người được bảo hiểm phải có trách nhiệm thông báo cho các cơ quan chức năng nơi gần nhất như cơ quan hàng hải, cơ quan bảo hiểm ... để các cơ quan này có biện pháp phối hợp theo dõi, phòng bị cho tàu và hàng hoá. Nếu được thông tin hay phát hiện thấy thực tế hàng hoá bị tổn thất thì người được bảo hiểm cần làm ngay các công việc sau: -Thông báo cho người bảo hiểm biết và nếu thấy tình hình hàng hoá tổn thất hoặc nghi ngờ có tổn thất thì cần làm giấy yêu cầu đề nghị người giám định ngay. bïi v¨n khoa 21 bé m«n b¶o hiÓm LuËn v¨n tèt nghiÖp ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n Việc giám định hàng hoá được bảo hiểm bị tổn thất phải do người bảo hiểm tiến hành theo đơn đề nghị của người được bảo hiểm. Nếu vụ tổn thất không được giám định viên của người bảo hiểm giám định thì sẽ không được chấp nhận bồi thường. - Thực hiện các biện pháp đề phòng và hạn chế tổn thất. Thực ra, việc đề phòng và hạn chế tổn thất cho hàng hoá nói chung trong hợp đồng bảo hiểm là để chỉ những trường hợp hàng hoá bị rủi ro (thuộc phạm vi bảo hiểm như: cháy, nổ, mắc cạn...) đe doạ tàu khi tàu chở hàng đang trên đường hành trình hoặc neo đậu tại bến cảng dọc đường. - Bảo lưu quyền khiếu nại cho người bảo hiểm tức là đơn khiếu nại ngay bên gây ra tổn thất hàng hoá và gọi là khiếu nại người thứ ba, người đứng ngoài hợp đồng bảo hiểm. Ở đây cần lưu ý nếu người thứ ba là chủ tàu, người chuyên chở hoặc chủ kho hàng đều có quy định riêng về thời gian cho phép khiếu nại theo luật trong nước, luật quốc tế hay các văn bản dưới luật. Việc bảo vệ tài sản trước những tình huống có nguy cơ thuộc phạm vi trách nhiệm của hợp đồng bảo hiểm đều đòi hỏi sự nỗ lực của cả hai bên và khi đó chưa cần xét đến biện pháp giải quyết bồi thường của người bảo hiểm. Xuất phát từ những đặc điểm này, người bảo hiểm có quy định việc người bảo hiểm tham gia vào các biện pháp cứu hộ và bảo vệ hàng hoá đều không thể coi là dấu hiệu của sự khước từ hay chấp nhận việc từ bỏ hàng hoá. 5.2. Thủ tục khiếu nại đòi bồi thường. Khiếu nại là sự thỉnh cầu hay yêu cầu người bảo hiểm bồi thường trên cơ sở những chứng cứ do người được bảo hiểm đưa ra. Hồ sơ khiếu nại để đòi người bảo hiểm bồi thường gồm nhiều loại giấy tờ khác nhau những phải chứng minh được: - Người khiếu nại có lợi ích bảo hiểm; - Hàng hoá đã được bảo hiểm; - Tổn thất thuộc một rủi ro được bảo hiểm; - Mức độ tổn thất; - Thực hiện nguyên tắc thế quyền để người bảo hiểm có thể đòi được người thứ ba bồi thường. Hồ sơ khiếu nại đòi bồi thường phải bao gồm các loại giấy tờ sau đây: 1- Đơn bảo hiểm hoặc giấy chứng nhận bảo hiểm (bản gốc) 2- Vận đơn đường biển (bản gốc) và hợp đồng thuê tàu (nếu có) 3- Hoá đơn thương mại bïi v¨n khoa 22 bé m«n b¶o hiÓm LuËn v¨n tèt nghiÖp ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n 4- Hoá đơn về các chi phí khác (nếu có) 5- Giấy chứng nhận trọng lượng, số lượng 6- Biên bản kết toán nhận hàng với tàu 7- Phiếu đóng gói 8- Văn bản, giấy tờ liên quan tới việc đòi người thứ ba bồi thường và trả lời (nếu có) 9- Kháng nghị hàng hải hoặc nhật ký hàng hải 10- Thư khiếu nại có ghi rõ số tiền yêu cầu bồi thường 11- Biên bản bất thường về hàng hoá vận chuyển 12- Biên bản giám định . Sau khi kiểm tra chứng từ và thanh toán bồi thường, mọi khoản khiếu nại và quyền khiếu nại của người được bảo hiểm đối với người thứ ba đều được chuyển cho người bảo hiểm mà giới hạn là số tiền đã bồi thường. Người được bảo hiểm muốn khiếu nại tổn thất toàn bộ ước tính cho hàng hoá được bảo hiểm, phải gửi thông báo từ bỏ hàng cho người bảo hiểm.Thông báo phải đưa ra không chậm trễ, với mục đích để cho người bảo hiểm có cơ hội giảm thiểu hay ngăn ngừa tổn thất (như bán hàng dọc đường). Thông báo từ bỏ hàng phải làm thành văn bản và trong mọi trường hợp phải cho biết ý định của người được bảo hiểm là từ bỏ không điều kiện mọi quyền lợi về hàng hoá được bảo hiểm cho người bảo hiểm. Nếu người bảo hiểm chấp nhận thông báo từ bỏ hàng nghĩa là người bảo hiểm chấp nhận trách nhiệm bồi thường như bồi thường tổn thất toàn bộ thực tế và có quyền sở hữu phần còn lại của hàng hoá. Việc từ bỏ hàng không được thay đổi sau khi người bảo hiểm chấp nhận thông báo từ bỏ hàng. Tuy nhiên, trước khi người bảo hiểm chấp nhận thông báo từ bỏ hàng, người được bảo hiểm phải có những biện pháp tích cực nhằm ngăn ngừa và hạn chế tổn thất. Nếu người bảo hiểm không chấp nhận từ bỏ hàng, các quyền lợi của người được bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm vẫn không thay đổi. Thời hạn khiếu nại với người bảo hiểm là hai năm kể từ ngày có tổn thất hoặc phát hiện tổn thất. Tuy nhiên, bộ hồ sơ khiếu nại phải gửi đến công ty bảo hiểm trong vòng 9 tháng kể từ khi có tổn thất để người bảo hiểm còn thực hiện quyền truy đòi các bên có liên quan đến vụ tổn thất. 6. Giám định và bồi thường tổn thất trong bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển. 6.1 Giám định tổn thất: Giám định tổn thất là việc làm của các chuyên viên giám định của người bảo hiểm hoặc của các công ty giám định được người bảo hiểm uỷ quyền, nhằm bïi v¨n khoa 23 bé m«n b¶o hiÓm LuËn v¨n tèt nghiÖp ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n xác định mức độ và nguyên nhân của tổn thất làm cơ sở cho việc bồi thường. Giám định tổn thất được tiến hành khi hàng hoá bị tổn thất, hư hỏng, đổ vỡ, thiếu hụt, giảm phẩm chất ở cảng đến hoặc trên đường hành trình và do người được bảo hiểm yêu cầu. Những tổn thất do mất hàng, giao thiếu hàng hoặc không giao hàng thì không cần phải giám định và cũng không thể giám định được. Do đó, người được bảo hiểm phải có nghĩa vụ đưa ra những bằng chứng chứng minh về nguyên nhân và mức độ của những tổn thất này. Sau khi giám định, người giám định sẽ cấp chứng thư giám định. Chứng thư giám định gồm hai loại: Biên bản giám định và giấy chứng nhận giám định được gửi cho người được bảo hiểm trong vòng 30 ngày. Người được bảo hiểm có thể tham gia ý kiến với giám định viên để thông nhất về tỷ lệ tổn thất hàng hoá. Trong trường hợp đôi bên không nhất trí được thì có mời một bên trung gian làm giám định viên độc lập. Biên bản giám định là chứng thư quan trọng trong việc đòi bồi thường, vì vậy khi hàng đến cảng đến có tổn thất phải yêu cầu giám định ngay (không muộn hơn 60 ngày kể từ ngày dỡ hàng khỏi tàu). Cơ quan giám định phải là cơ quan được chỉ định trong hợp đồng bảo hiểm hoặc cơ quan được người bảo hiểm uỷ quyền. 6.2. Bồi thường tổn thất. 6.2.1. Nguyên tắc: Các công ty bảo hiểm của Việt nam tính toán và bồi thường tổn thất trên cơ sở các nguyên tắc sau: - Bồi thường bằng tiền chứ không phải bằng hiện vật. Đồng tiền bồi thường là đồng tiền đã được thoả thuận trong hợp đồng, nếu không có thoả thuận thì nộp phí bằng đồng tiền nào sẽ được bồi thường bằng đồng tiền đó. - Về nguyên tắc, trách nhiệm của người bảo hiểm chỉ giới hạn trong phạm vi số tiền bảo hiểm. Tuy nhiên, khi cộng tiền tổn thất với các chi phí: cứu hộ, giám định, đánh giá và bán lại hàng hoá bị tổn thất, chi phí đòi người thứ ba bồi thường, tiền đóng góp vào tổn thất chung thì dù có vượt quá số tiền bảo hiểm người bảo hiểm vẫn bồi thường dựa trên quy định trong điều khoản đã thoả thuận của hợp đồng bảo hiểm. - Khi thanh toán tiền bồi thờng, người bảo hiểm có thể khấu trừ những khoản thu nhập của người được bảo hiểm trong việc bán hàng và đòi người thứ ba. 6.2.2. Cách tính toán bồi thường tổn thất: * Đối với tổn thất chung: Khi có tổn thất chung xảy ra chủ tàu có quyền chỉ định một công ty hay một chuyên viên giám định tính toán tổn thất chung, phân bổ tổn thất chung cho các quyền lợi trên tàu. Các quyền lợi, lợi ích trên tàu bao gồm: tàu, hàng và cước phí. bïi v¨n khoa 24 bé m«n b¶o hiÓm LuËn v¨n tèt nghiÖp ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n Nhiệm vụ của chuyên viên tính tổn thất chung là trên cơ sở chứng từ giấy tờ có liên quan xác định những hy sinh và những chi phí nào được công nhận là tổn thất chung để tính toán phân bổ cho chủ tàu, các chủ hàng,cước phí đóng góp trên cơ sở "Bảng phân bổ tổn thất chung". Cách tính toán và phân bổ tổn thất chung tiến hành như sau: -Xác định tỷ lệ đóng góp (chỉ số phân bổ) vào tổn thất chung : Tổng giá trị tổn thất chung Tỷ lệ đóng góp = Tổng giá trị chịu phân bổ Trong đó: Tổng giá trị tổn thất chung là tổng những hy sinh và chi phí được công nhận là tổn thất chung. Tổng giá trị chịu phân bổ là tổng giá trị các lợi ích trên tàu vào thời điểm hành động tổn thất chung xảy ra, tức là bao gồm các giá trị đã được tổn thất chung cứu thoát và những giá trị đã hy sinh vì an toàn chung. Nó được xác định trên cơ sở giá trị thực tế của tài sản tại nơi kết thúc hành trình. -Tính số tiền phải đóng góp của từng quyền lợi: Mức đóng góp = Giá trị chịu phân bổ của mỗi bên * Tỷ lệ phân bổ tổn thất chung Số tiền đóng góp vào tổn thất chung sẽ được người bảo hiểm bồi hoàn cho các chủ hàng nếu có bảo hiểm mà không phụ thuộc vào điều kiện bảo hiểm. Nếu số tiền bảo hiểm thấp hơn giá trị đóng góp thì người bảo hiểm chỉ chịu trách nhiệm bồi thường theo tỷ lệ giữa số tiền bảo hiểm và giá trị đóng góp. * Đối với tổn thất riêng: Tổn thất riêng có thể là tổn thất toàn bộ hay tổn thất bộ phận: - Nếu là tổn thất toàn bộ thực tế thì người bảo hiểm sẽ bồi thường toàn bộ số tiền bảo hiểm hay giá trị bảo hiểm. Khi đó số tiền bồi thường bằng số tiền bảo hiểm hoặc giá trị bảo hiểm. -Nếu là tổn thất toàn bộ ước tính, khi người được bảo hiểm thông báo từ bỏ hàng cùng với các thủ tục cần thiết mà người bảo hiểm chấp thuận thì sẽ được bồi thường toàn bộ và ngược lại nếu người được bảo hiểm không thông báo từ bỏ hàng hay người bảo hiểm không chấp thuận thì chỉ được bồi thường như tổn thất bộ phận. -Tổn thất bộ phận: Về nguyên tắc thì số tiền bảo hiểm được tính như sau: bïi v¨n khoa 25 bé m«n b¶o hiÓm LuËn v¨n tèt nghiÖp ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n Số tiền bồi = thường = Tỷ lệ tổn thất * Số tiền bảo hiểm Tổng giá trị tổn thất tại cảng dỡ hàng Tổng giá trị hàng hoá * STBH Với cách tính như vậy, được bồi thường sẽ đảm bảo tính chính xác trong trường hợp giá cả hàng hoá có biến động lớn (tăng hoặc giảm) kể từ lúc bắt đầu bảo hiểm cho đến khi hàng đến cảng đến. Tuy nhiên trong thực tế, khi tính toán bồi thường tổn thất, các công ty bảo hiểm Việt Nam hầu như không tính đến yếu tố biến động về giá cả trên thị trường hay nói cách khác coi như giá cả không biến động kể từ lúc bắt đầu bảo hiểm cho đến khi tính toán bồi thường tổn thất. Việc tính toán bồi thường tổn thất bộ phận ở Việt nam thường xảy ra các trường hợp sau: Bồi thường tổn thất do đổ vỡ, hư hỏng, thiếu hụt, giảm phẩm chất... có biên bản giám định chứng minh. Trong trờng hợp này số tiền bồi thường là: STBT = Tỷ lệ tổn thất * Số tiền bảo hiểm Tỷ lệ tổn thất ở đây chính là mức giảm giá trị thương mại ghi trên biên bản giám định. Nếu biên bản giám định không ghi mức giảm giá trị thương mại mà chỉ ghi