BÀI THU HOẠCH MÔN ĐA DẠNG SINH HỌC
Học viên: Nguyễn Thị Kiều Oanh
MSHV: M0413015
1. Vườn Quốc Gia Tràm Chim – Đồng Tháp
Dọc theo Sông Tiền và Sông Hậu ta thấy phân bố đất phù sa là chủ yếu,
còn ở Đồng Tháp Mười, Hà Tiên chủ yếu là nhóm đất phèn, chạy dọc theo
biên giới Camphuchia thì chủ yếu nhóm đất xám.
Kinh tế phát triển, dân số tăng nhanh, nhu cầu vật chất tăng,…con
người đã tác động nhiều đến hệ sinh thái tự nhiên như phá rừng để trồng trọt,
chăn nuôi, độc canh cây trồng, bao đê, tăng vụ, sử dụng nhiều thuốc bảo vệ
thực vật, đưa cơ giới vào xẻ mương, đào kênh,… phá hại sinh cảnh làm giảm
độ đa dạng sinh học ( đa dạng sinh học là đa dạng ở 3 cấp độ: kiểu gen, loài,
quần xã).
ĐBSCL với hệ thống hạ lưu sông Mê Kông ở Việt Nam là hai nhánh
sông Tiền và sông Hậu, có khí hậu nhiệt đới ẩm với tính chất cận xích đạo, có
hai mùa rõ rệt, mùa mưa nước sông lớn vào tháng 9, tháng 10 làm ngập các
vùng trũng Đồng Tháp Mười, Tứ giác Long Xuyên gây thiệt hại nặng nề về
người và của để khắc phục những tổn thất do nước nổi tràn về người ta đã
chọn giải pháp bao đê. Một giải pháp làm thay đổi, xáo trộn rất lớn về môi
trường sinh thái, một giải pháp mà đánh đổi không nhỏ nguồn tài nguyên thiên
nhiên và ngấm ngầm nhiều rủi ro phía trước chưa biết được. Trước mắt ngập
ngùi đành tiếc nối những lợi ích do nước nổi tràn về như nước nổi giúp mang
nhiều phù sa bồi đắp cho đồng bằng, mang lại nguồn lợi thủy sản lớn, rữa trôi
các các chất độc và dịch hại trên đồng sau một mùa thu hoạch,…
Vườn Quốc Gia Tràm Chim là gốc nhỏ lưu giữ lại cảnh quan, địa mạo,
hệ động thực vật của hệ sinh thái đất ngập nước Tháp Mười xưa kia. Với hệ
thực vật đa dạng chia thành 6 quần xã: quần xã Lúa ma, quần xã năng, quần xã
tràm, quần xã cỏ ống, quần xã sen-súng, quần xã cỏ mồn. Trong đó quần xã
năng rất thích hợp với đất phèn và cũng là nguồn thức ăn chính của Sếu đầu
đỏ. Vào mùa nước nổi lúa ma là loài chủ lực quan trọng cho những loài xung
quanh, vào mùa khô lúa ma trở thành loài quan trọng trong hệ sinh thái đất
ngập nước Tràm Chim. Hệ thủy sinh vật ở đây cũng rất phong phú và đa dạng
(180 loài tảo, 110 loài động vật nổi, 26 loài động vật đáy, gần 350 loài phiêu
sinh động vật, 130 loài cá, 44 loài lưỡng cư). Số loài chim tìm thấy ở Vườn
Quốc Gia Tràm Chim gần ¼ số loài chim cả nước. Trong đó có hơn 230 loài
với hơn 32 loài chim nước quý hiếm như, điên điển, giang sen, bồ nông chân
xám, đại bang đen, cò quắn đầu đen, …Nhưng do đào kênh xẻ mương làm
thoát phèn từ môi trường đất sang môi trường nước dẫn đến diện tích năng
giảm từ đó làm số lượng Sếu về Vườn Quốc Gia giảm trước kia khi con người
chưa can thiệp vào thiên nhiên lượng Sếu về hàng năm khoãng 1000 – 1500
con, hiện nay lượng Sếu về Tràm Chim chưa tới 100 con, và thủy sinh vật
cũng giảm.
2. Khu di tích núi Mo So – Kiên Giang
Cách đây 9.000 năm ĐBSCL chưa được hình thành còn là vùng biển cạn
với rừng ngập mặn nước biển cao hơn hiện nay 3 đến 4 m và bờ biển còn ở
chân núi vùng Thất Sơn. Đến 8.000 năm trước đây mực nước biển hạ thấp
dần, phù sa từ từ lắng đọng trong suốt hơn 2.000 năm, đồng bằng được thành
lập tiến dần ra biển Đông và biển Tây (Vịnh Thái Lan). Đến 6.000 năm cách
đây thì nước biển lại dâng cao trong suốt 1.000 năm, rừng ngập mặn bị chôn
vùi tạo thành lớp than bùn ở độ sâu từ 1 - 2 m như hiện nay. Đồng thời các
giồng duyên hải được thành lập dọc bờ biển (Bạc Liêu, Sóc Trăng, Trà Vinh,
Bến Tre) che chắn vùng bên trong là các vùng trũng đầm lầy, Đồng Tháp
Mười, U Minh và vùng tứ giác Long Xuyên. Cách đây 4.500 năm nước biển
lại hạ thấp, đặc biệt là trong thời gian khoảng 4.000 đến 2.700 năm trước đây,
phù sa bồi đắp nhiều thêm và đồng bằng tiến thêm ra biển Đông và biển Tây.
Và cách đây 2.700 năm ĐBSCL có hình dạng tương tự ngày nay. Qua những
lần nước biển dâng cao và hạ thấp trong lịch sử đã để lại những di tích xâm
thực của nước biển trên đá tạo thành những ngấn (vết tích), như chuyến thực
tế ở Núi Mo So - Kiên Giang ta đã quan sát được. Ở Kiên Giang nhiều vùng
đất bị bỏ hoang do vừa bị nhiễm mặn lại thêm phèn hóa ngày càng tăng do
việc nuôi trồng thủy sản của dân địa phương. Quá trình xâm nhập mặn ngày
càng tăng như về mùa khô, lượng nước giảm nhiều, làm cho thủy triều lấn sâu
vào đồng bằng làm vùng đất ven biển bị nhiễm mặn nghiêm trọng. Quá trình
chuyển đổi cơ cấu canh tác lúaàtôm, phá các công trình ngăn mặn dẫn nước
mặn vào đồng nuôi tôm, chặt phá rừng ngập mặn ven biển.
*** Bảo tồn đa dạng sinh học là một trong những nhiệm vụ đặc biệt
quan trọng của công tác bảo vệ môi trường, Bộ Tài nguyên và Môi trường phối
hợp với các Bộ, ngành liên quan để nghiên cứu đề ra phương hướng, kế hoạch để
công tác bảo tồn đa dạng sinh học trên cả nước được hiệu quả hơn. Ở Việt Nam luật
Bảo tồn đa dạng sinh học cũng đa ban hành (01/07/2009) giúp công tác bảo tồn
đa dạng sinh học dễ dàng hơn. Để phát triển bền vững đất nước không nên đặt nặng
phát triển mạnh khía cạnh kinh tế, môi trường hay xã hội mà phải đặt chúng trong
một mối quan hệ hài hòa có quan hệ mật thiết trong một tổng thể.
- Xem thêm -