Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Đảng bộ Tỉnh Vĩnh Phúc lãnh đạo sự nghiệp giáo dục phổ thông từ năm 1997 đến năm...

Tài liệu Đảng bộ Tỉnh Vĩnh Phúc lãnh đạo sự nghiệp giáo dục phổ thông từ năm 1997 đến năm 2010

.PDF
160
71704
198

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN TRƢƠNG THỊ NGUYỆT ĐẢNG BỘ TỈNH VĨNH PHÚC LÃNH ĐẠO SỰ NGHIỆP GIÁO DỤC PHỔ THÔNG TỪ NĂM 1997 ĐẾN NĂM 2010 LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ Hà Nội, 2011 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN TRƢƠNG THỊ NGUYỆT ĐẢNG BỘ TỈNH VĨNH PHÚC LÃNH ĐẠO SỰ NGHIỆP GIÁO DỤC PHỔ THÔNG TỪ NĂM 1997 ĐẾN NĂM 2010 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LỊCH SỬ Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam Mã số: 60 22 56 Người hướng dẫn khoa học: TS. Chu Đức Tính Hà Nội, 2011 DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT CNTT : Công nghệ thông tin GD-ĐT : Giáo dục và đào tạo HĐND : Hội đồng nhân dân THCS : Trung học cơ sở THPT : Trung học phổ thông UBND : Ủy ban nhân dân MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Giáo dục có vị trí đặc biệt quan trọng trong đời sống con người. Giáo dục không chỉ là sản phẩm của xã hội mà đã trở thành nhân tố tích cực, một động lực thúc đẩy sự phát triển của xã hội loài người. Hiện nay, cuộc cách mạng khoa học công nghệ đang diễn ra mạnh mẽ, kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển của lực lượng sản xuất. Trong bối cảnh đó, giáo dục đã trở thành nhân tố quyết định đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi nước. Giáo dục ngày càng có vai trò, vị trí đặc biệt quan trọng trong chiến lược phát triển của mỗi quốc gia. Nhận thức rõ điều đó, Đảng và Nhà nước ta đã luôn quan tâm phát triển giáo dục. Từ năm 1986 đến nay, trong quá trình đổi mới mọi mặt về kinh tế xã hội, sự nghiệp giáo dục và đào tạo luôn được Đảng coi là động lực để phát triển đất nước. Đại hội Đảng lần thứ VII (1991) đã khẳng định: “Khoa học và giáo dục đóng vai trò then chốt trong toàn bộ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, là một động lực đưa đất nước thoát ra khỏi nghèo nàn, lạc hậu, vươn lên trình độ tiên tiến của thế giới” [11, tr.285]. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII (1996) tiếp tục khẳng định: “Cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài” [11, tr.491]. Thực hiện đường lối đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo, trong những năm qua, nền giáo dục Việt Nam đã có những bước phát triển mới, góp phần chuẩn bị tiền đề cho những bước phát triển mạnh mẽ và vững chắc hơn của sự nghiệp giáo dục trong thế kỷ XXI. Giáo dục – đào tạo là một quá trình liên thông, là sự tiếp nối liên tục của các bậc học, cấp học từ mầm non, phổ thông cho đến đại học và sau đại học. Trong hệ thống giáo dục quốc dân ở nước ta hiện nay, giáo dục phổ thông gồm giáo dục tiểu học, giáo dục THCS và giáo dục THPT. Đây là bậc học có vai trò tiếp nối bậc học mầm non và mở đầu cho các bậc học kế tiếp sau, mang ý nghĩa là bậc học “bản lề” của toàn bộ quá trình hình thành và phát triển nhân cách của các lứa tuổi nhi đồng, thiếu niên và thanh niên. Nghị quyết của Bộ Chính trị về cải cách giáo dục (1979) đã chỉ rõ: Giáo dục phổ thông là nền tảng văn hóa của một nước, là sức mạnh tương lai của một dân tộc, nó đặt những cơ sở ban đầu rất trọng yếu cho sự phát triển toàn diện con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Với ý nghĩa đó, trong đường lối đổi mới giáo dục, Đảng luôn coi trọng vị trí của giáo dục phổ thông. Vĩnh Phúc là tỉnh thuộc vùng châu thổ sông Hồng, cầu nối giữa các tỉnh miền núi phía bắc với Thủ đô Hà Nội và các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ. Trong lịch sử phát triển, nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc đã có những đóng góp cùng với nhân dân cả nước lập nên những thành tựu to lớn trong các thời kỳ đấu tranh giành độc lập dân tộc cũng như trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bước vào công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, đặc biệt từ sau khi tái lập tỉnh (1997) đến nay, Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc đã lãnh đạo nhân dân trong tỉnh từng bước khắc phục những khó khăn, thách thức, tranh thủ những thuận lợi để thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội và đã đạt được những thành tựu quan trọng trên nhiều lĩnh vực. Trong lĩnh vực giáo dục của tỉnh cũng đã có nhiều chuyển biến tích cực, góp phần vào phát triển sự nghiệp giáo dục của cả nước. Nhận thức được vai trò, ý nghĩa quan trọng của giáo dục phổ thông, Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc đã quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo để sự nghiệp giáo dục phổ thông của tỉnh từng bước đổi mới và phát triển. Thực tiễn cho thấy, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ và chính quyền các cấp, sự nghiệp giáo dục phổ thông của tỉnh đã đạt được những kết quả to lớn. Bên cạnh đó, việc phát triển giáo dục phổ thông cũng còn gặp nhiều khó khăn do những nguyên nhân chủ quan và khách quan cần được tiếp tục khắc phục từng bước. Vì vậy, nghiên cứu vấn đề này có ý nghĩa quan trọng. Với mong muốn tìm hiểu về vai trò lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc thực hiện nhiệm vụ phát triển giáo dục phổ thông trong giai đoạn từ khi tái lập tỉnh (1997) đến nay, tôi chọn đề tài: Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lãnh đạo sự nghiệp giáo dục phổ thông từ năm 1997 đến năm 2010 làm đề tài luận văn Thạc sĩ khoa học Lịch sử - chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam. 2. Tình hình nghiên cứu Giáo dục và đào tạo là đề tài được các nhà lãnh đạo Đảng và Nhà nước, nhiều nhà khoa học, những nhà quản lý giáo dục… quan tâm tìm hiểu và nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhau. Một cách khái quát, các công trình nghiên cứu liên quan có thể chia thành các nhóm chủ yếu sau: Nhóm thứ nhất: Các bài nói, bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước như: “Về vấn đề giáo dục” tập hợp những bài nói, bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vấn đề giáo dục, NXB Giáo dục, 1977. “Phát triển mạnh mẽ giáo dục - đào tạo phục vụ đắc lực sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” của Tổng Bí thư Đỗ Mười, NXB Giáo dục, 1996. “Thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng, vững bước tiến vào thế kỷ XXI” của Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu, NXB Chính trị Quốc gia, 1998. Phạm Văn Đồng, Về vấn đề giáo dục – đào tạo, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1999. “Hồ Chí Minh về giáo dục và đào tạo: Hưởng ứng cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” của các tác giả Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp… Biên soạn: Lê Văn Tích, Nguyễn Thị Kim Dung, Trần Thị Nhuần, NXB Lao động Xã hội, 2007, gồm những bài nói, bài viết của Bác về công tác giáo dục – đào tạo; giới thiệu những bài nói, bài viết của các nhà lãnh đạo Đảng, Nhà nước và một số nhà khoa học nước ta trong nghiên cứu, học tập và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục – đào tạo ... Các tác giả của những tài liệu này là những người giữ cương vị lãnh đạo cao nhất của Đảng, Nhà nước ta nên có thể nói những tác phẩm này chính là cơ sở tư tưởng và lí luận cho chủ trương, đường lối, chính sách giáo dục đã và đang tiến hành ở nước ta. Nhóm thứ hai: Một số công trình nghiên cứu chuyên khảo như: Trần Hồng Quân, Giáo dục 10 năm đổi mới và chặng đường trước mắt, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1996; Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội khóa X, Giáo dục hướng tới thế kỷ XXI, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1998; Phạm Minh Hạc, Tổng kết 10 năm (1999 - 2000), xóa mù chữ và phổ cập Tiểu học, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000; … Nhóm thứ ba: Dưới góc độ khoa học lịch sử, những năm gần đây cũng đã có một số khóa luận và luận văn tốt nghiệp của sinh viên, học viên chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam nghiên cứu về sự lãnh đạo của một số Đảng bộ địa phương trong việc thực hiện nhiệm vụ phát triển giáo dục – đào tạo. Một số luận văn thạc sĩ chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam viết về lĩnh vực này như: “Đảng bộ tỉnh Hưng Yên lãnh đạo sự nghiệp giáo dục – đào tạo từ năm 1997 đến năm 2006” của tác giả Phạm Thị Hồng Thiết, luận văn thạc sĩ Lịch sử, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2009; “Đảng bộ thành phố Hà Nội lãnh đạo phát triển giáo dục phổ thông trong những năm 1996 – 2006” của tác giả Nguyễn Thị Hồng Hạnh, luận văn thạc sĩ Lịch sử, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2009; “Đảng bộ tỉnh Hòa Bình lãnh đạo sự nghiệp giáo dục - đào tạo (1991 - 2000)” của tác giả Lương Thị Hòe, luận văn thạc sĩ Lịch sử, Đại học Quốc gia Hà Nội, 1998; … Về vấn đề giáo dục và đào tạo ở Vĩnh Phúc có một số bài viết, các công trình nghiên cứu đề cập đến ở nhiều góc độ và lĩnh vực khác nhau như: Địa chí Vĩnh Phúc (sơ thảo) của tác giả Nguyễn Xuân Lân có đề cập đến một cách khái quát nền giáo dục Vĩnh Phúc từ năm 1997 đến năm 2000; Giáo dục Vĩnh Phúc 10 năm xây dựng và phát triển do Sở Giáo dục – Đào tạo Vĩnh Phúc biên soạn, đã khái quát quá trình xây dựng và phát triển của giáo dục Vĩnh Phúc trong 10 năm (1997 - 2006) và giới thiệu về một số trường phổ thông trong tỉnh. Ngoài ra, trên các báo chí Trung ương và địa phương như báo Giáo dục và Thời đại, báo Vĩnh Phúc… cũng có những bài viết đề cập đến vấn đề giáo dục – đào tạo ở Vĩnh Phúc trong những năm qua. Những công trình nghiên cứu trên chủ yếu đề cập về vấn đề giáo dục và đào tạo trên cả nước nói chung và ở các địa phương nói riêng. Cho đến nay chưa có công trình lịch sử chuyên khảo nào nghiên cứu về sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc thực hiện nhiệm vụ phát triển giáo dục phổ thông trong những năm 1997 – 2010. Các công trình nghiên cứu trên là cơ sở quan trọng để tác giả kế thừa, tiếp cận các sự kiện lịch sử và cũng cung cấp những gợi ý cần thiết để phân tích và so sánh trong quá trình thực hiện luận văn. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu - Làm rõ quá trình Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc vận dụng đúng đắn, sáng tạo đường lối của Đảng trong lãnh đạo sự nghiệp giáo dục phổ thông ở địa phương từ năm 1997 đến năm 2010. - Đánh giá bước đầu những thành tích và hạn chế của giáo dục phổ thông Vĩnh Phúc trong những năm 1997 - 2010. - Đề xuất một số khuyến nghị phục vụ cho việc đổi mới giáo dục phổ thông ở Vĩnh Phúc trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Trình bày có hệ thống quá trình Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc vận dụng đường lối của Đảng, lãnh đạo sự nghiệp giáo dục phổ thông của tỉnh từ năm 1997 đến năm 2010. - Làm rõ nội dung các giai đoạn phát triển của giáo dục phổ thông Vĩnh Phúc trong những năm 1997 - 2010 và các kết quả đạt được, nguyên nhân của những kết quả đó. - Bước đầu rút ra một số kinh nghiệm lãnh đạo sự nghiệp giáo dục phổ thông của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu - Những chủ trương, biện pháp của Đảng bộ Vĩnh Phúc để lãnh đạo, chỉ đạo phát triển sự nghiệp giáo dục phổ thông của tỉnh từ năm 1997 đến năm 2010 theo đường lối của Đảng. - Thực tiễn công tác giáo dục phổ thông của tỉnh Vĩnh Phúc trong những năm 1997 – 2010. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Về nội dung: Đề tài nghiên cứu vai trò lãnh đạo của Đảng bộ Vĩnh Phúc đối với sự nghiệp giáo dục phổ thông của tỉnh. - Về không gian: Đề tài nghiên cứu về tình hình giáo dục phổ thông trong toàn tỉnh Vĩnh Phúc, bao gồm cả 3 cấp học: Tiểu học, THCS và THPT. - Về thời gian: Luận văn giới hạn nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc từ năm 1997 (năm tái lập tỉnh) đến năm 2010 (khi Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc tổng kết nhiệm kỳ 2005 - 2010). 