trọng lượng, số lượng hàng hoá bị thiếu hụt: STBH = Trọng lượng(Số lượng) hàng hoá thiếu hụt Trọng lượng(Số lượng) hàng hoá theo HĐ * STBH Bồi thường mất nguyên kiện: Bồi thường mất nguyên kiện thường xảy ra trong các trường hợp như: tàu giao thiếu hàng hoặc không giao hàng, các kiện hàng bị tổn thất toàn bộ trong khâu xếp dỡ, vận chuyển... trong trường hợp này nếu các kiện hàng có đơn giá thì: STBT = Số kiện hàng bị mất * Đơn giá Nếu các kiện hàng không có đơn giá thì bồi thường như trường hợp tổn thất về số lượng, trọng lượng như trên. Bồi thường các chi phí: các chi phí được người bảo hiểm bồi thường bao gồm: Chi phí tố tụng, chi phí đề phòng và hạn chế tổn thất - đó là chi phí được chi ra nhằm ngăn ngừa hoặc làm giảm tổn thất hoặc để bảo vệ quyền lợi của hàng hoá được bảo hiểm hoặc những chi phí liên quan tới việc đòi bồi thường của người thứ ba; Chi phí giám định tổn thất thuộc trách nhiệm bảo hiểm . bïi v¨n khoa 26 bé m«n b¶o hiÓm LuËn v¨n tèt nghiÖp ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n 6.3. Miễn giảm bồi thường: * Miễn giảm bồi thường là một hình thức từ chối bồi thường trên cơ sở một số tiền được chỉ định theo tỷ lệ phần trăm trong tổng giá trị bồi thường. Miễn giảm bồi thường có hai loại: -Miễn giảm không khấu trừ: Tức là khi tổn thất xảy ra, nếu mức độ tổn thất đạt tỷ lệ phần trăm quy định thì người bảo hiểm bồi thường toàn bộ tổn thất . -Miễn giảm có khấu trừ: Tức là người bảo hiểm sẽ khấu trừ không bồi thường một tỷ lệ nhất định khi tổn thất đạt mức trên quy định. * Mục đích của việc miễn giảm bồi thường là: - Người bảo hiểm không phải bồi thường những tổn thất quá nhỏ so với tổng giá trị bảo hiểm, số tiền bồi thường khi đó có thể không tương xứng cho việc khiếu nại và giải quyết bồi thường về thời gian và chi phí. - Loại trừ những tổn thất của các loại hàng hoá có tính chất đặc biệt thường dễ bị hao hụt trong quá trình vận chuyển. - Dành một tỷ lệ không bồi thường để người được bảo hiểm khi xảy ra tổn thất sẽ coi như cùng người bảo hiểm có trách nhiệm gánh vác một phần tổn thất. Hiện nay, do có sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường bảo hiểm nên các công ty bảo hiểm ít khi sử dụng quy định miễn giảm bồi thường để giữ khách hàng và chỉ áp dụng trong những trường hợp hàng hoá mang tính chất đặc biệt và thường xuyên bị tổn thất. bïi v¨n khoa 27 bé m«n b¶o hiÓm LuËn v¨n tèt nghiÖp ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG TRIỂN KHAI NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM HÀNG HOÁ XUẤT NHẬP KHẨU VẬN CHUYỂN BẰNG ĐƯỜNG BIỂN Ở PJICO I . KHÁI QUÁT VỀ PJICO VÀ THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM HÀNG HOÁ XUẤT NHẬP KHẨU VẬN CHUYỂN BẰNG ĐƯỜNG BIỂN Ở VIỆT NAM 1. Khái quát về PJICO. 1.1. Quá trình hình thành: Xuất phát từ quan điểm đổi mới của Đảng, chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước. Đồng thời cũng xuất phát từ chính sách mở của phát triển thị trường bảo hiểm Việt nam, công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex gọi tắt là PJICO (PETROLIMEX JOINT-STOCK INSURANCE COMPANY) được thành lập theo: Giấy chứng nhận đủ tiêu chuẩn và điều kiện kinh doanh bảo hiểm số 06-TC/GCN ngày 27/05/1995 của Bộ Tài chính; Giấy phép thành lập số 1873/GP-UB ngày 08/06/1995 của Uỷ ban nhân dân Thành phố Hà Nội và Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 060256 ngày 15/06/1995 của uỷ ban kế hoạch (nay là Sở kế hoạch và Đầu tư) Thành phố Hà Nội. PJICO là công ty cổ phần bảo hiểm đầu tiên được thành lập tại Việt Nam, với tổng số vốn góp ban đầu là 55 tỷ VND do 7 cổ đông sáng lập và một cổ đông tham gia góp vốn (Liên hiệp đường sắt Việt Nam), ngoài ra một phần do phát hành cổ phiếu trên thị trường: Bảng 1: Vốn góp của các cổ đông vào công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex năm 1995 Tỷ trọng (%) Đơn vị Stt Vốn góp Số cổ phiếu (triệuVND) 1 Tổng công ty xăng dầu Việt Nam 51 28.050 14.025 2 Ngân hàng ngoại thương Việt Nam 10 5.500 2.750 3 Công ty Tái BH quốc gia Việt Nam 8 4.400 2.200 4 Tổng công ty thép Việt Nam (VSC) 6 3.300 1.650 5 Công ty vật tư và thiết bị toàn bộ 3 1.650 852 6 Công ty điện tử Hà nội (Hanel) 2 1.100 550 7 Công ty TNHH thiết bị an toàn 0.5 275 138 8 Cá nhân 19.5 10.275 5.362 Tổng 100 55.000 27.500 bïi v¨n khoa 28 bé m«n b¶o hiÓm LuËn v¨n tèt nghiÖp ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n Nguồn số liệu: Phòng tổ chức cán bộ PJICO được thành lập ngày 27/05/1995 và chính thức đi vào hoạt động từ ngày 15/06/1995 với thời gian hoạt động là 22 năm kể từ ngày cấp giấy phép, hết thời hạn sẽ được phép xin gia hạn. Như vậy, công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex ra đời đã đánh dấu một bước ngoặt rất quan trọng, to lớn trong chủ trương đa dạng hoá các thành phần kinh tế nói chung của Đảng và Nhà nước ta, đồng thời minh chứng cho sự chuyển đổi một cách cơ bản thị trường bảo hiểm Việt Nam từ độc quyền sang tự do cạnh tranh có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước và cũng chính từ đây thị trường bảo hiểm Việt Nam chuyển sang một giai đoạn mới. 1.2. Cơ cấu tổ chức. Ngay sau khi được cấp giấy phép thành lập và đăng ký kinh doanh, công ty đã nhanh chóng triển khai phát triển bộ máy tổ chức, mạng lưới kinh doanh bảo hiểm tại khu vực Hà Nội và trên phạm vi cả nước. Ban đầu, từ 8 cán bộ công nhân viên tại trụ sở Hà Nội đến cuối năm 1995 công ty đã thành lập 6 phòng ban tại văn phòng công ty và 3 chi nhánh tại Hải Phòng, Đà Nẵng, TP Hồ Chí Minh. Đến nay công ty đã xây dựng được môt đội ngũ gồm hơn 200 CBCNV làm việc tại 10 phòng ban, 6 văn phòng đại diện khu vực trên địa bàn thành phố Hà Nội, 9 chi nhánh tại các tỉnh, thành phố như: TP Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Hải Phòng, Đà Nẵng, Nghệ An, Khánh Hoà, Quảng Ninh, Thừa Thiên Huế, Quảng Bình cùng 8 văn phòng đại diện tại các tỉnh, thành phố: Hà Tĩnh, Quảng Nam, Kiên Giang, An Giang, Cà Mau, Thanh Hoá, Hà Tây, Đắc Lắc Ngoài ra còn hàng trăm các tổng đại lý, đại lý và cộng tác viên bảo hiểm trên toàn quốc.Với mạng lưới tổ chức kinh doanh như vậy, PJICO trong những năm qua không ngừng phát triển: Doanh thu tăng, thị phần mở rộng, uy tín ngày càng được nâng cao, đời sống CBCNV ngày cành được cải thiện... Từ đó góp phần vào quá trình phát triển và hội nhập thị trường bảo hiểm Việt Nam với thị trường bảo hiểm thế giới. Sơ đồ tổ chức bộ máy hoạt động công ty bảo hiểm PJICO bïi v¨n khoa 29 bé m«n b¶o hiÓm LuËn v¨n tèt nghiÖp ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n (Bộ máy quản lý của PJICO được tổ chức theo cơ cấu trực tuyến chức năng): HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ TỔNG GIÁM ĐỐC PHÓ TGĐ PHÓ TGĐ CN Quảng ninh P. Kế toán P.TC Cán bộ P. phi H hải CN Hải phòng P.Đtư td & ttck Ban Ttra -P chế VP KVI P.BH Thanh hoá VP KV II CN Nghệ an VP KV III P.BH Hà tĩnh CN Sài gòn VP KV IV CN Quảng bình CN Cần thơ P. Tsản- H hoạn P. Tổng hợp CN T.Thiên huế P.QL NV&TT CN Đà nẵng P. Hàng hải P.BH Quảng nam P. Tái BH CN Khánh hoà P.BH Kiên giang VP KV V P.BH An giang VP KV VI P.BH Cà mau CÁC TỔNG ĐẠI LÝ, ĐẠI LÝ VÀ CỘNG TÁC VIÊN BẢO HIỂM bïi v¨n khoa 30 bé m«n b¶o hiÓm LuËn v¨n tèt nghiÖp ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n Trong quá trình hoạt động kinh doanh bảo hiểm, với một cơ cấu tổ chức bộ máy chặt chẽ, gọn nhẹ, linh hoạt làm việc đạt hiệu quả cao, ngoài việc khai thác phát triển khách hàng, liên kết hợp tác với các công ty bảo hiểm trong nước PJICO còn không ngừng củng cố và mở rộng mối quan hệ hơp tác với các tổ chức, các công ty bảo hiểm và tái bảo hiểm trên toàn thế giới. Điều đó được thể hiện thông qua việc PJICO là thành viên chính thức của Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam, có quan hệ với các tập đoàn bảo hiểm, tái bảo hiểm lớn như: Munich Re, Swiss Re, Hartfort Re, Cologue Re, West of England... công ty giám định Willis Coroon - London và nhiều nước trên thế giới. 1.3. Một số kết quả mà PJICO đạt được từ khi thành lập. Ngay sau khi ra đời, PJICO đã nhanh chóng triển khai kinh doanh các nghiệp vụ bảo hiểm gốc cả về chiều rộng và chiều sâu. Số lượng nghiệp vụ ngày càng tăng thêm và đa dạng hoá. Tới nay, công ty đã thực hiện trên 40 nghiệp vụ đáp ứng nhu cầu đa dạng về bảo hiểm của khách hàng. Về kinh doanh bảo hiểm gốc trong những năm đầu, công ty hầu như chỉ tiến hành bảo hiểm cho các khách hàng trong cổ đông, đến nay trên 70% doanh thu phí của công ty là từ các khách hàng ngoài cổ đông. Công ty đã bảo hiểm và đồng bảo hiểm nhiều công trình lớn có giá trị hàng trăm triệu đôla Mỹ như khách sạn DAEWOO, toà nhà HITC, các công trình cầu đường (cầu Đuống, cầu Đà Rằng, cầu Hàm Rồng, đường quốc lộ 1, đường quốc lộ 5, đường Hồ Chí Minh, đường cao tốc xuyên Á ...), công trình thuỷ điện Sông Hinh... Sau hơn 5 năm hoạt động PJICO đạt được một số thành tựu được thể hiện ở bảng số liệu dưới đây: - Về doanh thu: Được sự ủng hộ nhiệt tình của các khách hàng trong cổ đông cùng với sự chú trọng đặc biệt trong khâu khai thác khách hàng mới ngoài cổ đông nên doanh thu qua các năm tăng nhanh và ổn định với tốc độ tăng trưởng bình quân năm khoảng 39%. Đối tượng phục vụ của PJICO là các cá nhân, tập thể, các tổ chức cơ quan doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Hiện nay đối tượng phục vụ là các khách hàng ngoài cổ đông chiếm tỷ trọng lớn (trên 70% doanh thu phí bảo hiểm gốc). Điều đó chứng tỏ rằng PJICO đã tạo được niềm tin và có uy tín với khách hàng. Từ đó không ngừng củng cố và mở rộng mối quan hệ hợp tác lâu dài, bền vững trong kinh doanh. bïi v¨n khoa 31 bé m«n b¶o hiÓm LuËn v¨n tèt nghiÖp ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n - Lợi nhuận và chi trả cổ tức: Kể từ khi thành lập tính đến ngày 31/12/2000 công ty đã tạo ra được gần 60 tỷ đồng tiền lợi nhuận trước thuế và trên 30 tỷ đồng tiền lợi nhuận sau thuế. Có thể nói rằng, đây là dự án có tính khả thi cao, đáp ứng được sự mong mỏi của các cổ đông tham gia góp vốn. Hàng năm, sau khi đã nộp thuế đầy đủ cho nhà nước, công ty đã chia cổ tức cho các cổ đông ở mức ổn định bình quân ở mức 1,2%/ tháng cao gấp 1,2 - 2 lần lãi suất tiền gửi ngân hàng. Tổng số tiền cổ tức đã chia trong những năm qua khoảng 26 tỷ đồng tương đương với trên 70% vốn cổ phần mà các cổ đông đóng góp. Dự kiến năm 2001 sẽ thu hồi lại được toàn bộ số vốn góp ban đầu. - Bảo toàn và phát triển vốn: Sự tăng trưởng của PJICO không chỉ thể hiện thông qua lợi nhuận mà còn thể hiện thông qua sự tích luỹ vốn trong hơn 5 năm hoạt động vừa qua. nguồn vốn chủ sở hữu được bảo toàn và phát triển. Vốn kinh doanh không ngừng được bổ xung thêm bằng các quỹ dự phòng nghiệp vụ. Đến ngày 31/12/2000 số dư luỹ kế các quỹ dự phòng là trên 70 tỷ đồng và nâng vốn kinh doanh của công ty lên gần 130 tỷ đồng, gấp hơn 2 lần vốn góp ban đầu của các cổ đông. - Thuế nộp ngân sách : Công ty bảo hiểm PJICO luôn thực hiện đầy đủ và làm tốt nghĩa vụ nộp ngân sách đối với nhà nước. Mặc dù mới ra đời và cũng không được hưởng sự ưu đãi nào của nhà nước nhưng sau 6 năm hoạt động công ty đã đóng góp cho ngân sách nhà nước gần 40 tỷ đồng. - Là một doanh nghiệp trẻ, lại hoạt động dưới mô hình hoàn toàn mới mẻcông ty cổ phần, tham gia vào lĩnh vực kinh doanh đầy khó khăn- kinh doanh bảo hiểm, thị trường còn nhỏ, mang nặng tính chất độc quyền nhà nước và sự bao cấp. Nhưng với ý trí tự lực tự cường, quyết tâm phấn đấu của toàn thể cán bộ công nhân viên cùng với sự giúp đỡ của các ban ngành, PJICO không ngừng vươn lên nhằm chiếm giữ thị phần, nâng cao uy tín của mình. Sự ra đời và hoạt động của công ty đã tạo ra công ăn việc làm cho hàng trăm lao động tại khu vực Hà Nội và tại địa bàn công ty có chi nhánh. Đời sống cán bộ công nhân viên không ngừng được chăm lo và cải thiện. Thu nhập bình quân của cán bộ công nhân viên trong toàn công ty năm sau cao hơn năm trước và tới nay đã đạt khoảng trên 1,7 triệu đồng/ người/tháng. Với tất cả những kết quả đạt được như trên ta có thể khẳng định rằng: Việc thành lập công ty cổ phần bảo hiểm Ptrolimex- một dự ấn đầu tư dài hạn của các cổ đông - cho tới nay đã vừa đạt hiệu quả tài chính vừa đạt hiệu quả kinh tế xã hội. bïi v¨n khoa 32 bé m«n b¶o hiÓm LuËn v¨n tèt nghiÖp ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n 2. Vài nét về thị trường bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển ở Việt Nam hiện nay. Nền kinh tế Việt Nam cũng như trong khu vực, trong năm vừa qua đã có dấu hiệu phục hồi và phát triển tác động tích cực đối với toàn ngành bảo hiểm Việt Nam. Các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam đã tăng cường bám sát khách hàng hơn, tích cực khai thác những khách hàng quen thuộc và những khoảng trống của thị trường. Trong thời gian qua trình độ của các nhân viên bảo hiểm Việt Nam đã được nâng lên rõ rệt qua nhiều khoá đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ ở trong nước cũng như ở nước ngoài, bắt kịp với trình độ chung của khu vực và trên thế giới, do vậy việc tư vấn giúp đỡ khách hàng lựa chọn tham gia bảo hiểm cũng như khai thác dịch vụ đã thuận lợi hơn. Sự hợp tác giúp đỡ lẫn nhau giữa các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam có nhiều chuyển biến tích cực, vai trò của hiệp hội bảo hiểm Việt Nam đã được khẳng định. Việc tuyên truyền quảng cáo đã được các doanh nghiệp chú trọng hơn trước rất nhiều trong đó hình thức hội nghị khách hàng vẫn được đánh giá là hình thức tuyên truyền quảng cáo mang lại hiệu quả nhất. Thị trường đã có 10 doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ, một số doanh nghiệp đã tiến hành khai thác thêm các nghiệp vụ và tích cực triển khai các sản phẩm bảo hiểm mới (nghiệp vụ Bảo hiểm thiết bị điện tử, bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ doanh nghiệp...). Vì vậy, nên thị trường bảo hiểm Việt Nam trong thời gian vừa qua hoạt động tương đối đa dạng và sôi động. Tất cả các yếu tố trên đã tác động tích cực tới thị trường bảo hiểm Việt Nam: Tổng doanh thu phí bảo hiểm trên toàn thị trường đạt khoảng 2.934 tỷ VND, ước tính cả năm 2000 chiếm 0,66% GDP tăng 41,89% so với cùng kỳ năm trước. Đây là mức cao nhất trong những năm qua, trong đó tổng phí bảo hiểm phi nhân thọ đạt 1.827 tỷ VND tăng 14,69% so với năm 1999, các nghiệp vụ có tốc độ tăng trưởng mạnh như bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu, cháy và rủi ro đặc biệt, thăm dò và khai thác dầu khí, xây dựng - lắp đặt, với mức tăng khoảng 15%-20% so với năm 1999. Tổng phí bảo hiểm nhân thọ đạt 1.117 tỷ VND tăng 230,78% so với năm 1999, hiện có năm công ty với trên 10.000 nhân viên và đại lý cùng với 40 loại hình nghiệp vụ khác nhau. Các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ đều có doanh thu phí cao hơn năm trước, một số doanh nghiệp có mức tăng trưởng tương đối cao như Bảo Minh tăng 21,5%, PJICO tăng 21%, PTI tăng 57,8%... Cùng với sự tăng trưởng của nền kinh tế, thị trường bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển trong năm 2000 đạt tốc độ tăng trưởng tương đối tốt so với năm 1998, 1999. Kim ngạch tham gia bảo hiểm của toàn thị trường tăng khoảng 85% trong khi phí bảo hiểm tăng gần 30% so với năm 1999 trong đó bảo hiểm hàng hoá nhập khẩu tăng 29,20%, bảo hiểm hàng bïi v¨n khoa 33 bé m«n b¶o hiÓm LuËn v¨n tèt nghiÖp ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n hoá xuất khẩu tăng 35,92%. Sự ra tăng kim ngạch bảo hiểm và phí bảo hiểm trong thời gian qua là do nhiều yếu tố như: Kim ngạch xuất nhập khẩu của cả nước tăng, chủ yếu ở các mặt hàng nhập khẩu như xăng dầu, sắt thép, máy móc thiết bị ... và xuất khẩu dầu thô, hàng dệt may, giầy dép, hải sản, chè... Trong khai thác bảo hiểm hàng hoá, sự cạnh tranh giữa các nhà bảo hiểm tuy diễn ra gắt nhưng các doanh nghiệp bảo hiểm đã nâng cao chất lượng dịch vụ về nhiều mặt nhằm đáp ứng tốt nhất yêu cầu của khách hàng trong cả nước và phần nào đã tạo lòng tin trên thị trường nên kết quả thị phần kim ngạch xuất nhập khẩu tham gia bảo hiểm tăng đáng kể, cụ thể trong năm 2000 kim ngạch hàng hoá xuất nhập khẩu tham gia bảo hiểm đạt tỷ lệ gần 20% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá của cả nước (tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá năm 2000 đạt 29,5 tỷ USD) cao hơn so với giai đoạn từ 1995-1998 bình quân chỉ chiếm gấn 14% tổng kim ngạch hàng hoá xuất nhập khẩu hàng hoá. Bảng 3: Bảo hiểm hàng hoá nhập khẩu toàn thị trường từ 1995-2000 Stt Năm KN NK (Tr.USD) 1 2 -Tốc độ tăng (%) KN NK được BH (Tr.USD) 1995 1996 1997 1998 1999 2000 8.155 11.144 11.478 11.390 11.500 15.200 - 36,35 3,00 -0,77 0,97 32,17 1.916 2.370 2.132 2.188 2.200 4.362 - 23,71 -10,04 2,66 5,10 98,27 23,48 21,26 18,57 19,21 19,13 28,70 -Tốc độ tăng(%) 3 Tỷ lệ kim ngạch NK được BH (%) DTphí BH(1000$) 4 7.048,48 8.874,84 7.108,89 7.874,03 8.500 10.892 - 25,91 -19,90 10,76 KN NK không được BH tại VN 5 -Tốc độ tăng(%) 6.239 8.774 9.346 9.202 9.300 10.838 76,52 78,74 81,43 80,79 80,87 7,95 29,20 (Tr.USD) -Tỷ lệ (%) 71,30 Nguồn số liệu: Báo cáo tổng kết BHHH toàn thị trường - VINARE bïi v¨n khoa 34 bé m«n b¶o hiÓm LuËn v¨n tèt nghiÖp ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n Bảng 4: Bảo hiểm hàng hoá xuất khẩu toàn thị trường từ 1995-2000 Stt 1 2 3 4 5 Năm 1995 1996 1997 1998 1999 2000 KN XK(Tr.USD) -Tốc độ tăng(%) 5.449 - 7.256 33,16 9.145 26,.03 9.361 2,36 11.250 20,18 14.300 27,11 KN XK được BH (Tr.USD) -Tốc độ tăng(%) 178.97 220.68 271.82 357.50 528.75 909.45 - 23,71 23,17 31,52 47,91 72 Tỷ lệ kim ngạch 3,28 3,04 2,97 3,82 4,7 6,36 XK được BH (%) 905.39 1.323,65 1.527,61 2.668,06 3.034,65 4.124,7 DT 46,20 14,41 74,66 13,74 35,92 phíBH(1000$) -Tốc độ tăng(%) KNXK không 5.270,03 7.035,32 8.873,18 9.003,5 10.721,25 13.390,5 được BH tại VN (Tr.USD) 96,72 96,96 97,03 96,18 95,3 93,64 -Tỷ lệ (%) Nguồn số liệu: Báo cáo tổng kết BHHH toàn thị trường - VINARE Từ bảng số liệu ta thấy, tỷ lệ kim ngạch hàng hoá tham gia bảo hiểm tăng cao hơn so với tốc độ tăng trưởng về phí bảo hiểm do nhiều yếu tố ảnh hưởng như: cơ cấu mặt hàng xuất nhập khẩu, sự lựa chọn điều kiện bảo hiểm của khách hàng để bảo hiểm hàng hoá của mình, sự cạnh tranh của các công ty bảo hiểm...ví dụ: Trong 6 tháng đầu năm 2000 kim ngạch nhập khẩu xăng dầu là rất lớn chiếm tỷ trọng 13,25% tổng kim ngạch nhập khẩu (do giá xăng dầu thế giới tăng cao), với mặt hàng này thường chỉ bảo hiểm theo điều kiện (điều khoản) chở dầu dời, một vài doanh nghiệp còn bảo hiểm rủi ro thiếu hụt nhưng tỷ lệ phí bảo hiểm áp dụng rất thấp trung bình chỉ khoảng 0,09% hay gạo xuất đi Phillipin tỷ lệ phí bảo hiểm chỉ bằng 50% phí đi Iraq... Bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu là một trong những nghiệp vụ truyền thống của hầu hết các công ty kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ trên thị trường bảo hiểm Việt Nam. Hiện nay với sự tham gia kinh doanh nghiệp vụ này của mười công ty làm cho quá trình cạnh tranh diễn ra hết sức sôi động và gay gắt. Hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường không những giảm mạnh mà các công ty còn không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ cho khách hàng, với vai trò là người tư vấn và là nhà bảo hiểm cho khách hàng tham gia bảo hiểm. Hầu hết các công ty bảo hiểm hiện nay đều rất coi trọng việc giữ lại số lượng khách hàng tham gia bảo hiểm cũ thông qua tái tục hợp đồng hàng năm bïi v¨n khoa 35 bé m«n b¶o hiÓm LuËn v¨n tèt nghiÖp ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n đồng thời tích cực chủ động tìm kiếm và khai thác khách hàng mới trong mọi lĩnh vực, mọi thành phần kinh tế. Trình độ, năng lực nghiệp vụ của cán bộ công nhân viên bảo hiểm ngày một nâng cao giúp cho quá trình tư vấn, phân tích đánh giá rủi ro, đưa ra các biện pháp đề phòng và hạn chế tổn thất có hiệu quả. Bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu thường bảo hiểm lô hàng hoá có giá trị rất lớn vì vậy việc tái bảo hiểm là vô cùng quan trọng. Gần đây các công ty kinh doanh nghiệp vụ này đã phân tích đúc rút kinh nghiệm trong công tác tính toán mức giữ lại và nhượng tái hợp lý. Họ đã chọn ra được thị trường tái bảo hiểm và các nhà nhận tái bảo hiểm có uy tín trên thế giới như: Munich Re, Swiss Re hay một số thị trường tái bảo hiểm của Nhật Bản và London. Do vậy uy tín các công ty bảo hiểm gốc của Việt Nam ngày càng tăng và tạo được sự tín nhiệm, tin cậy của khách hàng tham gia bảo hiểm. Tuy nhiên, tình hình cạnh tranh vẫn diễn ra rất quyết liệt, nguồn dịch vụ từ các khách hàng là đối tác xuất nhập khẩu của các tổng công ty và các công ty lớn vẫn là những "điểm nóng" cho dù trong qúa trình khai thác hay tái tục hợp đồng, các doanh nghiệp bảo hiểm vẫn đang phải chịu những sức ép về nhiều khía cạnh từ phía khách hàng như: yêu cầu giảm tỷ lệ phí, hạ mức khấu trừ, mở rộng phạm vi bảo hiểm ngoài thông lệ, áp dụng các mẫu đơn khác với tập quán thị trường hoặc đưa thêm nhiều điều khoản bổ sung, thậm chí có những điều khoản rủi ro bảo hiểm có thể thuộc vào một đơn bảo hiểm hoàn toàn riêng biệt cho loại hình bảo hiểm khác... Có những trường hợp dịch vụ được tái tục nhưng có nhiều doanh nghiệp bảo hiểm cùng mời chào với các bảng chào phí khác nhau gây ra khó khăn chung cho toàn bộ thị trường và sự lựa chọn của khách hàng. Một số dịch vụ khi tái tục đã thay đổi người bảo hiểm còn một số dịch vụ lại được khách hàng lựa chọn theo phương thức đồng bảo hiểm nhằm tận dụng ưu thế của tính cạnh tranh và phần lớn là mua bảo hiểm của các công ty bảo hiểm nước ngoài. Từ bảng số liệu ta thấy, hàng hoá nhập khẩu do các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam khai thác được chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ, bình quân từ 1995-2000 khoảng 21,7% tổng kim ngạch hàng năm, lượng hàng hoá chủ yếu tham gia bảo hiểm tại nước ngoài. Nếu chỉ tính phí bảo hiểm bình quân theo kim ngạch bảo hiểm tại Việt Nam các năm qua và nếu 100% tổng kim ngạch nhập khẩu được bảo hiểm thì trong 6 năm từ năm 1995-2000 phí bảo hiểm hàng nhập rơi vào tay các nhà bảo hiểm nước ngoài khoảng 200 triệu USD, bình quân 33,3 triệu USD/năm. Tương tự như trên ta thấy giá trị kim ngạch hàng hoá xuất khẩu đựơc bảo hiểm tại Việt Nam còn quá nhỏ bé, bình quân giai đoạn 1995-2000 khoảng 4,03% tổng kim ngạch hàng năm- số còn lại 95,97% hay bình quân 9,08% tỷ USD kim ngạch xuất khẩu hàng năm được bảo hiểm ở nước ngoài với số phí bảo hiểm khoảng 35-40 triệu USD/ năm. Những hạn chế trên đã ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả kinh doanh của ngành và sự đóng góp của ngành đối với Ngân sách Nhà bïi v¨n khoa 36 bé m«n b¶o hiÓm LuËn v¨n tèt nghiÖp ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n nước bởi vì phí bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu thất thu bình quân là khoảng 70 triệu USD năm dẫn đến làm thất thu thuế đối với nhà nước gần 2,8 triệu USD/ năm đồng thời mất nguồn chi quản lý, dự trữ bồi thường khoảng 14 triệu USD và mất đi nguồn vốn đầu tư lớn từ các doanh nghiệp bảo hiểm cho nền kinh tế xã hội. Bảng 5: Tình hình bồi thường nghiệp vụ BHHHXNK của các DNBHVN Đơn vị: 1.000 USD Bồi thường Tỷ lệ bồi thường Tỷ lệ phí Tổng phí bình bảo hiểm quân(%) Đã trả 7.953,87 0,379 3.806,3 793,4 4.599,7 57,83 1996 2.590.680 10.198,49 0,394 8.172 1.654,3 9.826,3 96,35 1997 2.403.820 8.636,5 0,359 4.985,2 545,6 5.530,8 64,06 1998 2.545.500 10.542,09 0,414 5.298,4 2.526,3 7.824,7 74,35 1999 2.728.750 11.534,65 0,423 7.129 4.281,1 11.410,1 89,92 2000 5.271.450 15.106,7 0,287 2.476,2 8.071,2 10.538,4 69,76 Cộng 17.635.170 63.972,3 0,376 31.858,1 17.871,9 Năm nghiệp vụ Tổng STBH 1995 2.094.970 Ước Cộng (%) 49.730 77,74 Nguồn : Báo cáo tổng kết BHHH toàn thị trường của VINARE Tỷ lệ bồi thường = Tổng số tiền bồi thường Tổng phí bảo hiểm Tình hình tổn thất hàng hoá được bảo hiểm vẫn tiếp tục gia tăng mặc dù các nhà bảo hiểm gốc luôn luôn áp dụng nhiều biện pháp đề phòng và hạn chế tổn thất. Tỷ lệ bồi thường trung bình giai đoạn 1995-2000 theo năm nghiệp vụ lên tới 77,79% riêng năm 1999 xấp xỉ 90% và ngay trong 6 tháng đầu năm 2000 đã liên tiếp xảy ra những vụ tổn thất rất lớn cho hàng hoá như: tổn thất chung của tàu “APEX” trên hành trình từ BOTANG về TP. HCM tháng 04/2000 bị hỏng máy bïi v¨n khoa 37 bé m«n b¶o hiÓm LuËn v¨n tèt nghiÖp ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n trị giá khoảng 700.000 USD, hàng hoá trên tàu “EVELYN” bị đắm tàu tại lưu vực Aden ngày 19/05/2000 trên hành trình từ cảng Novorossiysk (Biển đen) về cảng TP. HCM trị giá khoảng 1 triệu USD, tổn thất trên tàu “HAIRONG” bị đắm tại Trung quốc ngày 12/06/2000 do đâm va với tàu “JOINT MIRIAN” trên hành trình từ Trung Quốc về TP. HCM trị giá khoảng 1.018.375 triệu USD. Với ba vụ tổn thất trên ước tính tổng số tình đó có thể phải bồi thường đã chiếm 40%-45% phí bảo hiểm khai thác được trong 6 tháng đầu năm 2000. Mặt khác, những tổn thất thường xuyên xảy ra đối với hàng hoá được bảo hiểm thông thường chiếm khoảng 30%-35% phí bảo hiểm, như vậy kết quả kinh doanh về nghiệp vụ thời gian qua của toàn bộ thị trường không mấy khả quan. Tỷ lệ bồi thường về tổn thất hàng hoá luôn luôn ở mức cao chủ yếu do ảnh hưởng của các vụ tổn thất lớn như tàu chở hàng bị cháy, mắc cạn, đâm va, mất tích... Nếu như các nhà bảo hiểm gốc vẫn tiếp tục không có những biện pháp đề phòng và hạn chế tổn thất chặt chẽ hơn nữa trong khâu khai thác (đánh giá và phân tích rủi ro) trong thời gian tới thì kết quả kinh doanh nghiệp vụ rất khó có thể được nâng lên. Bước sang năm 2001 để kết quả kinh doanh nghiệp vụ đạt hiệu quả tốt các doanh nghiệp cần dùng mọi biện pháp ngăn ngừa tổn thất hàng hoá và tăng cường khai thác thêm dịch vụ. Dự kiến phí bảo hiểm hàng hoá của thị trường năm 2001 tăng khoảng 15%-20% so với năm 2000. II. THỰC TRẠNG TRIỂN KHAI NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM HÀNG HOÁ XUẤT NHẬP KHẨU VẬN CHUYỂN BẰNG ĐƯỜNG BIỂN Ở CÔNG TY CỔ PHẦN BẢO HIỂM PTROLIMEX (PJICO) 1. Công tác khai thác bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển ở PJICO. Hoạt động khai thác là một khâu quan trọng trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm nói chung và lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển nói riêng. Tuy còn nhiều hạn chế so với các công ty bảo hiểm nước ngoài và một số doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam rất lớn mạnh như Bảo Việt, Bảo Minh nhưng công ty bảo hiểm PJICO trong thời gian qua đã nỗ lực cố gắng vượt qua những khó khăn trong điều kiện hầu hết các mối quan hệ với khách hàng mới được thiết lập và còn ít ngoài sự ủng hộ nhiệt tình của các khách hàng trong cổ đông. Các khách hàng lớn và lâu năm còn chưa có hoặc nếu có thì chỉ nhận được bảo hiểm phần nào trong tổng giá trị hàng hoá trong ngoại thương. Việc xây dựng và phát triển một thị trường bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu ổn định, lâu dài chính là mục tiêu được đặt ra trong hoạt động khai thác của PJICO. Hoạt động khai thác phải có kế hoạch, chiến lược hết sức cụ thể và chặt chẽ. Nó phải được dựa trên cơ sở các số liệu, chỉ tiêu về kim ngạch xuất bïi v¨n khoa 38 bé m«n b¶o hiÓm LuËn v¨n tèt nghiÖp ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n nhập khẩu của các mặt hàng cũng như kế hoạch xuất nhập khẩu của từng đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá. Đối với khách hàng cũ, công ty luôn luôn phải đảm bảo giữ uy tín, thuyết phục tái tục hợp đồng hướng dẫn mua bảo hiểm đúng thời hạn và bảo hiểm hàng nhập theo gía FOB, CF hay kim ngạch hàng xuất theo giá CIF. Các khách hàng cũ mà có ít rủi ro xảy ra tổn thất, tăng cường các biện pháp đề phòng và hạn chế tổn thất thì PJICO có thể điều chỉnh lại tỷ lệ phí cho phù hợp nhằm thiết lập mối quan hệ lâu dài với họ. Đối với khách hàng tiềm năng PJICO sẽ có các phương pháp chào phí riêng dưới nhiều hình thức nhằm khuyến khích, thu hút họ tham gia bảo hiểm tại công ty. Ngoài ra chất lượng phục vụ khách hàng và chất lượng quản lý cũng được PJICO không ngừng nâng cao làm tăng thêm uy tín của mình với thị trường bảo hiểm trong nước. Công tác nghiên cứu thị trường, mở rộng và phát triển đại lý, cộng tác viên cũng được chú trọng nhằm nắm bắt đựơc các thông tin từ khách hàng, từ thị trường, từ đó có kế hoạch khai thác một cách hiệu quả và triệt để. Quy trình khai thác bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu của PJICO - ban hành kèm theo quyết định của Tổng giám đốc PJICO số 113/BH-HH/95 ngày 15/07/1995 bao gồm 2 khâu cơ bản. - Một là : Quá trình khai thác bảo hiểm. - Hai là : Quá trình cấp đơn bảo hiểm. 1.1. Quá trình khai thác bảo hiểm: Quá trình khai thác được chia ra làm 2 bước:  Bước 1: Xây dựng kế hoạch thu phí và ký kết hợp đồng với khách hàng: Trước hết là phải nắm vững kim ngạch các mặt hàng và số lượng hàng hoá nhập khẩu hàng năm từ các nguồn vốn xuất nhập khẩu của các đơn vị xuất nhập khẩu (nguồn vốn trung ương, địa phương, viện trợ, tự có, vay nợ ...) để xây dựng kế hoạch thu phí trong năm, cụ thể là đầu năm thông qua các đơn vị xuất nhập khẩu để nắm số liệu kế hoạch xuất nhập khẩu của từng đơn vị. Trên cơ sở đó xác định số kim ngạch sẽ qua bảo hiểm để xây dựng kế hoach thu phí bảo hiểm trong năm đó của từng kkhách hàng theo mặt hàng. Trong số kim ngạch xuất khẩu của khách hàng cần tách riêng kim ngạch của từng khu vực theo giá CIF, CF và FOB để lập kế hoạch thu phí sát với thực tế. Sau đó chuẩn bị hợp đồng bảo hiểm để ký kết với khách hàng hàng năm.  Bước 2: Theo dõi tình hình thực hiện kế hoạch: Từng quý có số liệu hàng nhập về của từng khách hàng qua đó đối chiếu kim ngạch qua bảo hiểm để nắm được khối lượng hàng về thực tế nhằm kịp thời điều chỉnh kế hoạch thu phí đầu năm đã xây dựng. Đôn đốc khách hàng mua bảo hiểm theo đúng thời hạn đã quy định và mua bảo hiểm hết phần kim ngạch hàng nhập về theo giá FOB và CF bïi v¨n khoa 39 bé m«n b¶o hiÓm LuËn v¨n tèt nghiÖp ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n hay kim ngạch hàng xuất đi theo giá CIF. Thường xuyên quan hệ với khách hàng để khai thác những nguồn hàng nhập hoặc kế hoạch nhập bổ xung hoặc ngoài kế hoạch nhằm tranh thủ bảo hiểm và chuẩn bị tài liệu để chào phí. Phải đi sâu tìm hiểu rõ tính chất và quy cách đóng gói thích hợp của các lô hàng xuất nhập khẩu để áp dụng các điều kiện bảo hiểm thích hợp theo tập quán và quy định, Nắm vững các mặt hàng có tỷ trọng lớn trong kim ngạch nhập qua đó phân tích ảnh hưởng của các nhân tố đối với số phí thu. Thu thập đầy đủ và nghiên cứu các thông tin về bảo hiểm như các quy tắc, tỷ lệ phí, điều khoản bảo hiểm của thị trường nước ngoài để khi cần có thể đề nghị các văn bản của ta hoặc giải thích và sử dụng chính những điều khoản đó khi có yêu cầu của khách hàng. Kết hợp với bộ phận bồi thường để tính được kết quả bảo hiểm đối với từng khách hàng theo năm nghiệp vụ để kịp thời đề xuất ý kiến điều chỉnh tỷ lệ phí cho thích hợp nhằm đáp ứng yêu cầu của công tác kinh doanh và phù hợp với từng đối tượng bảo hiểm. Cuối năm chuẩn bị đầy đủ số liệu để họp khách hàng thông báo tình hình tham gia bảo hiểm, nêu những ưu nhược điểm trong năm qua và những vấn đề cần khắc phục cho năm tới của từng khách hàng nhằm hạn chế được nhầm lẫn, sai sót và tổn thất cho hàng hoá, qua đó giúp PJICO làm tốt công tác giám định, đề phòng và hạn chế tổn thất, bồi thường đối với hàng hoá được bảo hiểm và đòi người thứ ba. Phối hợp chặt chẽ với các phòng liên quan như Tài vụ, Tái bảo hiểm, phối hợp để giải quyết kịp thời các vướng mắc trong khâu thu phí bảo hiểm, phân tán rủi ro liên quan đến nghiệp vụ gốc và điều chỉnh kế hoạch thu phí bảo hiểm trong năm đó. Xây dựng văn bản, thể lệ giám định bảo hiểm, khuyến mại và bồi thường tổn thất. 1.2. Quá trình cấp đơn bảo hiểm: quá trình cấp đơn bảo hiểm ở PJICO có sự khác nhau đối với hàng hoá nhập khẩu và hàng hoá xuất khẩu. 1.2.1. Đối với hàng hoá nhập khẩu, bao gồm 4 bước sau: Bước 1: Kiểm tra chứng từ liên quan. Khi nhận được giấy yêu cầu bảo hiểm của khách hàng (giấy này làm theo hình thức một đơn bảo hiểm) phải được kiểm tra xem chứng từ có hợp lệ không? Một giấy yêu cầu bảo hiểm được coi là hợp lệ phải có đủ những yêu cầu sau:  Trên giấy yêu cầu phải kê khai rõ ràng tất cả các đề mục đã in sẵn trên đơn. Trong trường hợp khai thiếu những đề mục như: số B/L, ký mã hiệu, trọng lượng, số kiện (do chưa được thông báo đầy đủ) thì vẫn chấp nhận cấp đơn nhưng yêu cầu khách hàng phải bổ sung ngay khi nhận được thông báo.  Nếu thiếu một trong những đề mục cơ bản như: số tiền bảo hiểm (trị giá hàng FOB hoặc C&F), tên tàu vận chuyển, ngày khởi hành, cảng đi và điều kiện bảo hiểm thì giấy yêu cầu đó coi như chưa hợp lệ cần trả lại cho khách hàng đồng bïi v¨n khoa 40 bé m«n b¶o hiÓm
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan