nghiên cứu chuyển hóa chitin /chitosan bằng phương pháp thủy phân enzyme thành vật liệu hấp thụ trong xử lí ô nhiễm môi trường
NGHIÊN CỨU CHUYỂN HÓA CHITIN/CHITOSAN BẰNG PHƯƠNG PHÁP
THỦY PHÂN ENZYME THANH VẬT LIỆU HẤP THỤ TRONG XỬ LÝ Ô
NHIỄM MÔI TRƯỜNG
Nguyễn Ngọc Lương, Nguyễn Thạc Hòa, 1Trần Thị Quý Mai,
2
Nguyễn Thị Ninh, 3Nguyễn Văn Thiết
Viện Chăn nuôi; ; 1Sở Y tế Bắc Giang; 2Sở Giáo dục và Đào tạo Hưng Yên;
3
Viện Công nghệ Sinh học
TÓM TẮT
Thủy phân chitin/chitosan bằng phương pháp enzyme có nhiều ưu điểm hơn
các phương pháp hóa học. Trong nghiên cứu này, sử dụng enzyme bromelain thu
nhận từ phụ phẩm chế biến dứa để thủy phân chitin/chitosan thành vật liệu hấp phụ
sinh học kích thước nano rất có hiệu quả. Sau khi nghiên cứu động học của phản ứng
thủy phân chitosan bằng enzyme bromelain, đã xác định được các điều kiện tối ưu cơ
bản cho quá trình là: pH = 3,5; nhiệt độ = 60oC; tỉ lệ enzyme/cơ chất là 150 ml chế
phẩm enzyme cho 7,5 ml dung dịch cơ chất 0,2%. Ngoài ra còn xác định được ảnh
hưởng của nồng độ các muối NaCl và (NH4)2SO4 lên hoạt tính của bromelain. Dùng
bromelain thủy phân chitosan từ kích thước trung bình ban đầu là 2800 nm đã tạo ra
được sản phẩm kích thước 645 nm, đạt tiêu chuẩn kích thước nano.
1. Đặt vấn đề
Cùng với sự phát triển nhanh về kinh tế, Việt Nam đang phải đối mặt với vấn đề
ô nhiễm môi trường ngày càng trầm trọng. Riêng trong lĩnh vực chăn nuôi, tuy nhiều
giải pháp xử lý chất thải (biogas, compost có bổ sung chế phẩm VSV, dung dịch
anolit, EM…) đã được nghiên cứu ứng dụng nhưng kết quả vẫn còn hạn chế (Nguyễn
Thạc Hòa và cs., 2009; Trịnh Quang Tuyên và cs., 2009). Thực tiễn đang đòi hỏi phải
tìm ra những giải pháp, vật liệu xử lý mới, có hiệu quả hơn nhằm giảm thiểu những
tác động bất lợi của ô nhiễm môi trường tới đời sống và sản xuất, trong số đó phương
pháp hấp phụ các chất gây ô nhiễm bằng vật liệu sinh học có kích thước nano đang tỏ
ra có ưu thế cao và được ứng dụng nhiều trên thế giới.
Chitin/chitosan thu nhận từ vỏ các loài giáp xác, chủ yếu từ tôm, cua,… đã được
ứng dụng rộng rãi trong dược học, y học, công nghiệp, nông nghiệp, công nghệ sinh
học… Nhờ có nhiều nhóm chức –OH nên phân tử chitin/chitosan có độ thấm nước
cao, khả năng bắt giữ và hấp phụ tốt (Dutta P.K và cs., 2004). Ngoài ra, do chứa các
nhóm chức mà trong đó các nguyên tử Oxygen và Nitrogen còn cặp electron chưa sử
dụng nên chúng có khả năng tạo phức, phối kết với hầu hết các kim loại nặng và kim
loại chuyển tiếp như: Hg2+, Cd2+, Zn2+, Cu2+, Ni2+, Co2+… (Vũ Công Phong., 2009).
Sản xuất chitin, chitosan làm vật liệu hấp phụ có kích thước nano dùng trong xử
lý ô nhiễm môi trường đã được nhiều tác giả nghiên cứu (Zielinska K và cs., 2010;
Ramirez M A và cs., 2010; Lora M A và cs., 2008 Kim S H và cs., 2006; Schmuhl R
và cs., 2001; Davila M G và cs., 1991;…). Do quá trình thủy phân để tạo kích thước
nano hiện nay chủ yếu là sử dụng phương pháp hóa học (acid HCl đặc) và còn tồn tại
một số nhược điểm như cắt mạch không định hướng, có nhiều sản phẩm phụ, khó tinh
chế, chi phí tốn kém, hiệu suất thấp, gây ô nhiễm môi trường và sản phẩm có hoạt
tính không cao nên nghiên cứu thủy phân chitin/chitosan bằng phương pháp enzyme
là một hướng đi có nhiều triển vọng vì điều kiện phản ứng mềm, dễ dàng điều khiển
được quá trình, sạch và thân thiện với môi trường. Dễ dàng thu nhận được từ phụ
phẩm chế biến dứa, bromelain được coi là một nguồn enzyme sẵn có tại Việt Nam với
giá thành rẻ hơn rất nhiều so với các enzyme đặc hiệu thủy phân chitosan khác như
chitinase và chitosanase. Không dừng lại ở mục tiêu tạo được vật liệu có kích thước
nano từ chitin/chitosan, các nghiên cứu của chúng tôi sẽ góp phần sử dụng hiệu
quả/triệt để hơn nguồn phế phụ phẩm chế biến nông/ thủy hải sản (vỏ tôm, cua; ngọn
vỏ, bã dứa,…), giảm thiểu ô nhiễm môi trường sinh thái do các hoạt động này gây ra.
Báo cáo này trình bày kết quả “Nghiên cứu chuyển hóa chitin/chitosan bằng phương
pháp thủy phân enzyme thành vật liệu hấp phụ trong xử lý ô nhiễm môi trường”.
2. Vật liệu và phương pháp nghiên cứu
2.1. Vật liệu
- Chitin/chitosan thành phẩm (từ vỏ tôm, cua,…)
- Enzyme Bromelain (từ vỏ dứa)
2.2. Hóa chất và thiết bị
Hóa chất: Acid acetic, NaCl, KOH, (NH4)2SO4
Trong tất cả các thí nghiệm mẫu chitosan được pha trong dung dịch acid acetic
1% hoặc trong các dung dịch đệm acetate có pH trong vùng từ 2 đến 6 được chuẩn bị
từ dung dịch acid acetic 1% này.
Thiết bị: Nhớt kế Otwan, nhiệt kế, máy đo pH, máy khuấy từ, máy ổn nhiệt, ống
đong, pipet các loại,…
2.3. Phương pháp nghiên cứu
2.3.1. Phương pháp tách chiết chitin từ vỏ tôm, vỏ cua và chuyển hóa chitin thành
chitosan
Chitin được tách chiết từ vỏ tôm hay vỏ cua bằng phương pháp enzyme và
phương pháp hóa học, sau đó được chuyển hóa thành chitosan bằng phương pháp xử
lí với dung dịch kiềm đặc có đun sôi (Alves M. N. và cs., 2008).
2.3.2. Các phương pháp nghiên cứu động học thủy phân chitin/chitosan bằng
bromelain
Động học quá trình thủy phân chitin/chitosan do bromelain xúc tác được nghiên
cứu chi tiết bằng phương pháp đo độ nhớt của dung dịch cơ chất (chitosan).
Nguyên lí: chitosan là một biopolymer dài mạch thẳng không phân nhánh, do đó
các dung dịch chitosan có độ nhớt rất cao. Ngoài các yếu tố như nhiệt độ, lực ion, áp
suất…, độ nhớt các dung dịch của chitosan nói riêng, của các polymer mạch thẳng nói
chung phụ thuộc rất lớn vào nồng độ của dung dịch, và đặc biệt là vào độ dài của
mạch polymer. Vì vậy chỉ cần cắt một vài liên kết bên trong mạch polymer là độ nhớt
của dung dịch đã giảm đi rất nhiều, đây chính là cơ sở để xác định kích thước hay
khối lượng phân tử trung bình của các polymer đa phân tán. Do độ nhớt của các dung
dịch polymer có thể đánh giá thông qua đo thời gian chảy một lượng nhất định các
dung dịch này qua mao quản của nhớt kế nên việc xác định độ nhớt của các dung dịch
polymer được quy về đo thời gian chảy các dung dịch của chúng qua nhớt kế và trong
nghiên cứu này nhớt kế Otwan được lựa chọn sử dụng.
Động học của phản ứng thủy phân chitosan bao gồm các bước sau:
- Khảo sát thời gian chảy (t, s) hay biến đổi thời gian chảy (Dt, s) (tức là độ
nhớt) của dung dịch cơ chất trong hỗn hợp phản ứng tại các thời điểm khác nhau dọc
theo tọa độ của phản ứng (T, min), tương đương với động học P – t (tích lũy sản
phẩm theo thời gian);
- Nghiên cứu mối phụ thuộc tốc độ thủy phân (sự biến đổi của thời gian chảy t
hay độ nhớt) vào nồng độ của cơ chất (ở đây là chitosan), tương đương với động học
bão hòa enzyme bởi cơ chất (động học P – [S]);
- Nghiên cứu mối phụ thuộc tốc độ quá trình thủy phân (hay thời gian chảy hoặc
sự biến đổi độ nhớt) vào nồng độ của enzyme (động học P – [E]);
- Nghiên cứu mối phụ thuộc của quá trình thủy phân vào pH (xác định giá trị pH
tối ưu), nhiệt độ, lực ion…
2.3.3. Phương pháp đo độ nhớt và xác định kích thước phân tử của các polymer
thẳng
Việc đo độ nhớt của một dung dịch được quy về đo thời gian chảy của nó trong
nhớt kế. Để đạt được mục đích này, cần chuẩn bị một seri dung dịch chitosan có nồng
độ nhỏ hơn 0,1% (trong vùng từ 0,005 đến 0,1%) trong dung dịch acid acetic 1%, sau
đó đo thời gian chảy của các dung dịch này (kí hiệu là t, s) và của dung môi (acid
acetic 1%, kí hiệu là t0, s). Từ các kết quả xác định thời gian chảy của các dung dịch
này sẽ tính được độ nhớt tương đối (htđ = t/t0), độ nhớt riêng (hr = (t – t0)/t0 = htđ – 1)
và độ nhớt rút gọn (hrg = hr/C). Sau đó xây dựng đồ thị biểu diễn mối phụ thuộc của
độ nhớt rút gọn vào nồng độ của dung dịch chitosan, đồ thị này có dạng đường thẳng
y = ax + b, cắt trục tung tại b, b chính là giá trị độ nhớt đặc trưng ([h]) của mẫu
chitosan được nghiên cứu.
Biết độ nhớt đặc trưng của mẫu chitosan sẽ xác định được khối lượng phân tử
(Mr) của nó theo công thức Mark-Houwink-Sakurada:
[η] = KMrα
trong đó K và α là các hằng số phụ thuộc vào bản chất của dung môi và nhiệt độ, α có
giá trị trong khoảng 0,5 – 0,8 (tham khảo tài liệu chúng tôi chọn α = 0,76; K = 7,4.104
).
Công thức tính chiều dài mạch polysaccharide của chitosan và các sản phẩm
thủy phân của nó:
L = 0,55n
ở đây
L: Chiều dài của mạch polymer (nm)
n: Số lượng đơn phân (monomer) cấu tạo nên polymer
2.3.4. Tiến hành thí nghiệm
- Xác định kích thước ban đầu của mẫu chitosan: Chuẩn bị seri dung dịch
chitosan nồng độ từ 0,005 đến 0,1 %, sau đó đo thời gian chảy của các dung dịch này
và của dung môi (acid acetic 1%) từ các số liệu này tính được độ nhớt đặc trưng của
mẫu chitosan, áp dụng công thức Mark-Houwink-Sakurada xác định kích thước phân
tử ban đầu của mẫu chitosan cơ chất;
- Nghiên cứu mối phụ thuộc tốc độ thủy phân vào nồng độ cơ chất: Chuẩn bị các
dung dịch chitosan nồng độ từ 0,1 đến 0,5 % sau đó cho thêm một lượng enzyme như
nhau (100µl) vào 7,5ml dịch cơ chất, lắc đều và đo ngay thời gian chảy của hỗn hợp
phản ứng, tiếp theo cứ cách 5 phút lại đo 1 lần thời gian chảy của hỗn hợp phản ứng;
- Nghiên cứu mối phụ thuộc tốc độ thủy phân vào nồng độ enzyme: Phản ứng
thủy phân được tiến hành với dung dịch cơ chất nồng độ 0,2% và các lượng enzyme
khác nhau từ 25 đến 200 µl chế phẩm enzyme cho 7,5ml dịch cơ chất. Cách đo thời
gian chảy của hỗn hợp phản ứng như trên;
- Trong các trường hợp: a) nghiên cứu ảnh hưởng của pH đến tốc độ thủy phân,
chuẩn bị seri dịch chitosan 0,2% trong đệm acetate pH từ 2,0 đến 6,0; b) nghiên cứu
ảnh hưởng của lực ion lên quá trình thủy phân - chuẩn bị seri dung dịch chitosan 0,2%
trong acid acetic 1% chứa NaCl nồng độ từ 25 đến 150 mM hoặc (NH4)2SO4 từ 1,25
đến 20 mM, sau đó phản ứng thủy phân trong tất cả các trường hợp được tiến hành
với một lượng enzyme như nhau cho mỗi 7,5ml dung dịch cơ chất, đo thời gian chảy
của hỗn hợp phản ứng như trên;
- Nghiên cứu ảnh hưởng của nhiệt độ đến khả năng thủy phân: Tiến hành phản
ứng thủy phân ở các nhiệt độ 30, 40, 50, 60, 70, 80, 90 oC với lượng enzyme như
nhau ở nồng độ chitosan 0,2%, sau 10 phút cho dừng phản ứng, để vào ngăn đá tủ
lạnh. Trước khi đo thời gian chảy lấy ra cho cân bằng với nhiệt độ phòng;
2.3. Phương pháp xử lý số liệu
Số liệu trong báo cáo được xử lý bằng chương trình Microsoft Excel 2003.
3. Kết quả nghiên cứu và thảo luận
3.1. Kết quả nghiên cứu xác định kích thước phân tử của mẫu chitosan
Bảng 1. Kết quả đo thời gian chảy và tính độ nhớt của mẫu cơ chất chitosan ban
đầu
C, %
T, s
htđ
hr
hrg
0.01
13,4
1,2762
0,2762
27,619
0.02
17,4
1,6571
0,6571
32,857
0.03
21,2
2,0190
1,0190
33,968
0.04
27,6
2,6254
1,6254
40,635
0.05
32,9
3,1333
2,1333
42,667
0.1
79,4
7,5651
6,5651
65,651
70
ĐNRG
60
50
40
30
y = 419.93x + 23.069
20
10
C, %
0
0
0.02
0.04
0.06
0.08
0.1
0.12
Hình 1. Đồ thị biểu diễn mối phụ thuộc của hrg của mẫu chitosan vào nồng độ dung
dịch của nó
Trong thí nghiệm xác định khối lượng phân tử nhớt trung bình của mẫu cơ
chất chitosan ban đầu, từ các số liệu đo thời gian chảy của các dung dịch nồng độ từ
0,01 đến 0,1%, đã tính được htđ, hr, và hrg của nó (bảng 1). Từ đồ thị biểu diễn mối
phụ thuộc của hrg và nồng độ dung dịch chitosan (hình 1) đã xác định được độ nhớt
đặc trưng [h] của mẫu chitosan cơ chất này là 23,069 (giá trị b của phương trình hồi
quy trên hình 1), tương ứng với Mr nhớt khoảng 820 kDa và chiều dài trung bình
mạch polysaccharide của mẫu cơ chất này là ~2800 nm.
Theo Dutta và cs (2004), Mr của chitosan từ một đến vài triệu dalton. Mẫu
chitosan chúng tôi sử dụng trong nghiên cứu có khối lượng phân tử nhỏ hơn giá trị
này, nhưng vẫn chưa đạt được kích thước nano, do đó cần phải có phương pháp
chuyển hóa chúng thành dạng nhỏ hơn để dùng làm vật liệu hấp phụ thì mới có hiệu
quả cao.
3.2. Kết quả nghiên cứu động học quá trình thủy phân chitosan bởi enzyme
bromelain
3.2.1. Kết quả nghiên cứu mối phụ thuộc vào nồng độ cơ chất tới tốc độ thủy phân
Cắt mạch polysaccharide của chitosan có thể thực hiện bằng các phương pháp
hóa học (HCl, HNO2) (Allan và Peyrou, 1995), vật lý (siêu âm) (Tsaih và Cheu.,
2003), sinh học (enzyme) (Muzzarelli và cs., 1999). Nhiều tác giả đã chứng minh
chitosan có thể được thủy phân bởi các enzyme không đặc hiệu như papain (Kumar
và cs., 2005), cellulase (Wu và cs., 2004), hemicellulase (Qin và cs., 2003)... Yalpani
và cs (1994); Lee và cs (2005) cho rằng dùng bromelain để thủy phân chitosan, một
cơ chất không đặc hiệu với bromelain, có thể đạt được kết quả tốt.
Nhằm tìm ra điều kiện tối ưu để thủy phân chitin/chitosan thành kích thước
nano bằng bromelain, chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu động học của quá trình thủy
phân chúng. Kết quả nghiên cứu mối phụ thuộc tốc độ thủy phân vào nồng độ cơ chất
được thể hiện trên hình 2.
500
t, s
400
C = 0.5
C = 0.3
C = 0.1
300
C = 0.4
C = 0.2
200
100
0
0
5
10
15
20
25
30
T, min
(a)
Dt, s
500
C = 0.5
C = 0.2
400
C = 0.4
C = 0.1
C = 0.3
300
200
100
0
0
5
10
15
20
25
30
T, min
(b)
500 Dt, s
400
300
1'
6'
26'
31'
11'
16'
21'
200
100
[S], %
0
0
0.1
0.2
0.3
0.4
0.5
0.6
(c)
Hình 2. Các đồ thị biểu diễn mối phụ thuộc của thời gian chảy (a) và sự biến đổi của
thời gian chảy (b) vào nồng độ cơ chất chitosan trong quá trình thủy phân (c)
Qua hình 2 ta thấy độ nhớt của dung dịch giảm mạnh trong phút phản ứng đầu
tiên, điều này chứng tỏ rằng bromelain có khả năng thủy phân chitosan khá tốt (hình
2a). Mức độ giảm trung bình của thời gian chảy ở các nồng độ cơ chất khoảng 2,84
lần so với khi chưa xảy ra phản ứng thủy phân tương đương với kết quả của Lee và cs
(2005) sử dụng bromelain của hãng Sigma công bố giảm 3 lần.
Nồng độ cơ chất càng cao thì sự biến đổi thời gian chảy Dt càng lớn (hình 2b).
Đặc biệt là giá trị này hầu như tỉ lệ tuyến tính với nồng độ của cơ chất trong vùng
khảo sát từ 0,1 đến 0,5% (hình 2c).
3.2.2. Kết quả nghiên cứu mối phụ thuộc biến đổi thời gian chảy theo nồng độ
enzyme
Để đánh giá khả năng thủy phân chitosan bởi bromelain, phản ứng thủy phân đã
được tiến hành với các lượng (nồng độ) enzyme khác nhau. Kết quả các thí nghiệm
được trình bày trên hình 3 cho thấy sự biến đổi (giảm) thời gian chảy của dung dịch
cơ chất trong hỗn hợp phản ứng tỉ lệ tuyến tính với nồng độ của enzyme trong vùng từ
25 đến 150 ml dung dịch enzyme/7,5 ml dung dịch cơ chất nồng độ 0,2%. Điều này có
nghĩa là để thủy phân một cách hiệu quả chitosan bằng chế phẩm bromelain cần phải
sử dụng không dưới 150 ml chế phẩm enzyme này cho 7,5 ml dung chitosan 0,2%.
100
t, s
80
0,025 ml
0,050 ml
0,150 ml
0,200 ml
0,100 ml
60
40
20
T, min
0
0
5
10
15
(a)
20
25
30
35
80
Dt, s
60
40
1'
6'
11'
21'
31'
20
[E], ml
0
0
50
100
150
200
250
(b)
Hình 3 Đồ thị biểu diễn động thái của thời gian chảy của dung dịch cơ chất trong
quá trình thủy phân khi phản ứng được xúc tác bởi các lượng bromelain khác
nhau (a) và cực đại đường cong thể hiện mối phụ thuộc của sự biến đổi độ nhớt
vào nồng độ của enzyme (b)
3.2.3. Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của pH lên phản ứng thủy phân
Để nghiên cứu mối phụ thuộc của quá trình thủy phân chitosan vào pH và xác
định giá trị pH tối ưu cho quá trình này, phản ứng thủy phân chitosan bởi bromelain
đã được tiến hành trong đệm acetate với pH từ 2,0 đến 6,0. Các kết quả này được
trình bày trên hình 4.
Theo Lee và cs (2005) thì ở giá trị pH thấp sẽ không thuận lợi cho việc hòa tan
chitosan và pH khác nhau cũng gây biến đổi độ nhớt ngay cả khi không có mặt của
enzyme. Dung dịch đệm acetate có thể làm giảm độ nhớt của chitosan, khi không có
mặt enzyme; giảm 40% ở pH 3,98 và 12% ở pH 5,5 (Muzzarelli và cs (1999). Hình 4
cho ta thấy pH tối ưu trong phản ứng của chúng tôi là 3,5. Như vậy, pH tối ưu của
bromelain mà chúng tôi thu nhận được thấp hơn so với của Lee và cs (2005) (pH 5,0)
và hãng Sigma (pH 6,5). Ở những giá trị pH >5 thì thời gian chảy hay độ nhớt thay
đổi không nhiều.
80
t, s
60
40
20
pH
0
0
1
2
3
4
5
6
7
(a)
40
D t, s
30
20
10
pH
0
0
1
2
3
4
5
6
7
(b)
Hình 4. Mối phụ thuộc của phản ứng thủy phân chitosan do bromelain xúc tác vào
pH
3.2.4. Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của nhiệt độ đến phản ứng thủy phân
Theo quy luật của các phản ứng hóa học thông thường, vận tốc phản ứng
enzyme tăng khi tăng nhiệt độ, nhưng vì enzyme có bản chất là protein do đó đối với
mỗi enzyme thường tồn tại một nhiệt độ tối thích nhất định. Hình 5 biểu diễn mối phụ
thuộc quá trình thủy phân chitosan do bromelain xúc tác vào nhiệt độ.
100
t, s
80
60
40
20
o
T, C
0
20
30
40
50
60
70
80
90
100
(a)
160
Dt, s
140
120
100
80
o
T, C
60
20
30
40
50
60
70
80
90
100
(b)
Hình 5. Mối phụ thuộc của phản ứng thủy phân chitosan do bromelain xúc tác vào nhiệt
độ
Các đồ thị trên hình 5 cho thấy dung dịch cơ chất trong hỗn hợp phản ứng thủy
phân chitosan chảy nhanh nhất khi phản ứng được tiến hành ở 60oC (hình 5a), tương
ứng với nhiệt độ tối ưu của phản ứng do bromelain xúc tác là 60oC (hình 5b). Nhiệt
độ tối ưu của phản ứng do chế phẩm bromelain của chúng tôi xúc tác cao hơn so với
kết quả của Lee và cs (2005) (50oC) và hãng Sigma (55oC).
3.2.5. Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của lực ion đến phản ứng thủy phân
Ngoài những yếu tố quan trọng kể trên ảnh hưởng tới hoạt động của enzyme, thì
lực ion (nồng độ muối) cũng ảnh hưởng tới hoạt tính xúc tác của enzyme. Vì vậy
chúng tôi đã nghiên cứu ảnh hưởng của nồng độ muối NaCl và (NH4)2SO4 đến phản
ứng thủy phân chitosan do bromelain xúc tác. Kết quả các nghiên cứu này được trình
bày trên hình 6 đã cho thấy lực ion không chỉ làm giảm độ nhớt của dung dịch
chitosan, mà còn ảnh hưởng mạnh lên quá trình thủy phân của nó do bromelain xúc
tác: Các đồ thị Dt – T khi không có mặt các muối NaCl (ở nồng độ 25 – 150 mM) và
(NH4)2SO4 (ở nồng độ 1,25 – 20 mM) nằm cao hơn rất nhiều so với khi có mặt muối
này trong hỗn hợp phản ứng (hình 6 a & c). Các đồ thị trên hình 6b và 6d cũng cho
thấy thời gian chảy của dung dịch cơ chất trong hỗn hợp phản ứng (tương ứng với ts
thủy phân) giảm rất mạnh ngay cả ở các nồng độ muối rất thấp (1,25 mM đối với
ammonium sulfate và 25 mM đối với NaCl). Điều này có nghĩa là các muối này ức
chế quá trình thủy phân chitosan do bromelain xúc tác, và tác động ức chế của
(NH4)2SO4 mạnh hơn nhiều so với NaCl.
Dt, s
100
80
0 mM
75 mM
60
25 mM
100 mM
50 mM
150 mM
40
20
T, min
0
0
2
4
6
(a)
8
10
12
100
Dt, s
80
1'
6'
11'
60
40
20
[NaCl], mM
0
0
50
100
150
200
(b)
Dt, s
100
80
0
5
20
60
40
1.25
10
2.5
15
20
0
0
2
4
6
10 T, min
8
(c)
Dt, s
100
1'
80
6'
11'
60
40
20
[(NH4 )2 SO4 ], mM
0
0
3
6
9
12
15
18
21
(d)
Hình 6. Các đồ thị biểu diễn ảnh hưởng của lực ion lên quá trình thủy
phân chitosan do bromelain xúc tác
3.3. Kết quả nghiên cứu thủy phân để tạo vật liệu hấp phụ kích thước nano
Từ các kết quả nghiên cứu động học trình bày trên, chúng tôi tìm được các
thông số tối ưu cơ bản cho phản ứng thủy phân chitosan để tạo ra vật liệu hấp phụ
nano chitosan như sau: Nồng độ cơ chất 0,2%; lượng enzyme 150 µl/7,5 ml cơ chất
(1,36%); nhiệt độ phản ứng 60oC, pH 3,5. Kết quả xác định kích thước phân tử trung
bình của sản phẩm thủy phân chitosan trong các điều kiện này được tóm tắt trong
bảng 2.
Bảng 2. Kết quả đo thời gian chảy và tính độ nhớt của mẫu sản phẩm thủy phân cơ
chất chitosan ban đầu trong các điều kiện tối ưu do bromelain xúc tác
C, %
T, s
htđ
hr
hrg
0.01
12,733
1,213
0,213
21,270
0.02
17,233
1,641
0,641
32,063
0.03
23,733
2,260
1,260
42,011
0.04
33,867
3,225
2,225
55,635
0.05
47,667
4,540
3,540
70,794
hrg
80
70
y = 1227.9x + 7.6073
60
50
40
30
20
10
[S], %
0
0
0.01
0.02
0.03
0.04
0.05
0.06
Hình 7. Đồ thị biểu diễn mối phụ thuộc của hrg của mẫu sản phẩm thủy phân
chitosan vào nồng độ dung dịch của nó
Mẫu sản phẩm thủy phân chitosan này có độ nhớt đặc trưng [h] = 7,6073, tương
ứng với khối lượng phân tử nhớt trung bình là ~190 kDa và chiều dài mạch
polysaccharide là ~645 nm, đạt tiêu chuẩn kích thước nano.
Trên đây là các kết quả thủy phân chitosan do bromelain xúc tác. Các kết quả
tương tự cũng nhận được khi thủy phân chitin đã được gel hóa bởi enzyme này.
4. Kết luận và đề nghị
4.1. Kết luận
- Đã xác định được chi tiết động học phản ứng thủy phân chitin/chitosan, xúc tác
bằng bromelain thu nhận từ phụ phẩm dứa, làm cơ sở để tiến hành xác lập điều kiện
thủy phân tối ưu.
- Điều kiện tối ưu cho quá trình thủy phân chitin/chitosan bằng bromelain là: pH
= 3,5; T = 60oC; tỉ lệ enzyme/cơ chất là 150 ml chế phẩm enzyme cho 7,5 ml dung
dịch cơ chất 0,2%. Ảnh hưởng của nồng độ các muối NaCl và (NH4)2SO4 lên hoạt
tính của bromelain cũng đã được xác định.
- Đã tạo được vật liệu hấp phụ kích thước nano từ chitin/chitosan bằng phương
pháp thủy phân enzyme để ứng dụng trong xử lý ô nhiễm môi trường.
4.2. Đề nghị
Cho tiến hành làm vật liệu hấp phụ thử nghiệm với một số chất gây ô nhiễm môi
trường như kim loại nặng, dư lượng các chất độc sau biogas.
Được tiếp tục triển khai nghiên cứu ở mức độ cao hơn để thử nghiệm khả năng
hấp phụ của sản phẩm trên một số đối tượng vật nuôi để xem khả năng miễn dịch của
chúng.
Tài liệu tham khảo
1. Nguyễn Thạc Hòa, Nguyễn Ngọc Lương, Bùi Huy Hiền và cs (2009). Kết quả đánh
giá khả năng sử dụng chế phẩm vi sinh vật trong xử lý nhanh phế thải rắn và nước
thải sau biogas tại cơ sở chăn nuôi lợn, gà quy mô tập trung. (Báo cáo nghiệm thu
đề tài trọng điểm cấp Bộ: Nghiên cứu chế phẩm vi sinh vật xử lý nhanh phế thải
chăn nuôi – 2010);
2. Vũ Công Phong (2009). Những đặc điểm của chitin, chitosan và dẫn xuất.
www.hoahocvietnam.com;
3. Trịnh Quang Tuyên, Nguyễn Quế Côi và cs (2009). Kết quả sử dụng dung dịch
anolit để giảm thiểu mùi hôi và cải thiện môi trường chuồng nuôi tại Trạm nghiên
cứu nuôi giữ giống lợn hạt nhân Tam Điệp. Báo cáo khoa học năm 2008 - Viện
Chăn nuôi 2009.
4. Allan G G, Peyron M (1995). Molecular weight manipulation of chitosan. I:
Kinetics of depolymerization by nitrous acid. Carbohydr. Res., Vol 277 No 2, pp.
257-272;
5. Alves M N, Mano J F (2008). Chitosan derivatives obtained by chemical
modification for bio medical and environmental applications. International Journal
of biological macromolecules. Vol 43, pp. 401-414;
6. Davila M G, Pena J P, Casiano J M (1991). Lindane adsorption-desorption on
chitin in seawater. Intern J Enviro Anal Chem. Vol 46, pp. 175-186;
7. Dutta P K, Dutta J and Tripathi V S (2004). Chitin and chitosan: chemistry,
properties and applications. Journal of scientific & industrial research. Vol. 63, pp.
20-31;
8. Kim S H, Song H, Nisola M G, Ahn J, Galera M M, Lee C H, ChungW J (2006).
Adsorption of lead(II) ions using surface-modified chitins. J. Ind. Eng. Chem.,
Vol 12 No3, pp. 469-475;
9. Kumar A B V, Varadaraj M C, Gowda L R, Tharanathan R N (2005).
Characterization of chito-oligosaccharides prepared by chitosanolysis with the aid
papain and pronase, and their bactericidal action against Baccillus cereus and
Escherichia coli. Biochem. J. Vol 391, pp. 167-175;
10. Lee L F, Lee W K, Maskat M Y, Illias R M, Aziz K, Kamarulzaman K, Osman H
(2005). Partial depolymerization of chitosan with the aid of bromelain. Pakistan
Journal of biological science. Vol 8 No1, pp. 73-77;
11. Lora M A, Brennan R A (2008). The use of crab shell chitin for biological
denitrification: Batch and culumn test. Bioresource technology. Vol 100, pp. 534541;
12. Muzzarelli R A A (1997). Some modified chitosans their niche applications. Chitin
hanbook. Edited by R A A Muzzarelli and M G Peter;
13. Muzzarelli R A A, Stanic V, Ramos V (1999). Enzymatic depolymerization of
chitins and chitosans. Carbohydrate biotechnology protocols. C. Bucke, Ed.
Humana Press;
14. Qin C, Du Y, Zong L, Zeng F, Liu Y, Zhou B (2003). Effect of hemicellulase in the
molecular weight and structure of chitosan. Polymer degradation and stability. Vol
80, pp. 435-441;
15. Ramirez M A, Rodriguez A T, Alfonso L, Peniche C (2010). Chitin and its
derivatives as biopolymer with potential agricultural applications. Biological
applications. Vol 27 No4, pp. 270-276;
16. Schmuhl R, Krieg H M and Kaizer K (2001). Adsorption of Cu(II) ions by
chitosan: Kinetics and equilibrium studies. ISSN 0378-4738=water SA Vol 27
No1, pp. 1-7;
17. Tsaih M L, Chen R H (2003). Effect of degree of deacetylation of chitosan on the
kinetics of ultrasonic degradation of chitosan. J. Appl. Polym. Sci. Vol 90, pp.
3526-3531;
18. Wu G J, Tsaih G J (2004). Cellulase degradation of shrimp chitosan for the
preparation of a water-solube hydrolysate with immunoactivity. Fisheries Science.
Vol 76 No 6, pp. 1113-1120;
19. Yalpani M, Pantaleone D (1994). An examination of the unusual susceptibilities
of aminoglycan to enzymatic hydrolysis. Carbohydr. Res. Vol 256, pp. 159-175;
20. Zielinska K, Alexandre G. C, Stanislaw T (2010). Adsorption of cadimium ions on
chitosan membranes kinetics and equilibrium studies. Progress on chemistry and
application of chitin and its. Vol 15, pp. 73-78.
- Xem thêm -