5. Cơ sở lí luận, phƣơng pháp nghiên cứu và nguồn tài liệu tham khảo 5.1. Cơ sở lí luận, phương pháp nghiên cứu - Cơ sở lí luận: Những nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về giáo dục và đào tạo nói chung, giáo dục phổ thông nói riêng. - Phương pháp nghiên cứu: Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu chủ yếu là: phương pháp lịch sử và logic để khôi phục lại quá trình Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lãnh đạo phát triển giáo dục phổ thông của tỉnh từ 1997 đến năm 2010. Ngoài ra luận văn còn kết hợp các phương pháp khác như phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp, so sánh, khảo sát thực tiễn… 5.2. Nguồn tài liệu tham khảo - Các văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng Cộng sản Việt Nam; các Nghị quyết, các Chỉ thị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển giáo dục – đào tạo; các văn bản của Bộ Giáo dục và Đào tạo. - Các văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc; các Nghị quyết của Tỉnh ủy, HĐND và UBND tỉnh Vĩnh Phúc; các báo cáo của Sở Giáo dục – Đào tạo Vĩnh Phúc, Phòng Giáo dục – Đào tạo các huyện, thị xã và một số trường phổ thông của tỉnh; Niên giám thống kê tỉnh Vĩnh Phúc; các bài báo, tạp chí, các luận văn, luận án, các công trình nghiên cứu của các tập thể, cá nhân… có liên quan đến đề tài; tài liệu khảo sát thực tế… 6. Đóng góp của luận văn - Cung cấp nguồn tư liệu cơ bản về các chủ trương, biện pháp và sự chỉ đạo của Đảng bộ Vĩnh Phúc về phát triển giáo dục phổ thông trong những năm 1997 – 2010. - Đánh giá khách quan về những kết quả, hạn chế của giáo dục phổ thông Vĩnh Phúc trong những năm 1997 – 2010. - Bước đầu rút ra một số kinh nghiệm chủ yếu có tính định hướng đối với sự nghiệp giáo dục phổ thông hiện nay ở tỉnh Vĩnh Phúc theo đường lối của Đảng. - Kết quả của luận văn có thể là tài liệu tham khảo cho những công trình nghiên cứu khác có liên quan đến đề tài. 7. Bố cục luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn gồm 3 chương, 6 tiết. Chương 1 ĐẢNG BỘ TỈNH VĨNH PHÚC LÃNH ĐẠO SỰ NGHIỆP GIÁO DỤC PHỔ THÔNG TRONG NHỮNG NĂM 1997 – 2005 1.1. Cơ sở hình thành chủ trƣơng phát triển giáo dục phổ thông của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc (1997-2005) 1.1.1. Chủ trương của Đảng trong sự nghiệp phát triển giáo dục phổ thông (1997-2005) * Một số vấn đề về giáo dục và giáo dục phổ thông Một số vấn đề về giáo dục Về khái niệm giáo dục có thể hiểu theo cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Nhìn chung có thể hiểu “Giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt, bản chất của nó là sự truyền đạt và lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử - xã hội của các thế hệ loài người, nhờ có giáo dục mà các thế hệ nối tiếp nhau phát triển, tinh hoa văn hóa dân tộc và nhân loại được kế thừa, bổ sung và trên cơ sở đó mà loài người không ngừng tiến lên” [72, tr.9]. Giáo dục có vị trí đặc biệt quan trọng trong đời sống con người. Điều này dễ nhận thấy trong xã hội hiện đại, khi mà các quốc gia đang đua tranh về kinh tế, đua tranh về khoa học và công nghệ, về trí tuệ của con người. Giáo dục hiện đại giúp các quốc gia giành thắng lợi trong cuộc đua tranh đó. Phát triển giáo dục trở thành quốc sách hàng đầu, được thể hiện trong chiến lược phát triển đất nước, trong chính sách của các quốc gia. Giáo dục có hai chức năng quan trọng là chức năng văn hóa – xã hội và chức năng kinh tế. Chức năng văn hóa – xã hội của giáo dục được thể hiện ở các mặt: nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài, giáo dục tư tưởng chính trị. Chức năng nâng cao dân trí: giáo dục là quá trình truyền đạt và lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử - xã hội của các thế hệ, quá trình này giúp cho mỗi cá nhân tích lũy kiến thức, mở mang trí tuệ, hình thành văn hóa, đạo đức, giúp xã hội bảo tồn và phát triển nền văn hóa của mình. Giáo dục được thực hiện bằng nhiều con đường, trong đó con đường quan trọng nhất là tổ chức dạy học và đào tạo. Quá trình dạy học và đào tạo cung cấp cho học sinh hệ thống kiến thức khoa học, bồi dưỡng phương pháp tư duy sáng tạo và kỹ năng hoạt động thực tiễn, nhằm nâng cao trình độ học vấn, hình thành lối sống văn hóa mà mục đích cuối cùng là làm cho mỗi con người trở thành người lao động tự chủ, năng động, thông minh và sáng tạo. Như vậy giáo dục thực hiện chức năng nâng cao dân trí xã hội. Một quốc gia giàu mạnh là một quốc gia có trình độ dân trí cao với một nền giáo dục giàu mạnh, thỏa mãn được nhu cầu học tập của người dân. Mục tiêu chiến lược phát triển của Việt Nam là công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, một