Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Đảng với hoạt động đối ngoại của Chính phủ cách mạng lâm thời cộng hòa Miền nam ...

Tài liệu Đảng với hoạt động đối ngoại của Chính phủ cách mạng lâm thời cộng hòa Miền nam Việt Nam ( 1969 - 1975)

.PDF
177
540
145

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN NGUYỄN THỊ LAN ANH ĐẢNG VỚI HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI CỦA CHÍNH PHỦ CÁCH MẠNG LÂM THỜI CỘNG HÒA MIỀN NAM VIỆT NAM (1969 – 1975) LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ Hà Nội - 2011 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN NGUYỄN THỊ LAN ANH ĐẢNG VỚI HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI CỦA CHÍNH PHỦ CÁCH MẠNG LÂM THỜI CỘNG HÒA MIỀN NAM VIỆT NAM (1969 – 1975) Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam Mã số: 60 22 56 Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN THỊ MAI HOA Hà Nội - 2011 2 MỤC LỤC Trang 4 MỞ ĐẦU Chương 1: ĐẢNG LÃNH ĐẠO HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI CỦA CHÍNH PHỦ CÁCH MẠNG LÂM THỜI CỘNG HÒA MIỀN NAM VIỆT NAM TỪ NĂM 1969 ĐẾN NĂM 1972 12 1.1. Sự ra đời của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền 12 Nam Việt Nam 1.1.1. Yêu cầu lịch sử đối với việc thành lập Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam 12 1.1.2. Sự ra đời của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam 22 1.2. Đảng lãnh đạo hoạt động đối ngoại của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam 1.2.1. Lãnh đạo tranh thủ sự công nhận quốc tế 28 28 1.2.2. Lãnh đạo phối hợp hoạt động và phát huy ưu thế ngoại giao “tuy hai mà một, tuy một mà hai” trên bàn đàm phán Hội nghị Paris 31 1.2.3. Lãnh đạo đấu tranh cáo tội ác đế quốc Mỹ, tranh thủ dư luận thế giới bên ngoài bàn đàm phán Hội nghị Paris 56 Chương 2: ĐẢNG LÃNH ĐẠO HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI CỦA CHÍNH PHỦ CÁCH MẠNG LÂM THỜI CỘNG HÒA MIỀN NAM VIỆT NAM TỪ NĂM 1973 ĐẾN NĂM 1975 64 2.1. Bối cảnh lịch sử sau khi ký kết Hiệp định Paris và chủ trương của Đảng 2.1.1. Những diễn biến mới trên trường quốc tế và trong nước 64 2.1.2. Chủ trương của Đảng 69 2.2. Đảng chỉ đạo hoạt động đối ngoại của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam 73 2.2.1. Chỉ đạo hoạt động đấu tranh thi hành Hiệp định Paris 73 2.2.2. Chỉ đạo đẩy mạnh hoạt động tranh thủ sự ủng hộ quốc tế 99 Chương 3: NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM 110 110 3.1. Một số nhận xét cơ bản 3 3.1.1. Chủ trương phối hợp hoạt động và phát huy ưu thế ngoại giao hai miền là một sáng tạo độc đáo của Đảng 110 3.1.2. Chủ trương đối với hoạt động đối ngoại của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam được Đảng hoạch định trên cơ sở phân tích đặc điểm tình hình và nhiệm vụ cách mạng của giai đoạn 1969 – 1975 114 3.1.3. Đảng đã chỉ đạo Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam triển khai các mũi tiến công ngoại giao khác nhau, nhằm tạo hiệu quả ngoại giao cao nhất 118 3.1.4. Sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động đối ngoại của Chính phủ Cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam giai đoạn 1973 – 1975 vừa có sự thống nhất căn bản, vừa có bước phát triển nhất định so với giai đoạn 1969 – 1972 123 3.1.5. Quá trình Đảng lãnh đạo hoạt động đối ngoại của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam vẫn còn một số hạn chế, tồn tại 125 3.2. Những kinh nghiệm chủ yếu 132 3.2.1. Nắm vững tình hình, nhiệm vụ cách mạng cả nước, cũng như của miền Nam, để xác định chủ trương đối ngoại thích hợp 132 3.2.2. Kiên trì các nguyên tắc đối ngoại, song có sách lược, biện pháp linh hoạt, mềm dẻo trong chỉ đạo thực hiện 134 3.2.3. Kết hợp linh hoạt các mũi tấn công ngoại giao; đồng thời, kết hợp các phương thức, cách thức ngoại giao khác nhau 140 KẾT LUẬN 146 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 149 PHỤ LỤC 161 4 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BBT: Ban Bí thư BCT: Bộ Chính trị BCHTƯ: Ban Chấp hành Trung ương BLHQS: Ban Liên hợp quân sự CHDC: Cộng hòa dân chủ CHND: Cộng hòa nhân dân CHMNVN: Cộng hòa miền Nam Việt Nam CNĐQ: Chủ nghĩa đế quốc CNTB: Chủ nghĩa tư bản CNTD: Chủ nghĩa thực dân CNXH: Chủ nghĩa xã hội CPCMLT: Chính phủ Cách mạng lâm thời DCCH: Dân chủ cộng hòa ĐCS: Đảng Cộng sản ĐCSVN: Đảng Cộng sản Việt Nam MTDTGP: Mặt trận dân tộc giải phóng TBT: Tổng Bí thư USD: Đô la Mỹ VNDCCH: Việt Nam Dân chủ cộng hòa 5 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước thần thánh của dân tộc Việt Nam là một bản trường ca bất hủ về tinh thần đấu tranh, lòng yêu nước và khát khao độc lập, tự do. Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước không tách rời đường lối đúng đắn của Đảng – đó là đường lối phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, kết hợp và phát huy sức mạnh tổng hợp của các mặt trận quân sự, chính trị, văn hóa, ngoại giao… làm nên sức mạnh nội lực, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, đánh bại ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ - một đế quốc hùng mạnh, trong gần 200 năm lập quốc chưa từng nếm mùi thất bại. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, ngoại giao trở thành một trong những mặt trận quan trọng, ở đó, Đảng đã lãnh đạo kết hợp sức mạnh ngoại giao hai miền, lãnh đạo hoạt động đối ngoại của CPCMLTCHMNVN một cách hiệu quả từ khi Chính phủ ra đời (1969) đến khi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước thắng lợi (1975), góp phần vào thắng lợi chung của ngoại giao cả nước trong sự nghiệp giành độc lập, tự do và thống nhất Tổ quốc. Hiện nay, đất nước đang bước vào giai đoạn phát triển mới - đưa công cuộc đổi mới đi vào chiều sâu, đẩy mạnh hội nhập quốc tế, thì việc “ôn cố tri tân”, nhìn lại, đánh giá một cách thấu đáo những thành tựu, hạn chế của ngoại giao cả nước những năm tháng hào hùng chống Mỹ nói chung, của CPCMLTCHMNVN nói riêng dưới sự lãnh đạo của ĐCSVN, rút ra những kinh nghiệm cho hiện tại là một việc làm cần thiết, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn. Với những lý do đó, chúng tôi chọn chủ đề “Đảng với hoạt động đối ngoại của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam (1969 -1975)” làm đề tài luận văn thạc sĩ lịch sử, chuyên ngành lịch sử ĐCSVN. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 6 Về mảng đề tài này, lâu nay đã có một số sách, bài viết được công bố với nhiều góc độ và phạm vi nghiên cứu. Có thể chia thành những nhóm tư liệu như sau: Các công trình của các nhà nghiên cứu trong nước - Các công trình chuyên khảo, tham khảo Ngoại giao Việt Nam 1945 – 2000 [8]; Ngoại giao Việt Nam hiện đại vì sự nghiệp giành độc lập, tự do (1945 - 1975) [76]; 50 năm ngoại giao Việt Nam, tập 1, 2 [79]; Mặt trận ngoại giao thời kỳ chống Mỹ cứu nước 1965 - 1975 [118]; Ngoại giao Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh [85]; Các cuộc thương lượng Lê Đức Thọ và Kissinger tại Paris [80]; Quá trình Đảng lãnh đạo đấu tranh ngoại giao tại Hội nghị Paris về Việt Nam (1968 – 1973) [90]… Đây là nhóm công trình khá phong phú, trong đó có rất nhiều công trình nghiên cứu của các nhà ngoại giao kỳ cựu – những người từng tham gia đấu tranh trên mặt trận ngoại giao thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Nhìn chung, các công trình này tập trung trình bày chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nước Việt Nam và các quan hệ ngoại giao của Việt Nam từ năm 1945 trở đi. Các công trình đã phân tích một cách khái quát đường lối đối ngoại của Đảng, các sự kiện ngoại giao chủ yếu diễn ra từ sau khi nước ta giành độc lập và trong mạch chảy chung ấy, đã đề cập đến hoạt động ngoại giao của CPCMLTCHMNVN. Trong một số công trình, các tác giả cũng đã khái quát quá trình Đảng lãnh đạo phối hợp hoạt động ngoại giao hai miền, hình thành nên nền ngoại giao độc đáo “tuy hai mà một” chưa từng có trong lịch sử. Trong nhóm các công trình này, hai công trình nghiên cứu: “Các cuộc thương lượng Lê Đức Thọ và Kissinger tại Paris” (tác giả Lưu Văn Lợi, Lê Anh Vũ); “Quá trình Đảng lãnh đạo đấu tranh ngoại giao tại Hội nghị Paris về Việt Nam (1968 – 1973)” (tác giả Lương Viết Sang) đã cung cấp những tư liệu phong phú, phản ánh khá rõ nét những hoạt động ngoại giao của CPCMLTCHMNVN. - Các công trình mang tính chất hồi ức, hồi ký 7 Mặt trận dân tộc giải phóng, Chính phủ cách mạng lâm thời tại Hội nghị Paris về Việt Nam (Hồi ức) [9]; Chung một bóng cờ [47]; Trại Davis Sài Gòn - mùa xuân 1973 [52]; Từ Geneva đến Paris [11]… Các tác phẩm này là hồi ký của những người trực tiếp tham gia vào tiến trình của Hiệp định Paris và quá trình thi hành Hiệp định nên rất sống động; nguồn thông tin phong phú, chi tiết. Qua các công trình này, có thể hình dung một cách khá toàn diện, rõ nét diễn biến của quá trình đấu tranh ngoại giao. Tuy nhiên, do mang tính chất hồi ký, nên một số sự kiện chưa hoàn toàn chính xác, cần có sự xác minh, đối chiếu cẩn trọng khi sử dụng. - Các công trình mang tính chất biên niên Biên niên lịch sử Chính phủ 1945 – 2005 [5]; Việt Nam những sự kiện lịch sử 1945 – 1975, tập II, 1965 – 1975 [121]; Lịch sử biên niên xứ ủy Nam Bộ và Trung ương Cục miền Nam (1954 - 1975) [84]… Các cuốn sách này đã tập hợp theo thứ tự thời gian các sự kiện quan trọng trong lịch sử Việt Nam sau khi có chính quyền. Vì là các công trình biên niên, nên không có các bình luận, đánh giá sự kiện, song, sự tập hợp đầy đủ các sự kiện lịch sử nói chung, ngoại giao nói riêng của các công trình này đã có đóng góp đáng kể cho các nghiên cứu lịch sử và lịch sử ngoại giao. Các công trình này là tư liệu tra cứu hiệu quả cho tác giả luận văn trong quá trình nghiên cứu.  Các bài báo, tạp chí Qua khảo sát các tạp chí tiêu biểu (Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, Tạp chí Nghiên cứu quốc tế, Tạp chí Lịch sử Đảng, Tạp chí Cộng sản, Tạp chí Lịch sử quân sự), theo con số thống kê chưa đầy đủ của tác giả, từ năm 1969 đến năm 2010, có khoảng 40 bài viết có nội dung liên quan tới các hoạt động của CPCMLTCHMNVN. Có thể liệt kê một số bài viết đáng chú ý sau: Sự chỉ đạo của Đảng trong đấu tranh thi hành Hiệp định Paris và giải phóng hoàn toàn miền Nam (1973 - 1975) [54], Phát huy nhân tố quốc tế trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam [55], Đàm phán và Hiệp định Paris [67], Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam với mặt trận ngoại giao và cuộc đàm phán Paris [69], 8 Mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam giai đoạn đàm phán Hiệp định Paris [96], Một số vấn đề về Hiệp định Paris [124]… Khảo cứu kỹ nội dung các bài viết, có thể nhận thấy rằng, về phạm vi thời gian, các bài viết này tập trung chủ yếu vào giai đoạn đấu tranh ký Hiệp định Paris (1965 - 1973); đồng thời, đi sâu tổng kết nguyên nhân thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, đánh giá thành tựu của đấu tranh ngoại giao. Hoạt động đối ngoại của CPCMLTCHMNVN dưới sự lãnh đạo của Đảng đã được đề cập đến, nhưng ở mức độ tổng quát. Tuy nhiên, các bài viết này với những góc độ tiếp cận khác nhau đã cung cấp cho tác giả luận văn những nhận thức bổ ích xung quanh vấn đề nghiên cứu. Các công trình của các nhà nghiên cứu nước ngoài Giải phẫu một cuộc chiến tranh, tập II (1969 - 1975) [26]; Nền hòa bình mong manh – Washington, Hà Nội và tiến trình của Hiệp định Paris [2], “The real war” [125]; “Việt Nam, The Ten Thousand Day War” [126]; “Cuộc chiến tranh xâm lược thực dân mới của Mỹ ở Việt Nam” [16]; "Những bí mật của cuộc chiến tranh Việt Nam" [45]; “Cuộc chiến tranh dài ngày nhất nước Mỹ” [51]; … Đây là công trình nghiên cứu nước ngoài hoặc bằng tiếng Anh, hoặc đã đã được dịch ra tiếng Việt. Điều đáng lưu ý là đa phần các công trình nghiên cứu này là của những nhà nghiên cứu người Mỹ. Qua các công trình này, có thể nhận thấy cái nhìn từ phía người Mỹ về cuộc chiến tranh Việt Nam và quá trình đàm phán Hiệp định Paris. Với cách tiếp cận khá độc đáo và nguồn tư liệu rất phong phú do các tác giả có điều kiện khai thác những nguồn tư liệu đa chiều, cả đã giải mật và chưa giải mật, nên các công trình này đã cung cấp thêm một số chi tiết, sự kiện, số liệu về quá trình kết hợp đấu tranh ngoại giao của ngoại giao hai miền Nam, Bắc Việt Nam trên bàn đàm phán Paris; về những thành công của ngoại giao Việt Nam giai đoạn này dưới góc nhìn của học giả nước ngoài. Tóm lại, qua thu thập, phân tích nguồn tư liệu liên quan đến hoạt động đối ngoại của CPCMLTCHMNVN dưới sự lãnh đạo của Đảng những năm 1969 – 1975, có thể đưa ra những kết luận sau: 9 Thứ nhất, các công trình của các nhà nghiên cứu Việt Nam khá phong phú. Tác giả của các công trình chủ yếu là những nhà ngoại giao kỳ cựu, không ít trong số họ là thành viên của các đoàn ngoại giao, đoàn Liên hợp quân sự, nên các tác giả đã phân tích cặn kẽ bối cảnh, quá trình đấu tranh cam go của ngoại giao hai miền; từ đó, khẳng định vai trò quan trọng của đấu tranh ngoại giao trong sự nghiệp cách mạng chung, làm rõ vai trò lãnh đạo của ĐCSVN. Trong khi đó, các công trình của các nhà nghiên cứu nước ngoài tập trung lý giải nguyên nhân thất bại của đế quốc Mỹ trong chiến tranh Việt Nam, tuy nhiên, trong một số công trình, một số nhận xét, đánh giá còn chưa thực sự khách quan. Một cách tổng quát, thành quả của những công trình nghiên cứu nêu trên, ở những mức độ khác nhau đã soi rọi và là cơ sở để tác giả luận văn có điều kiện đi sâu nghiên cứu về hoạt động đối ngoại của CPCMLTCHMNVN dưới sự lãnh đạo của Đảng. Thứ hai, trong những công trình nghiên cứu trên, chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện, hệ thống về hoạt động đối ngoại của CPCMLTCHMNVN dưới sự lãnh đạo của ĐCSVN như đề tài luận văn mà chúng tôi đã lựa chọn. Thứ ba, quá trình Đảng lãnh đạo hoạt động đối ngoại của CPCMLTCHMNVN những năm 1969 – 1975 cần phải tiếp tục nghiên cứu một cách toàn diện, hệ thống, dựa trên việc khai thác thêm những tư liệu mới, khỏa lấp những khoảng trống nghiên cứu vẫn còn tồn tại như làm rõ những chủ trương, quan điểm của Đảng đối với hoạt động đối ngoại của CPCMLTCHMNVN; chỉ ra vai trò, sự đóng góp to lớn, quan trọng hoạt động đối ngoại của CPCMLTCHMNVN đối với sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước; làm rõ những tồn tại, hạn chế, đúc rút những kinh nghiệm lịch sử quan trọng từ quá trình Đảng lãnh đạo hoạt động đối ngoại của CPCMLTCHMNVN… Đó đồng thời cũng là mục tiêu, nhiệm vụ mà luận văn cố gắng hoàn thành. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu 10 Làm rõ chủ trương, đường lối và sự chỉ đạo của Đảng đối với hoạt động đối ngoại của CPCMLTCHMNVN từ năm 1969 đến năm 1975; trên cơ sở đó, rút ra những kinh nghiệm chủ yếu phục vụ hiện tại. Nhiệm vụ nghiên cứu - Đi sâu phân tích, làm rõ chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng đối với hoạt động đối ngoại của CPCMLTCHMNVN qua hai giai đoạn: 1969 – 1972; 1973 – 1975. - Hệ thống hóa, khái quát hóa những tư liệu đã có, bổ sung thêm những tư liệu mới, khôi phục một cách khách quan các hoạt động đối ngoại chủ yếu của CPCMLTCHMNVN dưới sự lãnh đạo của Đảng qua hai giai đoạn: 1969 – 1972; 1973 – 1975. - Nêu lên những thành tựu, hạn chế và đúc rút những kinh nghiệm lịch sử từ quá trình Đảng lãnh đạo hoạt động đối ngoại của những năm 1969 – 1975. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu Sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động đối ngoại của CPCMLTCHMNVN từ năm 1969 đến năm 1975. Phạm vi nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu những đường lối, chủ trương cơ bản của Đảng trong quá trình chỉ đạo CPCMLTCHMNVN tiến hành các hoạt động đối ngoại và những sự kiện chính, quan trọng, những mốc lớn trong hoạt động đối ngoại của CPCMLTCHMNVN trong phạm vi thời gian từ năm 1969 (thời điểm CPCMLTCHMNVN ra đời) đến năm 1975 (đất nước hoàn toàn giải phóng, hai cơ quan ngoại giao hai miền Nam, Bắc hợp nhất). 5. Phương pháp nghiên cứu Để hoàn thành mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu, dựa trên cơ sở lý luận chung của chủ nghĩa Mác- Lênin, ngoài việc sử dụng rộng rãi các phương pháp phổ quát của khoa học lịch sử như lịch sử, logic, logic – lịch 11 sử, luận văn còn sử dụng các phương pháp cơ bản khác của khoa học lịch sử như phân tích, tổng hợp, đối chiếu, thống kê, so sánh, để xử lý các sự kiện, con số, với mục đích dựng lại quá trình Đảng hoạch định chủ trương và chỉ đạo hoạt động ngoại giao của CPCMLTCHMNVN. Luận văn cũng đi sâu làm rõ những sự kiện chủ yếu, quan trọng, phản ánh đặc điểm, sự phát triển trong quá trình hoạt động ngoại giao của CPCMLTCHMNVN dưới sự lãnh đạo của Đảng, làm rõ những thành tựu, hạn chế của quá trình Đảng lãnh đạo hoạt động ngoại giao của CPCMLTCHMNVN bằng các phương pháp lịch sử, logic, nghiên cứu quốc tế, phân tích, đối chiếu, thống kê... Để luận giải và rút ra những kinh nghiệm chủ yếu có giá trị lý luận và thực tiễn phục vụ hiện tại, luận văn sử dụng chủ yếu phương pháp logic - lịch sử, so sánh và hệ thống hóa. 6. Đóng góp của luận văn - Trình bày một cách khách quan, tương đối toàn diện, có hệ thống và làm sáng tỏ các quan điểm, chủ trương, cũng như sự chỉ đạo của Đảng đối với các hoạt động đối ngoại của CPCMLTCHMNVN những năm 1969 1975; trên cơ sở đó, rút ra một số kinh nghiệm chủ yếu phục vụ hiện tại. - Đề tài có thể sử dụng làm tài liệu nghiên cứu về quan hệ quốc tế, về đối ngoại của Đảng và Nhà nước VNDCCH và của CPCMLTCHMNVN; đồng thời, phục vụ công tác giảng dạy lịch sử và những môn học có liên quan. - Nguồn tài liệu tham khảo mà luận văn sưu tầm, khai thác và giới thiệu là nguồn tư liệu có giá trị, có thể sử dụng phục vụ việc nghiên cứu về ngoại giao, về quan điểm, đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam. 7. Bố cục luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Phụ lục, luận văn được kết cấu thành 3 chương, 6 tiết: Chương 1. Đảng lãnh đạo hoạt động đối ngoại của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam từ năm 1969 đến năm 1972 12 Trong chương 1, luận văn tập trung làm rõ những yêu cầu lịch sử đối với việc thành lập CPCMLTCHMNVN trong giai đoạn lịch sử mới; đồng thời đi sâu phân tích những hoạt động đấu tranh ngoại giao của CPCMLTCHMNVN dưới sự lãnh đạo của ĐCSVN trên ba nội dung chính: 1). Tranh thủ sự công nhận quốc tế; 2). Đấu tranh trên bàn đàm phán Hội nghị Paris; 3). Đấu tranh tố cáo tội ác của đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn bên ngoài bàn đàm phán. Chương 2. Đảng lãnh đạo hoạt động đối ngoại của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam từ năm 1973 đến năm 1975 Chương 2 tập trung phân tích hoạt động đối ngoại của CPCMLTCHMNVN dưới sự lãnh đạo của ĐCSVN sau khi Hiệp định Paris được ký kết đến khi đất nước thống nhất. Đó là hoạt động đối ngoại tích cực tranh thủ mọi sự ủng hộ quốc tế và buộc địch phải nghiêm chỉnh thi hành Hiệp định Paris. Những hoạt động đối ngoại ấy đã tận dụng mọi cơ hội thuận lợi, đẩy mạnh cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước nhanh chóng đi tới thắng lợi. Chương 3. Nhận xét và kinh nghiệm Trên cơ sở những nội dung nghiên cứu đã giải quyết ở chương 1 và 2, tại chương 3, luận văn đưa ra những nhận xét về quá trình hoạch định chủ trương, đường lối và chỉ đạo thực hiện của ĐCSVN đối với hoạt động đối ngoại của CPCMLTCHMNVN. Trong quá trình đó, bên cạnh những thành tựu nổi bật, vẫn còn tồn tại những hạn chế nhất định. Những nhận xét đó là cơ sở để luận văn đúc rút một số kinh nghiệm chủ yếu vận dụng vào thời kỳ hiện tại. 13 Chương 1 ĐẢNG LÃNH ĐẠO HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI CỦA CHÍNH PHỦ CÁCH MẠNG LÂM THỜI CỘNG HÒA MIỀN NAM VIỆT NAM TỪ NĂM 1969 ĐẾN NĂM 1972 1.1. SỰ RA ĐỜI CỦA CHÍNH PHỦ CÁCH MẠNG LÂM THỜI CỘNG HÒA MIỀN NAM VIỆT NAM 1.1.1. Yêu cầu lịch sử đối với việc thành lập Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam Từ giữa những năm 60 (XX), các nước XHCN đã đạt được nhiều thành tựu trong xây dựng kinh tế, phát triển khoa học – kỹ thuật và tăng cường khả năng quốc phòng. Tính đến năm 1967, hệ thống các nước XHCN đã chiếm hơn 1/3 sản lượng công nghiệp thế giới [31, tr. 188-189]. Tốc độ phát triển của các nước XHCN thuộc Hội đồng Tương trợ kinh tế (SEV) tăng trung bình cao hơn so với các nước TBCN trong Tổ chức các nước kinh tế phát triển. Điều đó đã giúp cho các nước XHCN đương đầu với sự bao vây, phá hoại về kinh tế của CNĐQ và là cơ sở để giúp đỡ các nước mới giành độc lập bảo vệ những thành quả cách mạng của mình. Cho đến thời điểm cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam bước vào giai đoạn ác liệt, thì phe XHCN đã hình thành và “trở thành nhân tố quyết định sự phát triển của xã hội loài người” [36, tr. 94]. Điều đó có tác dụng cân bằng tương quan so sánh lực lượng có lợi cho cách mạng, ngăn đe CNĐQ và là chỗ dựa cho phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ 1954, phong trào giải phóng dân tộc ở các nước Á, Phi, Mỹ Latinh phát triển mạnh mẽ. Phần lớn các nước bị CNTD thống trị lần lượt được giải phóng, trở thành những nước độc lập ở những mức độ khác nhau. Hệ thống thuộc địa của CNĐQ ngày càng bị thu hẹp. Đầu những năm 50 (XX), các nước mới giành độc lập tập hợp nhau trong Phong trào không liên kết. Đến năm 1970, Phong trào đã có 54 thành 14 viên, trở thành một lực lượng chính trị mới trên vũ đài quốc tế. Từ Hội nghị cấp cao lần thứ 3 ở Luxaca (tháng 9 – 1970), xu hướng chống đế quốc của Phong trào ngày càng trở nên mạnh mẽ, trong đó có việc cổ vũ cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam. Mặc dù có những thành tích trong xây dựng và phát triển kinh tế, khoa học – kỹ thuật và quốc phòng, nhưng những khuyết tật của các nước XHCN cũng đã sớm bộc lộ. Đến cuối những năm 60 (XX), trong phe XHCN xuất hiện những vụ rối loạn chính trị nghiêm trọng tại một số nước và những bất đồng trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế cũng ngày càng trở nên phức tạp. Đặc biệt, sự bất đồng giữa Liên Xô – Trung Quốc – hai nước XHCN lớn, những nước viện trợ chủ yếu trên các phương diện khác nhau cho Việt Nam, là một yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến sức mạnh của Mặt trận nhân dân thế giới đoàn kết ủng hộ Việt Nam chống Mỹ. Dù có những khó khăn, bất đồng nhất định, song, các nước XHCN vẫn luôn sát cánh và ủng hộ mạnh mẽ cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam, nhất là đối với chủ trương vừa đánh, vừa đàm của chúng ta. Các nước XHCN nói chung vẫn tăng cường ủng hộ về chính trị và vật chất cho chúng ta. Hai nước XHCN lớn là Liên Xô, Trung Quốc dù mâu thuẫn ngày càng sâu sắc, song không ngừng giúp đỡ, ủng hộ Việt Nam. Liên Xô tuyên bố ủng hộ Chính phủ VNDCCH, ủng hộ Chính sách 10 điểm của MTDTGP, coi đó là “những đề nghị chính đáng và hợp lý” và “kiên quyết ủng hộ những đề nghị đó” [12, tr. 217]. Dù không tán thành việc chúng ta đàm phán với Mỹ, nhưng Trung Quốc vẫn tiếp tục ủng hộ cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân ta, sau này, đến giữa những năm 60 (XX), chuyển dần sang ủng hộ chủ trương vừa đánh, vừa đàm của Việt Nam. Bên cạnh đó, nội bộ phe ĐQCN cũng có sự biến đổi lớn trong lực lượng so sánh giữa đế quốc Mỹ và các đế quốc khác. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Mỹ trở thành đế quốc giàu có nhất, chiếm ưu thế tuyệt đối về mọi mặt trong thế giới tư bản, tuy nhiên, khi Mỹ tham gia vào Chiến tranh Triều Tiên và sau đó sa lầy trong chiến tranh Việt Nam thì các nước tư bản khác đã tranh thủ cơ hội vươn lên xây dựng kinh 15 tế, thoát khỏi tình trạng lệ thuộc vào Mỹ, thậm chí nhiều nước trở thành những địch thủ nguy hiểm của Mỹ trên mặt trận kinh tế (Pháp, Anh, Nhật Bản), mà sự ly tâm đầu tiên trong thế giới tư bản chính là thuộc về nước Pháp. Pháp đã thể hiện sự độc lập trong quan hệ của mình mà không bận tâm đến thái độ của Mỹ bằng việc công nhận CHND Trung Hoa (năm 1964), sau đó cắt đứt quan hệ ngoại giao với Đài Loan do Mỹ ủng hộ, quyết định rút quân ra khỏi các lực lượng quân sự nhất thể hóa trong NATO, không chấp nhận trụ sở NATO đóng trên đất Pháp, đòi Mỹ chấm dứt chiến tranh xâm lược ở Việt Nam, củng cố quan hệ với Liên Xô và các nước XHCN khác. Với những hành động đó, Pháp được coi là “kẻ ương ngạnh” trong liên minh quân sự do Mỹ đứng đầu. Tương tự Pháp, từ năm 1965, CHLB Đức đã đẩy mạnh quan hệ với các nước XHCN. Tháng 8 – 1970, Hiệp ước Liên Xô – CHLB Đức được ký kết, khẳng định chính sách hòa bình, thừa nhận các đường biên giới hiện tại ở châu Âu và không dùng quân sự làm thay đổi tình hình châu Âu. Như vậy, Mỹ đã không còn khống chế được hai nước Tây Âu lớn là Pháp và Đức như trước nữa. Nhật Bản đã lợi dụng được chiếc ô an ninh của Mỹ sau Chiến tranh thế giới thứ hai và sự giúp đỡ ban đầu của viện trợ tái thiết từ Mỹ để phát triển kinh tế. Đến đầu những năm 70 (XX), Nhật Bản được xếp vào các quốc gia đứng đầu về trình độ phát triển khoa học – kỹ thuật, đặc biệt trong các ngành công nghiệp dân dụng, được dư luận phương Tây suy tôn là “thần kì Nhật Bản”. Trên cơ sở những thành tựu kinh tế, bằng hành động đấu tranh đòi chủ quyền về quần đảo Okinawa mà Mỹ chiếm từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Nhật Bản đã tách dần ra khỏi ảnh hưởng của Mỹ. Ở các nước Tây Âu, CNTB lũng đoạn nhà nước không chỉ dừng lại trong phạm vi quốc gia mà còn mở rộng ra phạm vi quốc tế, biểu hiện là sự ra đời của Khối thị trường chung châu Âu (EEC, tháng 3 – 1957). Sự ra đời của cộng đồng kinh tế này cho phép các nước Tây Âu thực hiện hiệu quả cuộc cạnh tranh về kinh tế, tài chính và thương mại với những nước ngoài khối, đặc biệt đối với Mỹ và Nhật Bản. 16 Như vậy, sau Chiến tranh thế giới thứ hai, trong thế giới tư bản dần dần hình thành ba trung tâm kinh tế là Mỹ, Tây Âu và Nhật Bản. Trong thế chân kiềng này, thế lực kinh tế của Mỹ ngày càng suy giảm so với sự phát triển của Tây Âu và Nhật Bản. Điều đó đã thúc đẩy khuynh hướng các nước Tây Âu và Nhật Bản tách khỏi sự khống chế của Mỹ về kinh tế và sau đó là về chính trị. Cùng với sự gia tăng các mâu thuẫn giữa Mỹ và các nước đế quốc khác, các khối quân sự, liên minh quân sự như Tổ chức hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO), Hiệp định an ninh Mỹ - Nhật, khối ANZUS, SEATO, CENTO cũng đã bộc lộ các bất đồng. Mâu thuẫn trong khối NATO xuất hiện ngay khi thành lập với việc Anh – Mỹ tranh nhau quyền lãnh đạo và ảnh hưởng ngày càng trở nên phức tạp hơn khi Pháp và Tây Đức cũng đấu tranh đòi Mỹ chia sẻ quyền lực; các đồng minh khác cũng đòi độc lập hơn với Mỹ. Bên cạnh đó, các cuộc khủng hoảng tiền tệ trong thế giới tư bản và các cuộc “chiến tranh kinh tế” ngày một gay gắt. Sau thất bại quân sự năm 1968 và trước xu thế Mỹ phải xuống thang chiến tranh ở Việt Nam, quan hệ giữa Mỹ và các nước chư hầu có quân tham chiến ở Việt Nam cũng bớt gắn bó. Tại các nước tư bản, cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động vì các quyền dân sinh, dân chủ và hòa bình cũng phát triển với quy mô rộng lớn. Tình hình suy thoái kinh tế, lạm phát và thất nghiệp đã đẩy quần chúng lao động vào cảnh nghèo khổ, làm nảy sinh các cuộc bãi công đòi dân sinh, dân chủ. Khi đế quốc Mỹ đưa quân vào Việt Nam và thất bại buộc phải xuống thang chiến tranh, thì một nội dung nổi bật của phong trào đấu tranh tại các nước tư bản là chống chiến tranh Việt Nam. Nội dung này đã thu hút được sự quan tâm của đông đảo các tầng lớp nhân dân như Đảng nhận định: “Ngay những vấn đề thiết thân đối với nhân dân các nước tư bản cũng không tập hợp được quần chúng đông đảo như vấn đề Việt Nam” [36, tr. 84]. Trong nội bộ nước Mỹ, những mâu thuẫn cũng ngày một phát triển sâu sắc sau những thất bại của Mỹ trên chiến trường Đông Dương. Những 17 khó khăn chưa có chính sách giải quyết trong vấn đề tài chính do các cuộc khủng hoảng kinh tế 1960 – 1961, 1964 – 1965, 1969 – 1970, trong vấn đề người da đen, da đỏ - hậu quả của nạn phân biệt chủng tộc, vấn đề đô thị, tình trạng thất nghiệp, lạm phát trầm trọng, khiến niềm tin của nhân dân vào chính quyền bị suy giảm. Đặc biệt, phong trào phản chiến ở Mỹ dâng lên mạnh mẽ và có bước phát triển về chất so với các giai đoạn trước. Ý thức chống chiến tranh Việt Nam đã thâm nhập sâu hơn trong các tầng lớp nhân dân, trong xã hội Mỹ, khiến vấn đề Việt Nam trở thành một trong những vấn đề mấu chốt gây mất ổn định của nước Mỹ. Nhiều cuộc bãi công, biểu tình của quần chúng nhân dân, binh lính Mỹ xuất ngũ, những hành động tự thiêu phản đối chiến tranh Việt Nam … nổ ra liên tiếp, một mặt, làm rung chuyển bộ máy chính quyền, đẩy chính quyền Mỹ lún sâu thêm vào cuộc khủng hoảng; mặt khác, trở thành yếu tố thuận lợi cho Việt Nam xây dựng Mặt trận nhân dân thế giới, tạp nên sức mạnh quan trọng tiến công đế quốc Mỹ trên mặt trận ngoại giao. Tổng thống Nixon càng cố rút bớt quân đội Mỹ ở chiến trường, thì phong trào phản chiến càng phát triển, lan rộng trong xã hội Mỹ, thậm chí trong cả giới cầm quyền và cơ quan lập pháp. Những rạn nứt trên buộc nhà cầm quyền Mỹ phải có những sự điều chỉnh chiến lược, thậm chí phải sử dụng tới cả những trò lừa bịp hòng đạt được mục tiêu cuối cùng. Những mâu thuẫn trong nội bộ phe ĐQCN và nội bộ nước Mỹ đã làm giảm đáng kể uy thế của Mỹ trên trường quốc tế. Tình hình đó tạo ra khả năng thuận lợi cho Đảng ta lợi dụng mâu thuẫn trong nội bộ các nước đế quốc, lập Mặt trận nhân dân thế giới chống Mỹ xâm lược Việt Nam. Trong khi tình hình thế giới có nhiều biến động, thì cách mạng Việt Nam cũng có những bước phát triển vượt bậc trên cả ba mặt trận: Chính trị, quân sự, ngoại giao. Những thắng lợi của quân và dân cả nước, đặc biệt là quân và dân miền Nam trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 đã làm cho “ý chí xâm lược của Mỹ bị lung lay rõ rệt” [36, tr. 118]. Thất bại nặng nề đó càng đẩy đế quốc Mỹ vào tình thế phòng ngự, bị động, song vẫn ngoan cố tìm mọi cách kéo dài chiến tranh xâm lược ở miền Nam nước ta. 18 Thực hiện âm mưu đó, đầu năm 1969, Tổng thống R. Nixon lên cầm quyền đã điều chỉnh chiến lược toàn cầu phản cách mạng, đề ra “học thuyết Nixon” với mục tiêu giảm bớt các “cam kết quốc tế” của Mỹ, đòi hỏi các nước đồng minh phải “chia sẻ trách nhiệm” với Mỹ để chống lại phong trào cách mạng thế giới, ổn định tình hình nội bộ, duy trì lực lượng quốc phòng, giữ thế cân bằng và răn đe, khai thác, lợi dụng mâu thuẫn các nước XHCN, chia rẽ, lôi kéo các nước lớn, mua chuộc, uy hiếp các nước nhỏ. Ở Việt Nam, Tổng thống R. Nixon buộc phải xuống thang chiến tranh, thực hiện “phi Mỹ hóa chiến tranh” - thực chất là thực hiện chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” ở miền Nam, mở rộng chiến tranh sang Campuchia, tiến đánh lực lượng giải phóng quân ở Lào, thực hiện âm mưu “Đông Dương hóa chiến tranh”, “dùng người châu Á đánh người châu Á”, biến Đông Dương thành một chiến trường. Kế hoạch của Mỹ là thực hiện chiến lược chiến tranh tổng lực, đầu tư mạnh, hy vọng vực dậy quân đội Sài Gòn có đủ sức đảm nhiệm dần các công việc trước khi lính Mỹ và quân chư hầu “rút lui trong danh dự” nhờ vào cố gắng đàm phán ngoại giao – như Mỹ tính toán. Với chiến lược này, Mỹ đã sử dụng tối đa sức mạnh quân sự kết hợp với những thủ đoạn chính trị, ngoại giao, hòng giành thế mạnh, cô lập và bóp nghẹt cuộc kháng chiến của nhân dân ta. Bằng cách tuyên bố về các đợt rút quân nhỏ giọt, Tổng thống R. Nixon hy vọng vừa có thời gian để xây dựng ngụy quân, ngụy quyền đủ mạnh, xoa dịu phong trào phản chiến đang lên cao trong lòng nước Mỹ và trên thế giới, vừa có thể chuyển được sức ép dư luận sang phía VNDCCH, tạo lợi thế trên bàn đàm phán. Trên lĩnh vực đối ngoại, chính quyền Mỹ thực hiện chính sách “tiến công hòa bình” với quy mô chưa từng có trong hoạt động ngoại giao của nước Mỹ sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Mục đích của chính sách ngoại giao này là lôi kéo sự tham gia của các nước Tây Âu, Bắc Âu, châu Phi, châu Á, một số nước XHCN, các nước Không liên kết… làm trung gian trong vấn đề Việt Nam, hòng đánh lừa dư luận thế giới và nhân dân Mỹ, gây chia rẽ giữa các nước với Việt Nam. Bên cạnh đó, Mỹ liên tục giằng dai trên bàn Hội nghị Paris, gây nên những bế tắc về ngoại giao trong suốt những năm 1968 – 1971. 19 Được bảo trợ của Mỹ, chính quyền Sài Gòn đã tăng cường các cuộc hành quân lấn chiếm, đánh phá ác liệt các vùng giải phóng với mục tiêu đánh bật chủ lực của ta ra khỏi nơi đứng chân, tung những đội quân Phượng Hoàng về vùng ven đô làm nhiệm vụ chiêu hồi…, gây khó khăn không nhỏ cho cách mạng miền Nam. Sau cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 của quân đội ta, quân đội Sài Gòn đã kịp chấn chỉnh lại, tiến hành bao vây các đô thị miền Nam và đánh chiếm vùng nông thôn ven đô, gây khó khăn cho các cuộc tấn công đợt 2 và 3 của chúng ta. Thực tế là, “khi tổng tấn công chúng ta đã tung hết lực lượng ... cho nên đến khi địch phản kích thì chúng ta không có lực lượng (…), chúng ta lâm vào tình hình rất khó khăn trong những năm 1969, 1970, 1971” [78, tr. 57]. Nhân cơ hội đó, địch tập trung đánh phá ác liệt các vùng giải phóng, tiêu diệt và đẩy lùi các đơn vị chủ lực của ta ra khỏi các nơi đứng chân ở Trị Thiên, Khu V, Nam Bộ… Lực lượng vũ trang của chúng ta bị tổn thất, không kịp bổ sung, lương thực tiếp tế gặp khó khăn. Bước vào năm 1969, ở Đông Nam Bộ và khu IV, địch lấn chiếm và hầu như kiểm soát toàn bộ vùng nông thôn bao quanh Sài Gòn và các tỉnh Phước Long, Bình Tuy và vùng đồng bằng các tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận… cơ sở ở nông thôn bị tổn thất, căn cứ bị thu hẹp nhiều nơi, chủ lực của ta không còn chỗ đứng chân phải trú chân trên đất bạn. Từ khi đế quốc Mỹ trực tiếp đưa quân vào miền Nam Việt Nam, chưa bao giờ chúng ta gặp khó khăn như hai năm này (1969, 1970). Tóm lại, thực hiện chủ trương “phi Mỹ hoá chiến tranh”, R. Nixon đã sử dụng “sức mạnh tối đa về quân sự kết hợp với những thủ đoạn chính trị và ngoại giao rất xảo quyệt, hòng giành thế mạnh, cô lập và bóp nghẹt cuộc kháng chiến của nhân dân ta” [43, tr. 18]. Rõ ràng, thực hiện “Việt Nam hoá chiến tranh”, đế quốc Mỹ đặt mục tiêu phá vỡ khối đoàn kết thống nhất của dân tộc Việt Nam, khối đoàn kết ba dân tộc Đông Dương; ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc đối với miền Nam; cản trở sự ủng hộ của Mặt trận nhân dân thế giới đối với cuộc kháng chiến của nhân dân ta. Bên cạnh việc tăng cường hoạt động quân sự, đẩy mạnh bình định nông thôn, đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn ra sức lôi kéo, tập hợp các 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan