nhiệm đã thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm hoặc giấy chứng nhận bảo
hiểm, nhà bảo hiểm có thể tính toán bồi thường cho chủ xe theo yêu cầu của
họ bồi thường trực tiếp cho nạn nhân.
Số tiền bồi thườg = thiệt hại thực tế của bên thứ ba x lỗi của chủ xe.
Trường hợp tai nạn xảy ra do lỗi cua rmột người nào đó sau khi bồi
thường nhà bảo hiểm sẽ thay mătj chủ xe khiếu nại người có lỗi này. Nhà
bảo hiểm sẽ từ chối bồi thường nếu có bằng chứng chứng minh được sự
thông đồng gian lận giữa nạn nhân và người được bảo hiểm.
Việc bồi thường của nhà bảo hiểm được tiên shành trong một lần, tuy
nhiên óc những trường hợp để giảm bớt những khó khăn về tài chính cho
chủ xe, nhà bảo hiểm có thể cho chủ xe ứng trước một số tiền bồi thường.
Sau khi đã hoàn chỉnh hồ sơ, tính toán số tiền bồi thường cụ thể, nhà bảo
hiểm sẽ trừ đi số tiền mà chủ xe đã ứng trước đây.
Trường hợp bảo hiểm trùng, người được bảo hiểm có thể được quyền
lợi từ các hợp đồng đã ký, xong số tiền bồi thường không vượt quá mức
trách nhiệm bồi thường của người được bảo hiểm đối vơí người thứ ba.
Ngoài ra nhà bảo hiểm có thể bồi thường trợ cấp tối đa không vượt
quá 50% mức trách nhiệm của chủ xe đã tham gia đối với những trường hợp
xe không gây tai nạn có thể tham gia bảo hiểm nhưng không thuộc phạm vi
bảo hiểm như:
+ Lái xe không có bằng lái hợp lệ.
+ Xe chở quá trọng tải hoặc sóo hành khách quy định...
Nói chung, trách nhiệm của các công ty bảo hiểm là giúp đỡ các đơn
vị, chủ xe có tai nạn xảy ra, động viên thường xuyên có khen thưởng xứng
đáng đối với những đơn vị thực hiện tốt công tác phòng ngừa, hạn chế tổn
thất. Đồng thời công ty bảo hiểm là người đảm bảo thanh toán, bồi thường
chính xác đầy đủ, kịp thời. Bảo hiểm luôn phối hợp cùng với các cơ quan
chức năng thực hiện tuyên truyền giác ngộ người tham gia bảo hiểm cũng
như việc chấp hành nghiêm chỉnh luật lệ giao thông, thực hiện.
CHƯƠNG II
TÌNH HÌNH TRIỂN KHAI NGHIỆP VỤ BHTNDS CỦA CHỦ XE CƠ
GIỚI ĐỐI VỚI NGƯỜI THỨ BA TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN BẢO
HIỂM PETROLIMEX-PJICO GIAI ĐOẠN 1996-2000
I. VÀI NÉT SƠ LƯỢC VỀ CÔNG TY CỔ PHẦN BẢO HIỂM PJICO
Thực hiện Nghị định 100/CP ngày 18/12/1993 của Chính phủ về kinh
doanh bảo hiểm, ngày 15/6/1995 Công ty cổ phần bảo hiểm PJICO, sự hội
tụ của 7 thành viên sáng lập gồm:
+ Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam
+ Tổng Công ty Xăng Dầu Việt Nam
+ Công ty Tái Bảo hiểm Quốc gia
+ Tổng Công ty Thép Việt Nam
+ Công ty Vật tư và thiết bị toàn bộ
+ Công ty Điện Tử Hà Nội
+ Công ty TNHH Thiết Bị An Toàn
Đã chính thức ra đời và tham gia thị trường bảo hiểm.
Công ty cổ phần bảo hiểm PJICO ra đời trong nền kinh tế thị trường
phát triển, PJICO trở thành mẫu hình trong việc thực hiện chủ trương cổ
phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước.
PJICO ra đời cũng là lúc thị trường bảo hiểm phát triển mở rộng, đây
là cơ hội lớn cho Công ty PJICO phát triển và phát huy cơ hội. Với tổng số
vón b an đầu hoạt động là 31 tỷ nay lên tới hơn 120 tỷ đồng, tổng doanh thu
phí trong 6 năm (từ năm 1996-2000) đạt 514,84 tỷ đồng, đây là một kết quả
đáng ghi nhận của PJICO.
Với số vốn góp thì nguồn lực chủ yếu là huy động từ các cổ đông (số
vốn góp của các cổ đông chiếm 85,5%), còn lại là huy động từ các đơn vị cá
nhân, phần lớn là các cán bộ nhân viên của các cổ đông sáng lập.
Trong 6 năm hoạt động với tinh thần quan tâm đến lợi ích của khách
hàng và sự tồn tại phát triển lâu dài của Công ty. Nên đến nay Công ty đã có
những bước phát triển vượt bậc với doanh thu phí bình quân đạt 3,9%, lãi
đầu tư tăng dần qua các năm, lãi cổ tức duy trì ở mức độ 1,2% tháng cao
hơn lãi suất ngân hàng. Từ chỗ khách hàng của Công ty chủ yếu là các cổ
đông, đến nay đã có hàng nghìn khách hàng thuộc tất cả ca chính sách ngành
nghề, lĩnh vực, các thành phần kinh tế tham gia bảo hiểm tại PJICO.
Hoạt động kinh doanh của Công ty bao gồm các nghiệp vụ bảo hiểm:
+ Nghiệp vụ bảo hiểm phi hàng hải
+ Nghiệp vụ bảo hiểm hàng hải
+ Nghiệp vụ bảo hiểm kỹ thuật và tài sản
+ Nghiệp vụ tái bảo hiểm
+ Ngoài ra còn các hoạt động khác thực hiện liên quan tới bảo hiểm
như công tác giám định, điều tra, đầu tư, tín dụng...
Với mạng lưới 200 đại lý, 9 chi nhánh và 5 Văn phòng đại diện hoạt
động rộng trên 33 tỉnh, thành phố (Sài Gòn, Cần Thơ, Hải Phòng, Đà Nẵng,
Nghệ An, Khánh Hoà, Quảng Ninh, Thừa Thiên Huế, Quảng Bình). Trụ sở
chính của Công ty ở tại 22 Láng Hạ, 5 văn phòng đại diện ở các quận huyện
(Cầu Giấy, Gia Lâm, Thanh Xuân, Hai Bà Trưng).
Công ty PJICO có mặt trên thị trường bảo hiểm đánh dấu bước khởi
đầu cho sự phát triển về Công ty cổ phần Nhà nước và sự trưởng thành có sự
hoà nhập với thị trường chung bảo hiểm Việt Nam. PJICO phá vỡ thế độc
quyền của Bảo Việt, giúp cho khách hàng có sự lựa chọn để mua bảo hiểm
theo yêu cầu chính đáng của mình.
II. THỰC TẾ CÔNG TÁC TRIỂN KHAI
Tuy mới được thành lập trên 6 năm nhưng PJICO đã vươn lên đứng
thứ 4 với thị phần nghiệp vụ bảo hiểm PJICO ngày một tăng
+ Bảo Việt chiếm khoảng 53% thị phần bảo hiểm
+ Bảo Minh chiếm khoảng 26% thị phần bảo hiểm
+ PVIC chiếm khoảng 8% thị phần bảo hiểm
+ PJICO chiếm độ khoảng 5,6% thị phần bảo hiểm.
+ Các Công ty khác 7,4% thị phần bảo hiểm.
Biểu đồ 1: Biểu diễn thị phần nghiệp vụ BHTNDS của 4 Công ty bảo
hiểm và các Công ty khác năm 1999
*****
Với sức mạnh nhỏ bé và nguồn tài chính hạn hẹp nhưng kỹ thuật đến
với PJICO ngày càng nhiều bằng sự cạnh tranh đầy thuyết phục của đội ngũ
nhân viên có nhiều kinh nghiệm. Số lượng khách hàng tăng dẫn đến tổng
doanh thu các nghiệp vụ cũng tăng theo...
Bảng 2: Chỉ tiêu doanh thu bộ phận hoạt động kinh doanh của Công
ty cổ phần bảo hiểm PJICO thời kỳ 1996 - 2000.
Chỉ tiêu
Năm
1996
1997
1998
1999
2000
24.160
35.105
42.698
45.253
48.253
16.029
24.115
31.410
32.160
36.160
21.130
33.055
35.087
38.144
41.144
Doanh thu khác
1.075
1.805
1.445
2.433
3.443
Tổng:
62.400
94.080
111.360
118.000
129.000
Doanh thu B H
con người (tr.đ)
Doanh thu B H
TNDS (tr.đ)
Doanh thu B H tài
sản (tr.đ)
Nguồn: Theo báo cáo tổng kết của PJICO năm 1996-2000
Qua bảng 2 ta thấy rằng, tổng doanh thu của Công ty cũng như các bộ
phận của từng nghiệp vụ khác tăng dần qua các năm. Trong tổng doanh thu
nghiệp vụ thì nghiệp vụ bảo hiểm con người là lớn nhất, mặc dù nghiệp vụ
bảo hiểm trách nhiệm dân sự chưa thực sự chiếm phần lớn trong tổng doanh
thu nhưng nó đóng góp một phần không nhỏ trong tổng doanh thu nghiệp
vụ.
So với các Công ty khác thì PJICO là một trong những Công ty có
nghiệp vụ BHTNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba mạnh nên mới
duy trì ở mức doanh thu nghiệp vụ tăng liên tục qua các năm cụ thể năm
1996 tổng doanh thu phí bảo hiểm gốc là 62,4 tỷ đồng đến năm 2000 lên tới
129 tỷ đồng, do PJICO có những thuận lợi sau:
- Là Công ty đời sau nên đã thích ứng được với những thông tin, trang
thiết bị hiện đại, cập nhật và tiếp cận được thị trường nhanh. Đội ngũ nhân
viên trẻ, năng động, nhiệt tình, có trình độ đại học.
- Khách hàng của PJICO vừa là khách hàng trong cổ đông và ngoài cổ
đông (trong đó khách hàng tự có của Công ty đã chiếm một số lượng lớn
tham gia đều đặn hàng năm tại Công ty PJICO. Đây là điểm mạnh trong
cạnh tranh thị trường với các Công ty mạnh Bảo Việt, Bảo Ninh...).
- Ngoài những thuận lợi chủ quan là những thuận lợi khách quan như
sự bùng nổ về số lượng xe cơ giới. Từ năm 1999 đến năm 2000 bình quân
hàng năm phương tiện cơ giới đường bộ tăng 16,8%; tuy mức tăng vè số
phương tiện cơ giới tham gia lưu hành lớn nhưng mức cơ giới hoá lại thấp.
đó là nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng tai nạn giao thông ngày một
tăng, thiệt hại xảy ra cho chính chủ xe cơ giới và người thứ ba.
Qua trên cho thấy Công ty PJICO đang đứng trước một tiền đồ mở
rộng với nhiều hướng bước. Vậy để đi con đường nào thì đó còn là cả quá
trình khó khăn đòi hỏi Công ty phải có định hướng sao cho phù hợp.
1. Công tác khai thác:
Đây là khâu đầu tiên trong quá trình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm,
khâu này quyết định đến sự thành công hay thất bại của Công ty trong kinh
doanh nghiệp vụ BHTNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba. Thực
chất của khâu khai thác là vận vận động tuyên truyền cho các chủ xe cơ giới
thấy được sự cần thiết cũng như trách nhiệm của bản thân khi xe lưu hành
và gây thiệt hại cho người khác.
PJICO đã đề ra khẩu hiệu cho hoạt động khai thác đó là “năng động,
tích cực, khoa học, nhanh và tôn trọng lợi ích của khách hàng hay cũng như
cộng tác viên”, với phương châm “ chữ tín làm trọng, coi trọng lợi ích của
khách hàng là trên hết, nâng cao trình độ chuyên môn và chất lượng phục vụ
khách hàng”. Ngay từ khi thành lập, Công ty đã không ngừng mở rộng địa
bàn khai thác, đặt nhiều văn phòng đại diện ở các tỉnh, thành phố lớn, hàng
trăm tổng đại lý được mở rộng ở các khu vực đông dân cư, nhiều người qua
lại thuận tiện cho việc mua bán bảo hiểm để thực hiện khai thác tốt nhất.
Triệt để nhằm bám sát khách hàng, tạo điều kiện cho khách hàng tiếp cận và
tham gia bảo hiểm tại Công ty. Phối hợp với các cơ quan hành chính như Bộ
tài chính, Bộ giao thông vận tải, Bộ công an, cảnh sát... cùng tiến hành triển
khai nghiệp vụ.
Sau khi ra đời Nghị định 115 CP/1997 “Bàn về phạm vi bảo hiểm và
trách nhiệm bảo hiểm”, Nghị định này quy định phạm vi bảo hiểm rộng hơn
so với Nghị định 30 của Hội đồng bộ trưởng, ngoài BHTNDS của chủ xe cơ
giới đối với người thứ ba, chủ xe còn phải tham gia bảo hiểm trách nhiệm
dân sự của chủ xe đối với hàng hoá trở trên xe theo hợp đồng bảo hiểm vận
chuyển hành khách.
- Bổ sung quy định về trách nhiệm của cơ quan bảo hiểm
- Bổ sung quy định về quyền lợi của chủ xe cơ giới.
- Bổ sung quy định về trách nhiệm của các bộ và Uỷ Ban nhân dân
các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nhằm hướng dẫn thi hành và phối
hợp triển khai thực hiện.
- Bổ sung các quyết định về xử lý vi phạm đối với các hành vi vi
phạm chế độ bảo hiểm bắt buộc nhừm đảm bảo thi hành Nghị định trong
thực tế triển khai.
Kết quả đạt được qua tình hình thực tế triển khai theo Nghị định 115
CP/1997, sau 6 năm hoạt động trên thị trường bảo hiểm cạnh tr anh gay gắt
PJICO vẫn đứng vững và hoạt động với hiệu quả cao cụ thể:
a. Về mặt số lượng xe cơ giới:
Biểu 4: Tình hình khai thác nghiệp vụ BHTNDS của chủ xe cơ giới
đối với người thứ ba tại PJICO (1996 - 2000).
Năm
1999
Chỉ tiêu
(Nguồn: Báo cáo thống kê Công ty PJICO 1996-2000).
Theo số liệu bảng 4 cho thấy số lượng xe cơ giới tham gia vào lưu
thông qua các nă tăng dần, năm 2000 lượng xe cơ giới tham gia lưu thông là
nhiều nhất đặc biệt là xe máy tăng 150% (thêm 50%). Số xe tham gia bảo
hiểm cũng như tỷ lệ xe tham gia bảo hiểm tăng dần từ năm 1996 đến năm
2000 (năm 1996 là 0,51%, đến năm 2000 là 0,685%), còn về số tuyệt đối
năm 1996 số xe tham gia bảo hiểm là 23.418 xe, năm 2000 số xe tham gia
bảo hiểm là 41.420 xe.
Thực tế lượng xe máy trong lưu thông gấp gần 12 lần xe ô tô nhưng
lượng xe máy lại tham gia bảo hiểm ít hơn xe ô tô rất nhiều vì nước ta chưa
bắt buộc được trực tiếp xe máy tham gia bảo hiểm trách nhiệm dân sự mà
chỉ bắt buộc được với ô tô (nhưng với số lượng chưa triệt để vẫn còn rất
thấp).
Năm 1997, Công ty đã thu hút được 33.426 chiếc xe tăng 10.008
chiếm 0,61% tổng lượng xe lưu hành trên toàn quóc tăng 42,74% so với
năm 1996.
Qua đây ta thấy được sự vươn lên của PJICO trên thị trường bảo
hiểm, từ một Công ty mới thành lập nhưng vẫn đủ sức để cạnh tranh với các
Công ty bảo hiểm lớn như Bảo Việt, Bảo Minh đang hoạt động mạnh trên
thị trường bảo hiểm.
Đến năm 1998 số lượng xe tham gia bảo hiểm so với năm 1997 tăng
13,4%, năm 2000 tăng chậm khoảng 8,84%. Đây là thời kỳ tăng chậm nhất
kể từ khi Công ty triển khai nghiệp vụ.
Nhận xét chung tình trạng cả nước so sánh với PJICO trong nghiệp vụ
bảo hiểm trách nhiệm dân sự. Mặc dù đã có những chuyển biến tốt trong
khâu khai thác bảo hiểm xe cơ giới trong vả nước nói chung và PJICO nói
riêng nhưng vẫn chưa khai thác hết tiềm năng bảo hiểm.
* Đối với xe ô tô các loại:
Dựa trên số liệu lượng ô tô các loại trên toàn quốc từ năm 1996 đến
năm 2000 tăng xấp xỉ 9% năm.
Năm 1996 cả nước có 386.946 xe đến năm 2000 là 750.000 xe.
- Số xe ô tô được bảo hiểm trong cả nước năm 1996 là 86.998 xe
trong khi tham gia tại PJICO đã là 14.796 xe chiếm gần 6% số lượng xe
tham gia bảo hiểm trên toàn quốc.
- Số xe ô tô được bảo hiểm trong cả nước năm 1999 là 167.625 xe,
trong khi tham gia tại PJICO là 24/360 xe chiếm gần 7% số lượng xe tham
gia bảo hiểm trên toàn quốc.
- Số xe ô tô được bảo hiểm trong cả nước năm 2000 là 199.630 xe,
trong khi tham gia tại PJICO là 26.660 xe chiếm gần 13,3% số lượng xe
tham gia bảo hiểm trên toàn quốc.
Tỷ lệ xe ô tô được bảo hiểm bình quân trong giai đoạn này (19962000) mới chỉ đạt gần 35% tổng số xe ôtô các loại.
Biểu đồ 2: Biểu diễn tỷ lệ xe ô tô tham gia bảo hiểm
* Đối với xe máy:
Số lượng xe máy trên toàn quốc từ năm 1996 đến năm 2000 tăng bình
quân gần 15,5% năm.
Năm 1996 trên toàn quốc có 4.208.247 xe máy, đến năm 1999 lên tới
5.610.884 xe máy các loại. Số xe máy trong cả nước được bảo hiểm năm
1996 trên 900.000 chiếc thấp hơn năm 1995 nhưng cao hơn so với năm
1997, đến năm 2000 chỉ còn 678.915 là 8.622 chiếc, năm 2000 là 18.778
chiếc tăng trên 10% số lượng xe tham gia bảo hiểm tại PJICO.
Tỷ lệ xe máy được bảo hiểm bình quân của cả nước trong giai đoạn
1996 đến 2000 mới chỉ đạt khoảng 18% tổng số xe máy các loại, tỷ lệ xe
máy được bảo hiểm thấp dần qua các năm:
Năm 1996 là 22,58%; năm 1997 là 16,6%; năm 1998 là 11,6%; năm
2000 chỉ còn 10,6%.
Biều đồ 3: Biểu diễn số xe máy tham gia bảo hiểm trong cả nước va
tại Công ty PJICO.
*****
BHTNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba là loại hình bảo
hiểm bắt buộc theo Nghị định số 115 CP/1997 ngày 17/12/1997 của Chính
Phủ ở Công ty PJICO số lượng xe máy và ô tô tham gia bảo hiểm tại Công
ty ngày một tăng, còn trong cả nước số xe ô tô tham gia bảo hiểm 2000
giảm; số lượng xe máy tham gia bảo hiểm cũng giảm cho đến năm 2000 chỉ
còn 10,6T, chứng tỏ việc khai thác ở các Công ty bảo hiểm khác chưa được
tốt. Hiện cho đến năm 2001 còn tới 5,3 triệu xe máy chưa mua bảo hiểm.
* Nguyên nhân làm ảnh hưởng với công tác khai thác của PJICO
- Xét trên giác độ chủ quan là:
+ Công ty cổ phần bảo hiểm PJICO chưa nhậy bén chưa thực sự đổi
mới phương thức phục vụ để phù hợp cơ chế thị trường đặc biệt là các dịch
vụ có tính chất xã hội cao.
+ PJICO chưa thực sự hợp tác với các Công ty bảo hiểm khác để cùng
nhau thành lập hội liên hiệp bảo hiểm tương hỗ lẫn nhau để thực hiện Nghị
định 115 CP, mãi cho đến cuối năm 2000 (10/10/2000) thì hiệp hội bảo
hiểm gồm có (PJICO, PTI, bảo hiểm Thành phố Hồ Chí Minh, Bảo Việt họp
bàn về việc thực hiện Nghị định 115 CP).
+ PJICO chưa biết tranh thủ sự ủng hộ giúp đỡ của các cấp, các ngành
có liên quan trong việc tạo điều kiện thuận lợi để khai thác hết tiềm năng
bảo hiểm.
- Trình độ nghiệp vụ khai thác của nhân viên Công ty còn yếu, Công
ty PJICO chưa quan tâm đúng mức đến việc khai thác nên chưa thuyết phục
được người tham gia bảo hiểm có hiệu quả.
- Nguyên nhân khách quan:
+ Đứng về phía người tham gia bảo hiểm thì tuyệt đại đa số là không
tự giác tham gia bảo hiểm (ý thức của người tham gia bảo hiểm (chủ xe) vẫn
chưa cao), các chủ xe luôn muốn trốn tránh việc mua bảo hiểm trách nhiệm
dân sự ở các Công ty bảo hiểm nói chung và PJICO nói riêng.
+ Do sự hiểu biết về trách nhiệm bản thân của chủ xe cơ giới còn hạn
chế, sự hoài nghi về việc được hưởng quyền lợi chưa cao.
+ Cơ chế kiểm tra, kiểm soát việc mua bảo hiểm chưa rõ ràng, chưa
kết hợp được với công an giao thông và các ngành có liên quan.
Những nguyên nhân chủ quan và khách quan đã d ẫn tới hậu quả làm
cho khâu khai thác nghiệp vụ kém đi.
b. Về doanh thu phí bảo hiểm xe cơ giới:
Theo số liệu bảng phần (4) cho thấy tốc độ tăng tỷ lệ xe máy tham gia
bảo hiểm nhanh hơn tốc độ tăng tỷ lệ ô tô tham gia bảo hiểm. Cụ thể là năm
1997 tỷ lệ xe tăng 38,09%, năm 2000 tăng 3,4%. Nhưng do phí bảo hiểm
bình quân/đầu xe máy thấp hơn rất nhiều so với phí bảo hiểm bình quân/đầu
ô tô. Các chủ xe máy tham gia bảo hiểm phần lớn là do bắt buộc nên không
tham gia bảo hiểm với mức trách nhiệm cao. Trong khi đó chủ xe ô tô tham
gia bảo hiểm với mức trách nhiệm cao và có tính tự nguyện bởi họ ý thức
được phần nào “nguồn nguy hiểm cao độ” do ô tô gây ra cho người khác.
Do vậy nguồn phí thu được từ ô tô đem lại nhiều hơn, vì có sự tăng
giảm không đồng đều giữa số ô tô và số xe máy tham gia bảo hiểm trách
nhiệm dân sự nhưng số phí thu được từ nghiệp vụ này vẫn tăng dần qua cac
năm.
Năm 1996 phí thu được từ nghiệp vụ BHTNDS là 2,415 tỷ đồng
Năm 1997 phí thu được từ nghiệp vụ BHTNDS là 3,5 tỷ đồng
Năm 199 8 số phí thu được từ nghiệp vụ này là 3,76 tỷ đồng
Năm 1999 số phí thu được là: 3,909 tỷ đồng
Năm 2000 phí thu được từ nghiệp vụ BHTNDS là 4,21284 tỷ đồng
Biểu 5: Tình hình thực hiện kế hoạch thu phí BHTNDS tại Công ty cổ
phần bảo hiểm PJICO
Số xe tham
Phí B.H
Phí B.H
Tỷ lệ hoàn
gia B H
kế hoạch
thực thu
thành kế
(chiếc)
(triệu đồng)
(triệu đồng)
hoạch (%)
199 6
23.418
2.015
2.414,99
119,8
1997
33.426
2.688
3.449,25
128,32
1998
34.215
2.880
3.760,04
130,6
1999
41.240
3.500
3.909,54
112,0
2000
43.350
3.850
4.212,84
109,4
Năm
(Nguồn: Theo số liệu thống kê của PJICO giai đoạn 1996-2000)
Với tinh thần và khả năng thực hiện tốt của cán bộ nhân viên luôn lấy
khai thác làm nhiệm vụ hàng đầu để bảo toàn vốn cho Công ty PJICO luôn
vượt kế hoạch đề ra về doanh thu phí bảo hiểm gốc, đem lại hiệu quả kinh
doanh và ổn định cuộc sống cho cán bộ công nhân viên Công ty.
Nhận xét bảng 5:
Năm 1996 đến năm 2000 số xe tham gia bảo hiểm tại Công ty ngày
một tăng từ 23.418 chiếc lên 43.350 (năm 2000) làm cho lượng phí thu được
cũng tăng lên và vượt kế hoạch.
- Năm 1996 Công ty thu được 2.414,99 triệu đạt 119,8% kế hoạch,
vượt kế hoạch 398,99 triệu đồng.
- Năm 1997 Công ty thu được 3.449,25 triệu đồng đạt 128,32% kế
hoạch, vượt kế hoạch là 761,25 triệu đồng.
- Năm 1998 Công ty thu được 3.760,04 triệu đồng đạt 130,6% kế
hoạch, vượt kế hoạch 880,04 triệu đồng.
- Năm 1999 Công ty thu được 3.909,04 triệu đạt 112% kế hoạch, vượt
kkf là 409,54 triệu.
- Năm 2000 Công ty thu được 4.212,84 triệu đạt 109,4% kế hoạch,
vượt kế hoạch là 362,84 triệu.
Thông qua bảng 5 trên thì tình hình thực hiện kế hoạch thu phí là một
vấn đề mà Công ty đang phải xem xét trong thời gian tới, bởi số lượng xe cơ
giới tại Việt Nam tham gia giao thông ngày càng nhiều, thì lượng xe tham
gia bảo hiểm sẽ nhiều càng tạo ra doanh thu phí cao cho các Công ty bảo
hiểm, cũng như PJICO.
Đối với PJICO thì nghiệp vụ BHTNDS của chủ xe cơ giới đối với
người thứ ba chưa phải là nghiệp vụ chính nhưng nó đóng góp một phần
doanh thu không nhỏ vào trong doanh thu bảo hiểm gốc toàn Công ty.
Biểu 6: Tỷ trọng doanh thu nghiệp vụ BHTNDS của chủ xe cơ giới
đối với người thứ ba
Năm
Doanh thu nghiệp
Doanh thu bảo
Tỷ trọng doanh thu
vụ (tr.đ)
hiểm gốc toàn
BHTNDS (%)
Công ty (tr.đ)
1996
2.414,99
62.400
3,87
1997
3.449,25
94.080
3,67
1998
3.760,04
111.360
3,38
1999
3.909,54
118.000
3,33
2000
4.212,84
129.000
3,327
(Nguồn: Theo báo cáo thống kê của Công ty PJICO 1996-2000)
Qua bảng 6 tỷ trọng doanh thu nghiệp vụ thấy được tỷ lệ trong doanh
thu từ nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với
người thứ ba trong tổng doanh thu từ phí bảo hiểm gốc của toàn Công ty
giảm dần qua các năm từ 3,87 (7 năm 1996) xuống còn 3,327% (năm 2000)
nhưng về số tuyệt đối thì doanh thu nghiệp vụ này vẫn tăng.
- Năm 1996 doanh thu nghiệp vụ này là: 2,415 tỷ
- Năm 1997 doanh thu nghiệp vụ này là: 3,4993 tỷ
- Năm 1998 doanh thu nghiệp vụ này là: 3,6704 tỷ
- Năm 1998 doanh thu nghiệp vụ này là: 3,90954 tỷ
- Năm 2000 doanh thu nghiệp vụ này là: 4,21284 tỷ
Biểu đồ 4: Doanh thu nghiệp vụ BHTNDS so với doanh thu bảo hiểm
gốc toàn Công ty
*****
Một lần nữa ta lại khảng định rằng khâu khai thác với mục tiêu là
giành được khách hàng về phía Công ty là mục tiêu hàng đầu. Vì đây là
khâu quyết định với sự tồn tại cũng như sự phát triển lâu dài của Công ty,
cho nên việc vận đọng tuyên truyền được nhiều khách hàng tham gia bảo
hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới là càng tốt, đó cũng là quy luật số
động bù số ít. Qua những con số thống kê của các năm về số lượng xe cơ
giới khai thác được của Công ty PJICO cho thấy số xe tham gia bảo hiểm
còn thấp, nhất là BHTNDS chủ xe cơ giới đối với người thứ ba. Đây cũng là
ngyên nhân ảnh hưởng không nhỏ tới doanh thu phí Công ty.
- Do sự cạnh tranh gay gắt trđn tr bảo hiểm giữa các Công ty lớn nhỏ.
Nên đã đẩy các Công ty bảo hiểm hạ phí xuống một cách tuỳ ý, không theo
ạ chung của Bộ tài chính làm cho PJICO rơi vào tình thế bị động, tiềm lực
tài chính cũng như kinh nghiệm trong kinh doanh của PJICO cũng bị hạn
chế rất nhiều, nên việc cạnh tranh hay thu hút khách hàng chưa đạt hiệu quả
cao.
- Ngoài ra mức phí mà Công ty áp dụng chưa linh hoạt, chưa phù hợp
với khẳ năng tài chính của chủ xe cơ giới.
2. Công tác đề phòng hạn chế tổn thất.
Từ khâu khai thác đến giải quyết bồi thường của Công ty luôn trong
tình trạng bấp bênh, Công ty bảo hiểm nào cũng muốn chi thì ít nhưng mà
thu thì nhiều, tối thiểu ra thì thu phải đủ bù chi. Đó là nguyên lý tồn tại phát
triển của bất kỳ một Công ty nào trên thị trường. Vậy thì Công ty PJICO cần
phải có một biện pháp hữu hiệu để né tránh tình trạng xảy ra nhiều tổn thất,
trong kinh doanh bảo hiểm thì công tác đề phòng hạn chế tổn thất không chỉ
mang lại hiệu quả cho hoạt động kinh doanh mà còn vì sự an toàn và trật tự
chung của xã hội, đem lại sự ổn định về tài chính cho người thứ ba và chủ
xe cơ giới.
Đây là một công tác không thể thiếu được trong quá trình hoạt động
kinh doanh của bất kỳ Công ty bảo hiểm nào. Hàng năm Công ty luôn theo
dõi thống kê tình trạng tổn thất và tìm ra nguyên nhân gây tai nạn trên cơ sở
đó để nghiên cứu đề suất những biện pháp phòng ngừa hữu hiệu nhằm giảm
chi xuống mức thấp nhất khả năng tổn thất xảy ra.
Cụ thể công tác đề phòng hạn chế tổn thất của Công ty như là:
- Xây dựng các đường lánh nạn ở một số đoạn đường nguy hiểm, cho
dựng các Phanô, áp phíc... ở các đèo Măng Găng, Cù Mông, đèo Hải Vân...
- Đối với ngành đường sắt, Công ty cho lắp các lưới chống gạch đá
ném qua cửa sổ ở các toa tàu.
- ở các t rạm xăng dầu cho lắp đặt các bình cứu hoả...
- Công ty tích cực trong việc thực hiện chỉ thị UBND thành phố Hà
Nội và sắp xếp lại trật tự an toàn giao thông, phối hợp với các ban ngành
chức năng tuyên truyền rộng rãi trong nhân dân về luật lệ giao thông nhằm
nâng cao ý thức chấp hành nghiêm chỉnh luật lệ giao thông.
- Công ty PJICO luôn tạo ra những ấn tượng tốt đẹp với khách hàng.
Thông thường Công ty luôn trích 3% tổng phí để cho công tác đề phòng hạn
chế tổn thất trong nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới.
(...)
Bảng 7: Tình hình thực hiện chi đề phòng hạn chế tổn thất giai đoạn
1996-2000.
******
Qua số liêu biểu 7 ta thấy từ năm 1996 đến năm 1999 Công ty PJICO
chi cho đề phòng hạn chế tổn thất ngày một tăng (từ 63 triệu đồng vào năm
1996 đến 95 triệu đồng vào năm 1999), trong đó chi cho tuyên truyền quảng
cáo chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng chi đề phòng hạn chế tổn thất.
Năm 1996 chi truyên truyền quảng cáo chiếm 40,64%
Năm 1997 chi truyên truyền quảng cáo chiếm 51,02%
Năm 1998 chi truyên truyền quảng cáo chiếm 52,89%
Năm 1999 chi cho truyên truyền quảng cáo chiếm 50,06%
Năm 2000 chi cho truyên truyền quảng cáo chiếm 42,62% đã bị giảm
đi so với những năm 1997 đến năm 1999.
Chi lớn thứ hai trong đề phòng hạn chế tổn thất là chi hỗ trợ và khen
thưởng. Năm 1996 chi khen thưởng chiếm 29,12% cao nhất từ năm 19962000 và chi hỗ trợ cũng chiếm 27,45%. Ngoài ra còn có các khoản chi khác
chiếm một phần nhỏ trong khoản chi đề phòng. Qua trên ta thấy việc chi phí
cho đề phòng hạn chế tổn thất của PJICO là hợp lý, PJICO đã chi nặng cho
tuyên truyền quảng cáo vì trong giai đoạn đầu khi gia nhập thị trường bảo
hiểm tạo uy tín và khắc sâu vào trong đầu khách hàng cái tên “Công ty bảo
hiểm PJICO” như là một thứ hàng hoá tiêu thụ công dụng. Bên cạnh đó, việc
tuyên truyền quảng cao để tạo sự cạnh tranh với hai Công ty bảo hiểm đứng
đàu “Bảo Việt, Bảo Minh”.
PJICO đã nhận thức được vai trò của công tác đề phòng hạn chế tổn
thất trong kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe cơ
giới, nhưng hiệu quả vẫn chưa tốt, điều này được thể hiện ở mức độ trầm
trọng của các vụ tai nạn giao thông ngày càng tăng, tỷ lệ bồi thường hàng
năm còn tương đối lớn thậm chí ở một số văn phòng đại lý số tiền bồi
thường cho người thứ ba còn lớn hơn cả phí bảo hiểm trách nhiệm dân sự
chủ xe thù về.
Ví dụ: PJICO Hải Phòng năm 1999 bồi thường 152,7% số phí thu
nghiệp vụ. Quý I năm 2000 bồi thường 198,6% số phí thu nghiệp vụ. Văn
phòng 4 bồi thường chiếm 131,5%số phí thu nghiệp vụ.
Vậy đòi hỏi Công ty cần phải có sự quan tâm đầu tư hơn nữa để đưa
Công ty đứng trên bảng vàng những Công ty mạnh.
* Nguyên nhân của sự hạn chế công tác đề phòng hạn chế tổn thất:
- Do doanh thu phí của Công ty còn hạn chế nên mức độ chi phí cho
công tác này còn ít ỏi, nên hiệu quả chưa cao.
- Trình độ nghiệp vụ cũng như chuyên môn trong khâu này vẫn còn
kém, cán bộ nhân viên chưa chịu nghiên cứu kỹ những nguyên nhân gây ra
tổn thất để đề ra biện pháp phòng ngừa.
- Một nguyên nhân quan trọng nữa là cơ sở hạ tầng kỹ thuật, giao
thông cũ kỹ lạc hậu luôn gây ra tai nạn ách tắc giao thông làm tổn thất
chung cho Công ty nói riêng và toàn xã hội nói chung.
Do đó PJICO không nên lơ là trong công tác này, tuy nó không ảnh
hưởng trực tiếp đến khâu chi trả bồi thường nhưng nó là khâu quyết định để
đi đến rủi ro gay tổn thất cho chủ xe cơ giới.
3. Công tác giám định
Sau khi đã xảy ra tổn thất thì PJICO phải có trách nhiệm cử nhân viên
có thẩm quyền liên quan tới xem xét đánh giá mức độ thiệt hại về tài sản
cũng như về con người. Công tác giám định vừa bảo vệ lợi ích của khách
hàng vừa bảo vệ quyền lợi của Công ty bảo hiểm.
Năm 1996 xảy ra 617 vụ tai nạn thuộc trách nhiệm của Công ty. Công
ty đã tiến hành giám định 602 vụ và chuyển hồ sơ cho phòng bồi thường giải
quyết, còn lại 15 vụ do chưa rõ ràng về hồ sơ và hoàn thành nốt thủ tục
giám định nên chưa được giải quyết bồi thường năm 1997, Công ty đã tiến
hành giám định 655 vụ trong đó có 15 vụ từ năm 1996 chuyên sang và 640
vụ phát sinh trong năm cuối năm còn tồn 21 vụ chưa giám định chuyển sang
năm 1998.
Năm 1989 trong tổng số 419 vụ công ty giám định ( phát sinh trong
năm 398 vụ ), cuối năm còn tồn 11 vụ chuyển sang năm 1999 ).
- Năm 1999 tổng số vụ Công ty giám định là 310 vụ ( phát sinh trong
năm 299 vụ và 11 vụ từ năm 1998 chuyển sang ) còn tồn 30 vụ chuyển sang
năm 2000 để giản quyết sau.
- Năm 2000 tổng số vụ Công ty giám định là 390 vụ ( phát sinh trong
năm 360 vụ và 30 vụ từ năm 1999 chuyển sang ) còn tồn 10 vụ chuyển sang
năm 2001 để giải quyết sau.
Qua trên ta thấy, số vụ tai nạn mà công ty giám định chiếm tỷ lệ lớn
trong tổng sóo các vụ tai nạn phát sinh thuộc trách nhiệm công ty. Nhưng số
vụ còn chưa được giải quyết và còn tồn đọng vẫn khá nhiều. Thế nhưng đây
cũng là kết quả đáng mừng thể hiện những nỗ lực và tinh thần làm việc nhiệt
tinh của cán bộ nói chung và bộ phận giám định nói riêng. Qua công tác
giám định công ty đã phát hiện được rất nhiều vụ tai nạn không thuộc phạm
vi bảo hiểm, đem lại lợi ích cho công ty, xử lý thích đáng các hành vi gian
lận trục lợi bảo hiểm của một số chủ xe.
* Những hạn chế của công ty trong khâu giám định:
- Là một công ty có tuổi đời hoạt động kinh doanh còn ít, kinh nghiệm
chưa nhiều, uy tín chưa lớn cũng như đội ngũ cán bộ giám định trình độ
chuyên môn chưa cao và kỹ thuật nghề còn bị hạn chế nên nó cũng ảnh
hưởng không nỏ đến tiến độ, chất lượng, đánh giá, kết luận để đi bồi thường
trong khâu giám định.
- Do số vụ tai nạn hàng năm lớn mà đội ngũ cán bộ giám định thì ít
không đủ để thực hiện giám định, không có mặt tại hiện trường kịp thời. Các
hồ sơ biên bản giám định, kiểm tra tính pháp lý... Hầu hết phải dcựa vào hồ
sơ của công an, bệnh viện và các ngành cơ quan chức năng có thẩm quyền
liên quan. Đây là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến việc giám định thiếu chính
xác không đánh giá đúng tổn thất thực tế là boa nhiêu, làm cho phát sinh
tiêu cực trong khâu bồi thường.
* Nguyên nhân của hạn chế.
- Thường các vụ tai nạn xảy ra chủ xe (lái xe đối với người thứ ba
việc phân định lỗi là rất khó, thông thường khi xảy ra tai nạn thì chủ xe (lái
xe) bỏ trốn để lại hiện trường bị thiệt hại giải quyết bằng thương lượng hoà
giải, thông cảm cho nhau cho nên trong lúc này áp dụng luật định là rất khó.
Chỉ khoảng 5% vụ tai nạn phải đưa ra toà án xét xử để phân định lỗi.
- Do xe cơ giới liên quan trực tiếp tới ngành giao thông nên mọi hồ sơ
lại do ngành công an trực tiếp quản lý, ắm giữ. Mà sự phối hợp giữa công ty
bảo hiểm PJIO với lực lượng cảnh sát giao thông, công an chưa được chặt
chẽ và quan hệ mật thiết qua lại với nhau.
- Thông thường khi xảy ra tai nạn chủ xe không thông báo cho công
ty bảo hiểm ngay mà để một thời gian sau mới tới để giải quyết. Đặc biệt đối
với các vụ tai nạn nghiêm trọng đã gây khó khăn trong việc giải quyết bồi
thường cuả bảo hiểm, hầu như bất lợi lại toàn rơi về phía PJICO.
Sau những thực tế, hạn chế và nguyên nhân của hạn chế trong khâu
giám định đòi hỏi PJICO cần phải có sự xem xét kỹ lưỡng hơn nữa, tăng
cường đội ngũ nhân viên giám định cả về số lượng và chất lượng nhằm đảm
bảo tính chính xác, kịp thời để tạo uy tín cho PJICO trên thị trường bảo
hiểm hơn nữa.
4. Công tác bồi thường.
Bồi thường là một khâu cuối cùng sau ba khâu (khai thác, để phòng
hạn chế tổn thất, giám định), nên nó quan trọng đối với sự kiện bảo hiểm
xảy ra. Bồi thường không chỉ ảnh hưởng đến lợi ích của người tham g ia bảo
hiểm mà còn tác động trực tiếp đến kết quả kinh doanh của công ty.
Riêng trong nghiệp vụ BHTNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ
ba thì khâu này thể hiện rõ nhất tầm quan trọng của nó.
Công ty PJICO rất chú trọng đến công tác bồi thường thể hiện trong lề
lối làm việc, chất lượng và số lượng bồi thường, quy trình giải quyết bồi
thường.
Bồi thường nhanh cóng hơn đáp ứng kịp thời yêu cầu của khách hàng.
Nhân viên trong khâu bồi thường đã chủ động xuống tận cơ sở để hướng dẫn
làm kịp thời thủ tục chu đáo, nhiều hồ sơ được giải quyết ngay được trong
ngày đã hạn chế được phiền hà cho khách hàng.
Mỗi năm, xác suất xảy ra tai nạn là khác nhau với mức độ khác nhau,
nên công tác bồi thường ở PJICO hàng năm cũng khác nhau.
Để đánh giá công tác bồi thường cụ thể, chính xác hơn ra có bảng tình
hình bồi thường nghiệp vụ BHTNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ
ba.
Theo bảng 8 thì năm 2000 số vụ tai nạn bị giảm đi rất nhiều so với
năm trước, năm 1998 có tới 617 vụ tai nạn nhưng năm 2000 còn 390 vụ
nhưng mức độ thiệt hại trong mỗi vụ lớn hơn, nen tổng số tiền bồi thường
năm 2000 tỷ; năm 1998 STBT là 2,7 tỷ; năm 1999 STBT là 2,85 tỷ; năm
2000 số tiền bồi thường giảm còn 2,6974 tỷ. Tỷ lệ tai nạn ôtô gây tai nạn
nhiều hơn ở xe máy, riêng năm 1999, năm 2000 số vụ tai nạn cũng giảm đi
rất nhiều, đây là kết quả đáng mừng cũng là do một phần công tác tuyên
truyền, công tác giám định và sự nhận thức của các chủ xe tốt hơn. Song so
với gần 5 năm hoạt động thì tỷ trọng doanh thu nghiệp vụ BHTNDS năm
1999 lại bị giảm sút. năm 2001 xảy ra nhiều vụt tai nạn giao thông ngihêm
trọng, đến hết quý I năm 2001 tỷ lệ tai nạn giao thông tăng trên 130,3%.
- Xem thêm -