trong những giải pháp để đạt được mục tiêu đó là nâng cao dân trí. Muốn vậy, phải xây dựng một hệ thống giáo dục mạnh từ Mầm non cho đến Đại học, bằng mọi hình thức đào tạo: dân lập, bán công, quốc lập, tư thục, chính quy, tại chức, ngắn hạn, dài hạn…. để mỗi công dân được hưởng quyền lợi và thực hiện nghĩa vụ học tập của mình. Chức năng bồi dưỡng nhân tài: Nhân tài là những nhân vật xuất chúng có năng lực trí tuệ đặc biệt, thể hiện ở khả năng trực giác và suy luận cao, có tầm nhìn xa, trông rộng và khả năng phát hiện và giải quyết nhanh chóng, có hiệu quả những vấn đề mà họ gặp phải trong các lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật, khoa học, công nghệ, chính trị, xã hội và quân sự….Nhân tài là tài sản quý của mỗi quốc gia. Trong chiến lược bồi dưỡng nhân tài, giáo dục đóng một vai trò quan trọng. Nhà trường có nhiệm vụ phát hiện, bồi dưỡng nhân tài bằng quá trình huấn luyện công phu, với những phương pháp giáo dục tiên tiến nhằm bồi dưỡng học sinh có năng khiếu trở thành những người tài năng, phục vụ nhiều nhất cho đất nước. Chức năng giáo dục tư tưởng chính trị: Giáo dục làm cho xã hội trở nên thuần nhất, công bằng, văn minh. Bản thân khái niệm giáo dục đã bao hàm tính mục đích rõ nét. Bằng nội dung giáo dục được chọn lọc, với cả một hệ thống tổ chức và phương pháp luận hiện đại, giáo dục hướng dẫn các thế hệ, hướng dẫn cả xã hội đi tới một nền văn minh. Giáo dục làm cho mỗi con người trở thành công dân có ích cho xã hội. Chức năng kinh tế của giáo dục thể hiện đầy đủ nhất trong đào tạo nhân lực. Một đất nước muốn phát triển phải có đủ nhân lực và nhân lực phải có đủ trình độ kỹ thuật cao. Nhân lực xã hội là toàn bộ công nhân, viên chức, những người lao động đang làm việc trong tất cả các ngành, các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội đảm bảo cho xã hội vận động và phát triển. Giáo dục tham gia vào đào tạo nhân lực chính là tái sản xuất sức lao động xã hội, là tạo ra lực lượng trực tiếp sản xuất và quản lý xã hội. Giáo dục phát triển tiềm năng trí tuệ và khả năng lao động sáng tạo của con người. Trí tuệ là tiềm năng của mọi tiềm năng, là tài sản quý nhất của thời đại. Đào tạo nhân lực chính là thực hiện chức năng kinh tế của giáo dục. Với các chức năng trên, ngày nay giáo dục được nhìn nhận như là một trong những con đường quan trọng nhất để phát triển xã hội. Giáo dục đã trở thành quốc sách hàng đầu của nhiều quốc gia. Vì vậy đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển, loại đầu tư thông minh nhất trong mọi loại đầu tư các quốc gia trong thế giới hiện đại. Triển vọng và năng lực của một nền kinh tế hiện đại phụ thuộc vào việc đầu tư, tích lũy kiến thức và kỹ năng hoạt động sáng tạo cho người lao động. Giáo dục và đào tạo đóng góp tích cực vào quá trình tạo ra nguồn nhân lực đó. Các con đường giáo dục: Giáo dục là quá trình tác động để hình thành nhân cách cho thế hệ trẻ theo mục đích xã hội, quá trình này được thực hiện bằng nhiều con đường như giáo dục thông qua dạy học, giáo dục thông qua tổ chức các hoạt động phong phú và đa dạng, giáo dục thông qua sinh hoạt tập thể, tự tu dưỡng… Trong đó, một trong những con đường quan trọng nhất để giáo dục thế hệ trẻ là đưa học sinh vào học tập trong nhà trường. Nhà trường là một tổ chức giáo dục chuyên nghiệp, có nội dung chương trình, có phương tiện và phương pháp hiện đại, do một đội ngũ các nhà sư phạm đã được đào tạo thực hiện. Nhà trường là môi trường giáo dục thuận lợi, có một tập thể học sinh cùng nhau học tập, rèn luyện và tu dưỡng. Dạy học là con đường giáo dục chủ động, ngắn nhất và có hiệu quả, giúp thế hệ trẻ tránh được những mò mẫm, vấp váp trong cuộc đời. Dạy học là con đường quan trọng nhất trong tất cả các con đường giáo dục. Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc (gọi tắt theo tiếng Anh là UNESCO) đã nêu lên bốn trụ cột của giáo dục là: học để biết, học để làm, học để làm người và học để chung sống. Đó là những điều UNESCO nói với tất cả các dân tộc trên thế giới. Với bốn nguyên tắc trên, trong thế giới hiện đại, việc học suốt đời gắn liền với xã hội học tập nhằm tạo ra những cơ hội học tập và làm giàu tiềm năng của mỗi người. Tháng 3 và tháng 4 năm 1998, hội nghị UNESCO khu vực châu Á – Thái Bình Dương về vấn đề “Giáo dục cho thế kỷ XXI ở châu Á – Thái Bình Dương” đã khẳng định lại quan điểm: Học tập: Kho báu tiềm ẩn. Hội nghị cho rằng hãy tiếp tục học để biết, học để làm, học để sống cùng nhau và học để tồn tại. Đó là con đường của giáo dục bước vào thế kỷ XXI. Một số vấn đề về giáo dục phổ thông Ở nước ta, Cách mạng tháng Tám thành công và sự thành lập nước Việt nam Dân chủ Cộng hòa ngày 2-9-1945 đã đặt nền tảng cho sự ra đời nền giáo dục mới – nền giáo dục cách mạng. Chính quyền cách mạng dù bận trăm công nghìn việc đối nội, đối ngoại, vẫn quan tâm việc tiến hành một chương trình cải cách giáo dục triệt để thay thế giáo dục nô dịch thực dân. Hội đồng Cố vấn học chính được thành lập ngay tháng 10-1945 để lo liệu công việc này. Tuy nhiên, do ngay từ tháng 9-1945 ở miền Nam và từ tháng 12 -1946 trên toàn quốc nổ ra cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp nên đến tháng 7-1950, Hội đồng Chính phủ mới thông qua đề án cải cách giáo dục và thực hiện đề án này một cách có hệ thống. Trong đợt cải cách giáo dục lần thứ nhất năm 1950: thay hệ thống giáo dục do thực dân Pháp để lại bằng chế độ giáo dục Dân chủ Cộng hòa (giáo dục phổ thông 9 năm). Trong cơ cấu hệ thống giáo dục mới này, hệ thống giáo dục phổ thông gồm 3 cấp học: Cấp I: 4 năm (lớp 1, 2, 3 và 4) thay thế cho bậc tiểu học cũ (không kể một năm học lớp ấu trĩ hay vỡ lòng). Cấp II: 3 năm (lớp 5, 6 và 7) thay thế cho bậc trung học phổ thông cũ 4 năm. Cấp III: 2 năm (lớp 8 và 9) thay thế cho bậc trung học chuyên khoa cũ 3 năm. Cuộc cải cách giáo dục lần thứ hai (1956) đặt cơ sở cho việc thành lập hệ thống giáo dục quốc dân theo tính chất giáo dục xã hội chủ nghĩa. Hệ thống giáo dục phổ thông được xác định 10 năm gồm 3 cấp học: Cấp I: 4 năm; Cấp II: 3 năm; Cấp III: 3 năm. Cuộc cải cách giáo dục lần thứ ba (năm 1979) – xây dựng và phát triển nền giáo dục xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Giáo dục phổ thông được chia thành hai bậc: phổ thông cơ sở và phổ thông trung học. Trường phổ thông cơ sở là một thể thống nhất từ lớp 1 đến lớp 9, đó là bậc học sẽ tiến tới phổ cập bắt buộc cho tất cả thiếu niên từ 6 -15 tuổi. Trường phổ thông trung học, từ lớp 10 đến lớp 12. Với cuộc Cải cách giáo dục lần thứ 3, từ năm học 19811982, hệ thống giáo dục phổ thông 12 năm được thống nhất trong cả nước. Bộ Giáo dục và Đào tạo đã xây dựng hoàn chỉnh bộ sách giáo khoa mới theo tinh thần cải cách cho cả hệ thống 12 năm. Công cuộc đổi mới giáo dục (bắt đầu từ năm 1986). Từ Đại hội VI của Đảng năm 1986, giáo dục nước nhà đã đổi mới theo hướng đồng bộ, toàn diện, sâu sắc, nhằm đưa nền giáo dục và đào tạo vào quy mô mới phù hợp với định hướng đổi mới kinh tế - xã hội của nước ta, hợp với xu thế phát triển giáo dục của các nước phát triển trên thế giới. Nhằm thể chế hóa các quan điểm của Đảng, tại kỳ họp thứ 4 (2 - 121998) của Quốc hội khóa IX đã thông qua Luật Giáo dục. Luật Giáo dục năm 1998 với 9 chương, 110 điều, quy định về nhiệm vụ, yêu cầu của từng ngành, cấp học từ mầm non đến đại học và sau đại học; nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, trách nhiệm của từng gia đình và toàn xã hội đối với giáo dục. Bước vào thế kỉ XXI với những yêu cầu mới đặt ra đối với giáo dục. Để đáp ứng kịp thời những yêu cầu đặt ra và nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả của sự nghiệp giáo dục, Luật Giáo dục năm 2005 được Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 14 - 6 - 2005 và thay thế Luật Giáo dục năm 1998. Luật Giáo dục năm 2005 quy định về giáo dục phổ thông: “Điều 26. Giáo dục phổ thông bao gồm: a) Giáo dục tiểu học được thực hiện trong năm năm học, từ lớp một đến lớp năm. Tuổi của học sinh vào học lớp một là sáu tuổi; b) Giáo dục trung học cơ sở được thực hiện trong bốn năm học, từ lớp sáu đến lớp chín. Học sinh vào học lớp sáu phải hoàn thành chương trình tiểu học, có tuổi là mười một tuổi; c) Giáo dục trung học phổ thông được thực hiện trong ba năm học, từ lớp mười đến lớp mười hai. Học sinh vào học lớp mười phải có bằng tốt nghiệp trung học cơ sở, có tuổi là mười lăm tuổi” [71, tr.74]. “Điều 27. Mục tiêu của giáo dục phổ thông Mục tiêu của giáo dục phổ thông là giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân; chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [71, tr.75] “Điều 28. Yêu cầu về nội dung, phương pháp giáo dục phổ thông 1. Nội dung giáo dục phổ thông phải bảo đảm tính phổ thông, cơ bản, toàn diện, hướng nghiệp và có hệ thống; gắn với thực tiễn cuộc sống, phù hợp với tâm sinh lý lứa tuổi của học sinh, đáp ứng mục tiêu giáo dục ở mỗi cấp học. 2. Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm; rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh” [71, tr.76]. Trong nghiên cứu này, đề tài sử dụng khái niệm giáo dục phổ thông 12 năm. * Một số vấn đề tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục Sinh thời Bác Hồ rất quan tâm đến công tác giáo dục thế hệ trẻ nói chung, công tác dạy học nói riêng. Người đã dạy rằng một dân tộc dốt là một dân tộc yếu, muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết cần có con người xã hội chủ nghĩa. Con người mà Bác mong muốn đào tạo không chỉ có lòng yêu nước, tinh thần đấu tranh anh dũng, có lí tưởng cách mạng, phẩm chất, đạo đức mà còn phải có tri thức khoa học, kĩ năng lao động sản xuất… Có như vậy thì dân tộc ta mới có sức mạnh tinh thần và thể chất để vượt bao khó khăn, gian khổ trong chinh phục thiên nhiên, chiến thắng giặc ngoại xâm, đảm bảo một cuộc sống hạnh phúc, văn minh, tiến bộ, thích ứng về với thời đại, xã hội mới. Qua những bài nói, bài viết của Người về giáo dục - đào tạo và dạy học, có thể rút ra một số nội dung cơ bản sau: Về mục tiêu của giáo dục và dạy học Năm 1945, sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, ngày 3-9-1945, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh trình bày những nhiệm vụ cấp bách cần giải quyết ngay. Trong đó, vấn đề thứ hai là “nạn dốt”. Nạn mù chữ của nhân dân ta được Người coi là một thứ giặc nguy hại không kém gì giặc ngoại xâm. Người khẳng định: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu. Vì vậy tôi đề nghị mở một chiến dịch để chống nạn mù chữ” [32, tr.55]. Bác chỉ ra rằng nền giáo dục mới và nhà trường mới phải thực hiện hoạt động dạy và học theo mục tiêu: Học để làm việc, làm người, làm cán bộ; học để phụng sự đoàn thể, giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và nhân loại; học để sửa chữa tư tưởng; học để tu dưỡng đạo đức cách mạng; học để tin tưởng và học để hành. Trong bài “Nâng cao trách nhiệm chăm sóc và giáo dục thiếu niên, nhi đồng”, kí tên TL. đăng trên báo Nhân dân số 5526, ngày 1-6-1969, Người viết: “Thiếu niên, nhi đồng là người chủ tương lai của nước nhà. Vì vậy chăm sóc và giáo dục tốt cho các cháu là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân. Công tác đó phải làm kiên trì, bền bỉ (…). Vì tương lai của con em ta, dân tộc ta, mọi người, mọi ngành phải có quyết tâm chăm sóc và giáo dục các cháu bé cho tốt” [32, tr.323]. Trong “Di chúc”, Bác viết: “Đoàn viên và thanh niên ta nói chung là tốt, mọi việc đều hăng hái xung phong, không ngại khó khăn, có chí tiến thủ. Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên”. Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết” [32, tr.331]. Như vậy, mục tiêu cao cả của giáo dục là bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau, bồi dưỡng những chủ nhân tương lai của nước nhà. Về nhiệm vụ và nội dung dạy học Trong công tác dạy học, người thầy giáo chẳng những phải cung cấp tri thức, phát triển năng lực nhận thức, mở mang trí tuệ cho người học, mà còn phải hết sức chú ý bồi dưỡng, giáo dục tư tưởng, chính trị, đạo đức cho họ, tức là giáo dục toàn diện. Ngày 21/10/1964, Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Trong bài nói chuyện với các thầy cô giáo, sinh viên và cán bộ, công nhân viên của nhà trường, Người đã nói: “Dạy cũng như học phải chú trọng cả tài lẫn đức. Đức là đạo đức cách mạng. Đó là cái gốc, rất là quan trọng. Nếu không có đạo đức cách mạng thì có tài cũng vô dụng” [36, tr.329]. Người nêu rõ: trong việc giáo dục và học tập, phải chú trọng đủ các mặt: đạo đức cách mạng, giác ngộ xã hội chủ nghĩa, văn hóa, kĩ thuật, lao động và sản xuất. Đây là những nội dung giáo dục hết sức cơ bản, gắn bó chặt chẽ với nhau, làm nền tảng cho sự phát triển con người Việt Nam. Về phương pháp và phong cách dạy học Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ làm rõ về mục tiêu, nhiệm vụ, nội dung của giáo dục và dạy học, mà còn định hướng cho chúng ta khi xác định phương pháp và phong cách dạy học. Điều đó thể hiện ở những quan điểm sau: - Học phải đi đôi với hành, lí luận phải gắn liền với thực tế. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng kết hợp lí luận với thực tế là một nguyên tắc rất quan trọng. Bác nêu rõ mối quan hệ giữa lí luận và thực hành: “Lí luận phải đem ra thực hành. Thực hành phải nhằm theo lí luận. Lí luận cũng như cái tên (hoặc viên đạn). Thực hành cũng như cái đích để bắn. Có tên mà không bắn, hoặc bắn lung tung, cũng như không có tên”, “Vì vậy chúng ta phải gắng học, đồng thời học thì phải hành” [32, tr.588]. - Dạy học phải chú ý đặc điểm đối tượng, phải biết dạy cho ai. Bác đã chỉ ra rằng “cách làm việc, cách tổ chức, cách nói chuyện, tuyên truyền… của chúng ta, đều phải lấy câu này làm khuôn phép: Từ trong quần chúng ra, về sâu trong quần chúng. Muốn cho việc dạy học không xa rời quần chúng, điều kiện cơ bản đối với người thầy giáo là phải sát đối tượng, phải đóng giày theo chân chứ không thể khoét chân cho vừa giày” [32, tr.588].“Chân” ở đây là quần chúng, là học sinh. Người thầy giáo phải là người thợ giày tận tụy và lành nghề. Muốn vậy, phải đi sâu, đi sát để tìm hiểu tâm tư, mắc mớ của học sinh, từ đó, tìm ra con đường giải quyết hợp lí việc dạy học, tuyên truyền…. - Dạy học phải thiết thực, cơ bản. Trong huấn thị về công tác huấn luyện học tập (năm 1950), Bác Hồ đã nêu rõ cách dạy học: „„Cốt thiết thực, chu đáo hơn ham nhiều. Việc cốt yếu là phải làm cho người học hiểu thấu vấn đề’‟ [32, tr.415]. “Bất kì việc gì chúng ta cũng phải bắt đầu từ gốc, dần dần đến ngọn, từ ít đến nhiều, từ hẹp đến rộng. Chớ nên tham mau, tham nhiều trong một lúc”. Bác cũng chỉ ra một cách dạy để cho người khác hiểu vấn đề một cách thiết thực. Bác chỉ rõ: “Hiểu thấu cũng có nhiều cách: có cách hiểu thấu một cách tỉ mỉ, nhưng dạy theo cách đó thì tốn nhiều thì giờ. Trái lại cũng có cách dạy, theo lối bao quát mà vẫn làm cho người khác hiểu thấu được” [32, tr.415]. - Học hỏi là một việc phải tiếp tục suốt đời. Khi nói chuyện với các anh em ở lớp nghiên cứu chính trị khóa I của trường Đại học Nhân dân Việt Nam (1956), Bác Hồ đã căn dặn mọi người: “Học hỏi là một việc phải tiếp tục suốt đời. Suốt đời phải gắn liền lý luận với công tác thực tế. Không ai có thể tự cho mình đã biết đủ rồi, biết hết rồi. Thế giới ngày ngày đổi mới, nhân dân ta ngày càng tiến bộ. Cho nên chúng ta phải tiếp tục học và hành để tiến bộ kịp nhân dân (…) Lênin khuyên chúng ta: Học, học nữa, học mãi. Mỗi người đều phải ghi nhớ và thực hành điều đó” [32, tr.591]. Giáo dục là sự nghiệp của quần chúng Trong “Thư cho các cán bộ, cô giáo, thầy giáo, công nhân, nhân viên, học sinh, sinh viên, nhân dịp bắt đầu năm học mới”, năm học 1968-1969, Bác căn dặn: “Dù khó khăn đến đâu cũng phải tiếp tục thi đua dạy tốt và học tốt (…) nhiệm vụ của cô giáo, thầy giáo là rất quan trọng và rất vẻ vang” [32, tr.321]. Giáo dục là sự nghiệp của quần chúng. Cần phải phát huy đầy đủ dân chủ xã hội chủ nghĩa, xây dựng quan hệ thật tốt, đoàn kết thật chặt chẽ giữa thầy và thầy, giữa thầy và trò, giữa học trò với nhau, giữa cán bộ các cấp, giữa nhà trường và nhân dân để hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ đó. Bác chỉ rõ: “Giáo dục nhằm đào tạo những người kế tục sự nghiệp cách mạng to lớn của Đảng và nhân dân ta, do đó các ngành, các cấp đảng và chính quyền địa phương phải thật sự quan tâm hơn nữa đến sự nghiệp này, phải chăm sóc nhà trường về mọi mặt, đẩy sự nghiệp giáo dục của ta lên những bước phát triển mới” [32, tr.322]. Nhiều quan điểm và ý kiến của Bác về giáo dục, đào tạo, về dạy học là một tài sản vô giá đối với ngành giáo dục nói chung và đối với những người
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan