Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Đảng Cộng sản Việt Nam với quan hệ Việt Nam - Lào từ năm 1986 đến năm 2010...

Tài liệu Đảng Cộng sản Việt Nam với quan hệ Việt Nam - Lào từ năm 1986 đến năm 2010

.PDF
192
2493
134

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------- HOÀNG THỊ HÀ NGUYÊN ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỚI QUAN HỆ VIỆT NAM - LÀO TỪ NĂM 1986 ĐẾN NĂM 2010 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LỊCH SỬ HÀ NỘI - 2011 MỤC LỤC trang DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT 4 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 5 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 6 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 11 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 11 5. Cơ sở lý luận, phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu 11 6. Bố cục cơ bản 12 Chƣơng 1: ĐẢNG LÃNH ĐẠO ĐỔI MỚI QUAN HỆ VIỆT NAM VỚI 13 LÀO GIAI ĐOẠN 1986 - 1996 1.1 . Chủ trƣơng của Đảng Cộng sản Việt Nam về đổi mới quan hệ Việt 13 Nam với Lào giai đoạn 1986 – 1996 1.1.1. Bối cảnh lịch sử 13 1.1.2. Chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về đổi mới quan hệ 25 Việt Nam với Lào giai đoạn 1986 - 1996 1.2. Quá trình Đảng chỉ đạo thực hiện đổi mới quan hệ Việt Nam với 37 Lào từ năm 1986 đến năm 1996 1.2.1. Vài nét về tình hình quan hệ Việt Nam - Lào từ năm 1975 đến 37 năm 1986 1.2.2. Sự chỉ đạo của Đảng từ năm 1986 đến năm 1991 43 1.2.3. Sự chỉ đạo của Đảng từ năm 1991 đến năm 1996 52 Tiểu kết chương 1 58 Chƣơng 2: ĐẢNG LÃNH ĐẠO TĂNG CƢỜNG QUAN HỆ VIỆT NAM 59 VỚI LÀO GIAI ĐOẠN 1996 - 2010 2.1. Chủ trƣơng của Đảng về tăng cƣờng quan hệ Việt Nam với Lào giai đoạn 1996 - 2010 59 2.1.1. Bối cảnh lịch sử 59 2.1.2. Chủ trương của Đảng về tăng cường quan hệ Việt Nam với 71 Lào giai đoạn 1996 - 2010. 2.2. Quá trình Đảng chỉ đạo thực hiện tăng cƣờng quan hệ Việt Nam với 78 Lào giai đoạn 1996 - 2010 2.2.1. Sự chỉ đạo của Đảng từ năm 1996 đến năm 2001 78 2.2.2. Sự chỉ đạo của Đảng từ năm 2001 đến năm 2006 83 2.2.3. Sự chỉ đạo của Đảng từ năm 2006 đến năm 2010 93 Tiểu kết chương 2 101 Chƣơng 3: NHẬN XÉT CHUNG VÀ CÁC KINH NGHIỆM CHỦ YẾU 103 3.1. Nhận xét chung 103 3.1.1. Về các thành tựu và nguyên nhân 103 3.1.2. Về các hạn chế và nguyên nhân 117 3.2. Các kinh nghiệm và vấn đề đặt ra 121 3.2.1. Các kinh nghiệm chủ yếu 121 3.2.2. Một số vấn đề đặt ra 124 Tiểu kết chương 3 130 KẾT LUẬN 132 TÀI LIỆU THAM KHẢO 135 PHỤ LỤC 143 2 LỜI CẢM ƠN Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc nhất tới PGS. TS Ngô Đăng Tri, người đã nhiệt tình hướng dẫn, chỉ bảo và đóng góp những ý kiến quí báu trong suốt thời gian tôi tiến hành nghiên cứu, hoàn thành luận văn. Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới Ban giám hiệu, Phòng sau đại học, các thày cô giáo và đặc biệt là các thày cô trong khoa Lịch sử - Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn đã nhiệt tình giảng dạy, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho chúng tôi trong suốt quá trình học tập cũng như thực hiện luận văn tốt nghiệp. Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới gia đình, người thân, bạn bè đã luôn động viên, khích lệ để tôi hoàn thành khóa học. Hà Nội, tháng 06/2011 Hoàng Thị Hà Nguyên 3 BẢNG CHỮ VIẾT TẮT 1 Chủ nghĩa xã hội CNXH 2 Chủ nghĩa tư bản CNTB 3 Công nghiệp hóa, hiện đại hóa CNH-HĐH 4 Cộng hòa xã hội chủ nghĩa CHXHCN 5 Cộng hòa dân chủ nhân dân CHDCND 6 Đảng Nhân dân cách mạng Đảng NDCM 7 Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội NXB CTQG,H 4 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài: Việt Nam và Lào là hai nước láng giềng gần gũi, cùng chung sống trên bán đảo Đông Dương, có nhiều nét tương đồng về văn hoá và có truyền thống gắn bó, thuỷ chung lâu đời. Kể từ khi Đảng Cộng sản Đông Dương ra đời (1930), mối quan hệ truyền thống và đoàn kết đặc biệt lại càng được phát huy cao độ trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung là thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, giành và bảo vệ độc lập dân tộc. Trải qua nhiều giai đoạn lịch sử, được thử thách qua quá trình đấu tranh cách mạng lâu dài và gian khổ, được Chủ tịch Hồ Chí Minh, Chủ tịch Cayxỏn Phômvihẳn và các thế hệ lãnh đạo của hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân hai nước dày công vun đắp, mối quan hệ Việt Nam - Lào ngày càng trở nên gắn bó và trở thành một biểu tượng cao đẹp, mẫu mực, thuỷ chung trong quan hệ quốc tế, góp phần tạo sức mạnh vô địch và là nhân tố tạo nên thắng lợi của cách mạng hai nước, đúng như lời của Chủ tịch Cayxỏn Phômvihẳn đã từng nói: “Trong lịch sử cách mạng thế giới, đã có nhiều tấm gương sáng về tinh thần quốc tế vô sản, nhưng chưa ở đâu và chưa bao giờ, có được sự đoàn kết liên minh chiến đấu đặc biệt, lâu dài và toàn diện như quan hệ Lào - Việt Nam”, “Núi có thể mòn, sông có thể cạn, song tình nghĩa Lào - Việt Nam mãi mãi vững bền hơn núi, hơn sông”. Từ năm 1975, sau thắng lợi của sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, cách mạng hai nước bước sang một trang mới. Nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và nhân dân Lào dưới sự lãnh đạo của Đảng Nhân dân cách mạng Lào bắt tay vào xây dựng đất nước, tiến lên chủ nghĩa xã hội. Trải qua 35 năm, quan hệ hai nước đã có những bước phát triển mới, sự tin cậy, gắn bó ngày càng sâu sắc và đạt được nhìều kết quả quan trọng trên nhiều lĩnh vực: quan hệ chính trị, an ninh - quốc phòng, đối ngoại được tăng cường; hợp tác kinh tế, văn hoá, giáo dục, khoa học kỹ thuật có nhiều tiến bộ, đầu tư trực tiếp của Việt Nam vào Lào tiếp tục đạt mức cao, quan hệ hợp tác giữa 5 hai Đảng, Quốc hội, Chính phủ, các bộ, ngành, đoàn thể, địa phương hai nước phát triển ngày càng sâu rộng hơn. Với đường lối đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ quốc tế, hợp tác bình đẳng cùng có lợi, chủ động tích cực tham gia vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực trên cở sở độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển, phục vụ trực tiếp cho sự nghiệp đổi mới của đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam đặc biệt coi trọng và dành ưu tiên cao cho quan hệ với nước Lào anh em, nhằm tiếp tục đưa quan hệ Việt Nam - Lào phát triển cả về bề rộng lẫn chiều sâu, vì sự phồn vinh của mỗi nước cũng như vì hoà bình, ổn định, hợp tác và phát triển ở khu vực. Có thể khẳng định quan hệ hai nước Việt Nam - Lào là mối quan hệ đặc biệt và hiếm có trong lịch sử thế giới. Trong bối cảnh quan hệ quốc tế ngày nay với nhiều biến động phức tạp và khó lường, các cuộc đấu tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột dân tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang, diễn biến hòa bình, can thiệp lật đổ, khủng bố vẫn xảy ra ở nhiều nơi với tính chất và hình thức ngày càng đa dạng, phức tạp, thì việc xây dựng, củng cố mối quan hệ láng giềng gần gũi, thân thiện, cùng hợp tác và phát triển là yêu cầu vô cùng quan trọng. Đặc biệt, năm 2011 cũng là năm diễn ra Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI và Đại hội Đảng Nhân dân cách mạng Lào lần thứ IX. Vì vậy, tôi chọn đề tài “Đảng Cộng sản Việt Nam với quan hệ Việt Nam - Lào từ năm 1986 đến năm 2010” làm đề tài luận văn Thạc sĩ của mình, nhằm mục đích tìm hiểu các chủ trương, đường lối của Đảng trong việc củng cố và tăng cường mối quan hệ Việt Nam - Lào trong bối cảnh quốc tế và khu vực mới, phân tích những thành tựu, hạn chế và nêu ra các bài học kinh nghiệm, cũng như một số giải pháp nhằm thúc đẩy mối quan hệ truyền thống đặc biệt giữa hai nước Việt Nam - Lào. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề: a, Nhóm sách chuyên đề, sách tham khảo về quan hệ Việt Nam - Lào 6 Nổi bật và có tính hệ thống, toàn diện, sâu sắc về quan hệ Việt Nam - Lào hiện nay là công trình nghiên cứu "Lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam (1930 - 2007)" do Ban Tuyên giáo Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam và Ban Chỉ đạo công tác Tư tưởng, Lý luận, Văn hóa Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào phối hợp biên soạn dưới sự chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư hai Đảng. Công trình vừa hoàn thành và được xuất bản vào tháng 5/2011. Đây là công trình đầu tiên, đồ sộ nhất, nghiên cứu một cách toàn diện quan hệ hợp tác hữu nghị, đặc biệt giữa hai Đảng, hai Nhà nước, quân và nhân dân hai nước Việt Nam - Lào trên tất cả các lĩnh vực chính trị, đối ngoại, an ninh, quốc phòng, kinh tế, xã hội kể từ khi Đảng Cộng sản Đông Dương (tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Nhân dân cách mạng Lào) ra đời vào năm 1930, trải qua hai cuộc kháng chiến trường kỳ, đồng cam cộng khổ chống kẻ thù chung là thực dân Pháp (1930 - 1954), đế quốc Mỹ (1954 - 1975) xâm lược và thời kỳ cùng giúp đỡ nhau xây dựng chế độ chủ nghĩa xã hội (từ năm 1975 đến nay). Công trình ngoài sản phẩm Lịch sử chính còn các sản phẩm Văn kiện Đảng, Nhà nước Lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, tập hợp tất cả các văn kiện của Đảng, Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương của cả hai nước từ năm 1930 đến năm 2007; và cuốn Biên niên sự kiện Lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, tập hợp các sự kiện theo trình tự thời gian đã diễn ra trong quan hệ Việt Nam - Lào từ năm 1930 đến 2007, cung cấp chi tiết thông tin về hoạt động, các cuộc gặp gỡ của Lãnh đạo cấp cao hai nước, các bộ, ban, ngành, địa phương của hai nước. Đây là những tài liệu tra cứu rất có hiệu quả cho những người nghiên cứu về quan hệ Việt Nam - Lào. Ngoài ra còn có các công trình, như: Liên minh chiến đấu Việt Nam - Lào Campuchia của tác giả Hoàng Văn Thái; Biên niên sự kiện Chủ tịch với tình đoàn kết - hữu nghị Việt Nam - Lào, do tác giả Chu Đức Tính chủ biên; Quan 7 hệ hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào trong giai đoạn 1954-2000 của PGS.TS Lê Đình Chỉnh... b. Nhóm tài liệu Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế về quan hệ Việt Nam Lào, như: - Kỷ yếu Hội thảo Quan hệ Việt - Lào, Lào - Việt (năm 1993). - Kỷ yếu Hội thảo quốc tế "Tình đoàn kết đặc biệt, liên minh chiến đấu và sự hợp tác toàn diện giữa Lào và Việt Nam" (6/2007). - Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế "Căn cứ địa Sầm Nưa - biểu tượng đoàn kết đặc biệt và liên minh chiến đấu Việt Nam – Lào” (2008). - Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế "Các sự kiện lịch sử Trung Lào trong quan hệ đặc biệt Việt - Lào" (9/2009). - Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế " Tình đoàn kết Việt Nam - Lào trong xây dựng và phát triển khu kháng chiến Tây Bắc Lào" (6/2010). - Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế "Đoàn kết liên minh chiến đấu Việt Nam - Lào đánh bại chiến dịch Cù Kiệt" của đế quốc Mỹ tại Cánh đồng Chum Xiêng Khoảng" (9/2010) . ..v.v.. Các bài Kỷ yếu Hội thảo đã phân tích một cách sâu sắc về quan hệ hữu nghị giữa hai nước, từ thời kỳ đấu tranh giành độc lập và thống nhất của nhân dân mỗi nước trước đây, cũng như trong công cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước hiện nay. Từ đó, khẳng định một quy luật: tình đoàn kết đặc biệt Việt Nam - Lào là mẫu mực, hiếm có trong lịch sử quan hệ quốc tế, là tấm gương trong sáng về tình nghĩa thủy chung, son sắt. Sự đoàn kết, ủng hộ và giúp đỡ lẫn nhau là một đòi hỏi khách quan và là quy luật phát triển của cách mạng hai nước, là tài sản vô giá mà Đảng, Chính phủ và nhân dân hai nước có trách nhiệm giữ gìn và phát huy mãi mãi. 8 Các tài liệu này góp phần cung cấp nhiều dẫn chứng, tư liệu cụ thể về liên minh chiến đấu của hai nước trong hai cuộc kháng chiến nói chung, và liên minh chiến đấu trên từng chiến trường, từng địa bàn nói riêng.... Ngoài ra còn có các bài nói, bài viết của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, khẳng định quan điểm, nhất quán của Đảng và Nhà nước ta trong việc củng cố, tăng cường quan hệ hữu nghị đặc biệt giữa hai nước Việt Nam - Lào tại các Hội thảo, các cuộc mít tinh trọng thể nhân dịp các sự kiện quan trọng của cả hai nước... c. Nhóm các bài viết đăng trên báo, tạp chí chuyên ngành Như: Chủ tịch Hồ Chí Minh với quan hệ Việt - Lào (của PGS.TS Lê Đình Chỉnh trên tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á, số 2/2000); Chủ tịch Hồ Chí Minh - người đặt nền móng cho mối quan hệ Việt - Lào (của Ngô Quốc Tuấn trên tạp chí Lịch sử quân sự, 2005, số 168 (12)); Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng NDCM Lào quyết định thắng lợi liên minh Việt - Lào (của PGS.TS Trình Mưu, Tạp chí Lý luận Chính trị, số 12/2008); Quan hệ Việt - Lào trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945 – 1954) (của PGS.TS Ngô Đăng Tri in trên Tạp chí Lịch sử Đảng, số 4/2008); 25 năm hợp tác kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật Việt Nam - Lào (của tác giả Vũ Công Quý, đăng trên tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 3/2004); Những nhân tố thuận lợi và khó khăn trong quan hệ Việt Nam - Lào hiện nay (đăng trên tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á, số 3/2004), Ba mươi năm quan hệ hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào (1977 - 2007) ( đăng trên tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á số 4/2007); Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào trong bối cảnh quốc tế mới (đăng trên tạp chí Nghiên cứu Lịch sử số 7/2004) của Th.s Nguyễn Hào Hùng... và nhiều bài nghiên cứu khác. Nội dung các bài viết đã khái quát được tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối đối ngoại của Đảng, Nhà nước ta, trong đó có quan hệ đối ngoại với nước bạn Lào - cơ sở của việc củng cố, tăng cường quan hệ truyền thống, chiến lược 9 giữa hai nước Việt Nam - Lào; nghiên cứu về quan hệ Việt Nam - Lào trong lịch sử; khái quát được một số thành tựu cụ thể trong quan hệ hợp tác giữa hai nước về kinh tế, thương mại, văn hóa; đánh giá khái quát những tác động, thách thứ và biện pháp tăng cường quan hệ của hai nước trong bối cảnh quốc tế mới... d. Nhóm tài liệu Luận văn, luận án, như - Quan hệ Việt Nam - Lào - Campuchia trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp 1945 - 1954, Luận án Phó tiến sĩ khoa học Lịch sử của tác giả Đỗ Đình Hãng, năm 1993. - Quan hệ Việt Nam - Lào trong giai đoạn 1954 - 1975 Luận án tiến sĩ khoa học lịch sử của tác giả Lê Đình Chỉnh, năm 2001. - Quan hệ Việt Nam - Lào từ năm 1975 -2005, Luận án tiến sĩ khoa học lịch sử của tác giả Nguyễn Thị Phương Nam, năm 2007...v..v Các luận án đã đi sâu nghiên cứu quan hệ Việt Nam - Lào về cả lý luận và thực tiễn, về cơ sở hình thành, diễn tiến quá trình hợp tác, những thành tựu hợp tác trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng; rút ra những nguyên nhân thành tựu và hạn chế trong quá trình hợp tác giữa hai nước, phân tích xu thế mới cũng như các biện pháp nhằm tăng cường hiệu quả trong quan hệ hợp tác giữa hai nước trong tương lai. Thời kỳ từ 1986 - 2010 đánh dấu bước chuyển mới trong quan hệ Việt Nam - Lào, đặc biệt là trong những năm gần đây, tình hình thế giới có nhiều biến động phức tạp, khó lường, đặt ra nhiều thách thức đối với Đảng và Nhà nước ta trong việc xây dựng và củng cố các mối quan hệ quốc tế, quan hệ Việt Nam - Lào cũng có nhiều nhân tố mới, mang dấu ấn của thời đại. Vì vậy, tôi lựa chọn đề tài “Đảng Cộng sản Việt Nam với quan hệ Việt Nam Lào từ năm 1986 đến năm 2010” làm đề tài luận văn Thạc sĩ khoa học lịch sử Đảng của tôi là có sơ sở khoa học, không bị trùng lặp và cập nhật được những thông tin mới về quan hệ giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Nhân dân cách mạng Lào trong thời gian gần đây. 10 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu: 3.1. Mục đích nghiên cứu: làm sáng tỏ một cách toàn diện và khách quan, có hệ thống những quan điểm, chủ trương của Đảng trong việc đổi mới và tăng cường quan hệ Việt Nam với Lào từ năm 1986 đến năm 2010. Từ đó, nêu lên những thành tựu, hạn chế và rút ra những kinh nghiệm và đề xuất giải pháp nhằm đẩy mạnh quan hệ giữa hai nước hiện nay. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: - Trình bày quá trình Đảng lãnh đạo, chỉ đạo đổi mới và tăng cường quan hệ Việt Nam với Lào từ năm 1986 đến năm 2010. - Khẳng định thành tựu, nêu lên hạn chế và phân tích nguyên nhân của nó. - Rút ra các kinh nghiệm lịch sử và nêu lên những vấn đề cần giải quyết hiện nay. 4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu: 4.1. Đối tượng nghiên cứu: là quan điểm, chủ trương của Đảng về quan hệ Việt Nam với Lào (trực tiếp là với Đảng NDCM Lào) và quá trình thực hiện, những kết quả đạt được của Đảng trong vấn đề quan hệ Việt Nam với Lào thời kỳ đổi mới (1986 - 2010). 4.1. Phạm vi nghiên cứu: - Về nội dung là quan điểm, chủ trương đổi mới và tăng cường quan hệ Việt Nam với Lào của Đảng. - Về thời gian là quan hệ hai Đảng hai nước từ năm 1986 đến năm 2010. 5. Cơ sở lý luận, phƣơng pháp nghiên cứu và nguồn tƣ liệu: 5.1. Cơ sở lý luận: là các nguyên tắc và nhận thức luận Mác - xít, cụ thể là phương pháp của chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng về mối quan hệ quốc tế của cách mạng vô sản và Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế nói chung và đoàn kết với Lào nói riêng. 5.2. Phương pháp nghiên cứu: 11 Luận văn chủ yếu sử dụng phương pháp lịch sử, phương pháp logic và các phương pháo khác như phân tích, tổng hợp, thống kê... 5.3. Nguồn tư liệu: - Chủ yếu là các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng Cộng sản Việt Nam. - Các văn bản về quan hệ Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam. - Các bài đăng tạp chí, nghiên cứu chuyên đề, sách chuyên khảo của các nhà khoa học và các luận văn, luận án đã công bố. 6. Bố cục cơ bản: Luận văn được trình bày làm 3 phần: Phần mở đầu, Phần nội dung và phần kết luận. Cụ thể là: MỞ ĐẦU Chƣơng 1: Đảng lãnh đạo đổi mới quan hệ Việt Nam với Lào giai đoạn 1986 - 1996. Chƣơng 2: Đảng lãnh đạo tăng cường quan hệ Việt Nam với Lào giai đoạn 1996 - 2010. Chƣơng 3: Nhận xét chung và các kinh nghiệm chủ yếu. KẾT LUẬN TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC 12 Chƣơng 1: ĐẢNG LÃNH ĐẠO ĐỔI MỚI QUAN HỆ VIỆT NAM VỚI LÀO GIAI ĐOẠN 1986 - 1996 1.1. Chủ trƣơng của Đảng Cộng sản Việt Nam về đổi mới quan hệ Việt Nam với Lào giai đoạn 1986 - 1996. 1.1.1. Bối cảnh lịch sử Trên thế giới đã diễn ra những chuyển biến sâu sắc, tác động lớn nhất đến chính sách đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam là sự khủng hoảng dẫn đến sụp đổ của hệ thống các nước Chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu. Đến đầu những năm 80, nền kinh tế của Liên Xô tuy phát triển song cũng đã bộc lộ nhiều nhược điểm, sản phẩm yếu kém về số lượng và chất lượng, năng suất lao động thấp. Nguyên nhân sâu xa của sự khủng hoảng này chính là do mô hình chủ nghĩa xã hội Xô Viết được xây dựng trên cơ sở chưa đủ chín muồi về cơ sở vật chất, nên trong thực tế đã vi phạm quy luật kinh tế khách quan quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Trong điều kiện lực lượng sản xuất chưa phát triển và còn ở nhiều trình độ khác nhau, nhưng đã vội vã xác lập quan hệ sản xuất công hữu và phương thức phân phối mang tính bình quân, bao cấp, từ đó hạn chế tính sáng tạo của cơ sở, của người lao động. Trong khi đó, các nước tư bản chủ nghĩa với nền kinh tế thị trường, lại tiếp nhận thành tựu của cuộc cách mạng khoa học công nghệ vào những năm 80 của thế kỷ XX nhanh hơn các nước XHCN nên nền kinh tế phát triển với tốc độ nhanh chóng, đã hình thành 3 trung tâm kinh tế lớn là Mỹ, Tây Âu và Nhật Bản. Để thoát khỏi khó khăn, khủng hoảng, các nước XHCN đều nhận thấy sự cần thiết là phải tiến hành cải cách. Ở Liên Xô, Tổng thống Gioocbachốp đưa ra một chương trình thay đổi quan trọng gọi là chương trình cải tổ với nội dung là “cơ cấu lại” cả về chính trị, kinh tế và “công khai hóa” để cho nhân dân hiểu rõ 13 tình hình đất nước và tự do phát biểu về những chính sách chủ trương của Đảng và Nhà nước. Tuy nhiên, trong cải tổ, Đảng Cộng sản Liên Xô đã mắc sai lầm rất nghiêm trọng về đường lối chính trị, tư tưởng và tổ chức, Đảng không coi trọng kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với thực tiễn nước mình và đặc điểm thời đại, không coi trọng việc kế thừa, bổ sung và phát triển lý luận mácxít; hoặc là giáo điều, rập khuôn máy móc, không căn cứ vào tình hình mới để phát triển sáng tạo; đánh giá không công bằng với lịch sử, từ chỗ phê phán sai lầm của cá nhân đi đến phủ nhận toàn bộ lịch sử của Đảng và của nhà nước, phủ định chế độ XHCN, phủ định chủ nghĩa Mác-Lênin để cuối cùng đi theo con đường chủ nghĩa xã hội dân chủ. Về tổ chức, chế độ tập trung trong Đảng bị phá hoại, không những làm cho Đảng mất khả năng của bộ chỉ huy chiến đấu mà ngay mâu thuẫn trong đảng cũng không giải quyết nổi. Tính chất quan liêu, giáo điều bảo thủ rất nặng nề ở bộ phận lãnh đạo cấp cao của Đảng và nhà nước tác động to lớn đến đời sống xã hội. Nhân danh cải tổ với khẩu hiệu dân chủ hoá, công khai hóa trong bộ phận lãnh đạo cấp cao đã hình thành các phe nhóm. Với chiêu bài phi chính trị lực lượng vũ trang, quân đội có nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc chứ không thuộc đảng phái nào để tách lực lượng vũ trang khỏi sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, từng bước vô hiệu hoá và giải tán Đảng Cộng sản. Sự phân liệt Đảng Cộng sản thành các phe nhóm chính trị khác nhau, nhiều tổ chức, đảng phái chính trị ra đời đấu tranh giành quyền lực chính trị. Đồng thời, lợi dụng chính sách cải tổ này, những lực lượng chống đối, đòi cải cách vẫn nằm im chờ đợi, không bộc lộ công khai, nay được dịp bung ra và hoạt động rất tích cực. Với các nước Đông Âu, ngay từ những năm 1960, Chính phủ Kennơđi đã chủ trương tiến hành “diễn biến hòa bình” đối với các nước XHCN, cho rằng cần phải có sự phân biệt đối xử giữa Liên Xô với các nước Đông Âu, từng bước, thận trọng, một cách hòa bình thúc đẩy các nước Đông Âu xây dựng quan hệ chặt chẽ hơn với phương Tây. 14 Năm 1985, Liên Xô đã bước vào cải tổ, tuy rằng quá muộn, nhưng các nước Đông Âu vẫn chưa hề chuyển động: Anbani vẫn bảo thủ giữ nguyên những cơ chế cũ của 30 năm trước đây và "khép kín cửa" đối với bên ngoài; các nhà lãnh đạo Rumani, Cộng hoà dân chủ Đức, Bungari thì cho rằng nước mình chẳng có gì sai sót để cải tổ hoặc cải cách; ở Ba Lan, ngay từ đầu những năm 80, tình hình kinh tế, chính trị, xã hội đã trở nên căng thẳng, phức tạp; ở Hunggari, Tiệp Khắc, các thế lực chống chủ nghĩa xã hội ráo riết tập hợp lực lượng, chờ đợi cơ hội. Ở một số nước Đông Âu, hiện tượng tách rời quần chúng và tha hoá của một số nhà lãnh đạo Đảng, Nhà nước đã làm biến dạng chế độ XHCN ở các nước này và làm nhân dân rất bất bình. Cuộc khủng hoảng nổ ra sớm nhất ở Ba Lan, từ cuối năm 1988, sau đó lan sang Hunggari, Tiệp Khắc, Cộng hoà dân chủ Đức, Rumani, Bungari, Nam Tư, Anbani. Các thế lực chống chủ nghĩa xã hội, với sự tiếp sức của các nước phương Tây, ra sức hoạt động, kích động công nhân bãi công, quần chúng biểu tình, đấu tranh đòi Đảng và Nhà nước các nước Đông Âu phải cải cách kinh tế, chính trị, thực hiện chế độ đa nguyên về chính trị, xoá bỏ độc quyền lãnh đạo của một Đảng Cộng sản, tiến hành tổng tuyển cử tự do... Những hoạt động trên làm tê liệt mọi sinh hoạt của đất nước, đẩy chế độ XHCN lâm vào cuộc khủng hoảng toàn diện và trầm trọng. Đảng và Nhà nước các nước Đông Âu lần lượt buộc phải chấp nhận xoá bỏ độc quyền lãnh đạo của Đảng Cộng sản, thực hiện chế độ đa nguyên và tiến hành tổng tuyển cử tự do. Kết quả, qua tổng tuyển cử, ở hầu hết các nước Đông Âu (Ba Lan, Hunggari, Tiệp Khắc, CHDC Đức), các thế lực chống chủ nghĩa xã hội đều đã thắng cử, nắm được chính quyền Nhà nước, còn Đảng Cộng sản bị thất bại, để rơi mất chính quyền khỏi tay mình. Ở Bungari, Nam Tư, Anbani, lúc này chính quyền tuy còn ở trong tay Đảng của giai cấp công nhân, nhưng khủng hoảng vẫn tiếp diễn ngày càng thêm trầm trọng: nội chiến đã diễn ra trong nội bộ Liên bang Nam Tư giữa các nước cộng hoà Croatia, Xecbia; chính quyền ở Bungari, 15 Anbani đang lâm vào khủng hoảng sâu sắc trước những cuộc bãi công của công nhân, biểu tình của quần chúng và tình hình kinh tế trở nên ngày càng khó khăn, căng thẳng. Như thế, trong những năm 1989 - 1991, cuộc khủng hoảng của CNXH ở các nước Đông Âu đã dẫn tới những biến đổi lớn: Ba Lan, Hunggari, Tiệp Khắc... quay trở lại đi theo con đường tư bản chủ nghĩa; CHDC Đức sáp nhập vào Cộng hoà liên bang Đức để trở thành một quốc gia thống nhất với tên Cộng hoà liên bang Đức; hầu hết các đảng của giai cấp công nhân ở các nước Đông Âu đều đổi tên đảng và chia rẽ thành nhiều phe phái, nhiều tổ chức với tên gọi khác nhau; tên nước, quốc kì, quốc huy và ngày quốc khánh đều phải thay đổi lại. Chính sách cải tổ của Liên Xô ảnh hưởng rất lớn đến các nước Cộng hòa trong Liên bang Cộng hòa Xô Viết trước đây từng phải chịu đựng hậu quả của chính sách dân tộc hẹp hòi. Công cuộc cải tổ đã góp phần thúc đẩy tinh thần dân tộc. Khuynh hướng dân tộc ly khai nảy sinh, những cuộc xung đột đẫm máu xảy ra tạo môi trường cho các lực lượng phản động trỗi dậy, xã hội mất phương hướng, gây thảm hoạ cho nhân dân. Những nhân tố trên là tiền đề cho sự tan vỡ không tránh khỏi của Nhà nước Liên bang Xô Viết. Đại hội Đại biểu nhân dân họp ngày 5/9/1991, lập Chính phủ quá độ nhưng không ngăn chặn được khuynh hướng ly khai của các nước Cộng hòa. Ngày 21/12/1991, Liên Xô tuyên bố giải thể, 15 nước Cộng hòa trở thành các quốc gia độc lập. Sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu là một tổn thất chưa từng có trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, dẫn đến hệ thống mang tính thế giới của các nước XHCN không tồn tại nữa. Nó đã tạo ra những hẫng hụt đột ngột trong quan hệ đối ngoại và gây ảnh nưởng không tốt tới công tác chính trị, tư tưởng ở mỗi nước. Các thế lực thù địch bên ngoài cũng nhân cơ hội này tăng cường các hoạt động chống phá cách mạng hai nước, chia rẽ quan hệ Việt Nam - Lào. 16 Sự sụp đổ của hệ thống các nước XHCN trên thế giới đã dẫn đến sự giải thể của trật tự thế giới hai cực Ianta được thành lập từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Mặt khác, việc huy động ngân sách quốc phòng quá lớn đã ảnh hưởng đến các chương trình phát triển kinh tế và nâng cao đời sống của nhân dân Liên Xô và Mỹ. Trong khi đó, các nước khác (Pháp, Đức, Nhật…) đã tận dụng những thành tựu mới của khoa học - kỹ thuật, làm cho họ ngày càng tiến bộ vượt bậc và trở thành những đối thủ cạnh tranh của Liên Xô và Mỹ. Mặt khác, cùng với sự thịnh vượng về kinh tế, các trung tâm kinh tế quốc tế và cường quốc khu vực cũng đang gắng sức tạo cho mình một vị thế có lợi hơn để chia sẻ quyền lực chi phối đời sống chính trị quốc tế. Cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật với những thành tựu to lớn của nó đã khiến cho nền kinh tế thế giới ngày càng được quốc tế hoá cao, đã hình thành một thị trường toàn thế giới bao gồm tất cả các nước có chế độ xã hội khác nhau vừa đấu tranh, vừa hợp tác với nhau trong cùng tồn tại hoà bình. Mặt khác, sự giao lưu, trao đổi về văn hoá, du lịch, văn học nghệ thuật, sự hợp tác với nhau trên các lĩnh vực y tế, dân số, giáo dục, khoa học - kỹ thuật giữa các quốc gia các dân tộc trên hành tinh ngày càng phát triển và ngày càng gắn bó chặt chẽ với nhau hơn. Chính vì vậy, xu thế hòa bình, hợp tác và phát triển đã trở thành xu thế chủ đạo, chi phối mọi quan hệ quốc tế. Trong đó, kinh tế đã trở thành nhân tố quyết định trong sức mạnh tổng hợp của các quốc gia và là động lực chính của xu thế khu vực hóa và toàn cầu hóa. Quan hệ quốc tế trở nên năng động, linh hoạt trước những đòi hỏi của tình hình mới. Tất cả các quốc gia dù lớn hay nhỏ, phát triển hay đang phát triển đều phải điều chỉnh chiến lược đối nội và đối ngoại nhằm tạo cho mình một vị thế có lợi trong trật tự quốc tế mới đang hình thành. Vị trí quốc tế của mỗi nước ngày càng phụ thuộc vào sức mạnh kinh tế hơn là sức mạnh quân sự. Các nước đều giành ưu tiên cho phát triển kinh tế, coi kinh tế có ý nghĩa quyết định đối với việc tăng cường sức mạnh tổng hợp của quốc gia. Lợi ích kinh tế đã trở thành động lực chính trong 17 quan hệ quốc tế song phương và đa phương, là động lực thúc đẩy các nước cải thiện và phát triển quan hệ hợp tác. Tình hình chính trị ở khu vực Đông Nam Á cũng diễn ra hết sức phức tạp, xoay quanh chủ yếu “vấn đề Campuchia”. Trước năm 1986, đặc biệt từ năm 1979 đến 1983, quan hệ giữa ASEAN và ba nước trên bán đảo Đông Dương căng thẳng nhất từ trước đến nay. Các nước trong khu vực đều không hiểu được thiện chí trong việc Việt Nam giúp nhân dân Campuchia đánh đổ chế độ diệt chủng Pôn Pốt - IêngXari, mà lo ngại rằng sau khi thắng Pôn Pốt, Việt Nam sẽ xâm phạm chủ quyền của họ. Tất cả các nước ASEAN đã dẹp những bất đồng trước đây để cấu kết với nhau chống ba nước Đông Dương, trong đó Thái Lan được coi là nước đi đầu. Chính sách này cũng được sự hỗ trợ và khuyến khích của Mỹ, Trung Quốc và các thế lực phản động khác. Tuy nhiên, trong nội bộ các nước ASEAN cũng có sự phân hóa rõ rệt, một số nước chủ trương dựa vào Trung Quốc để gây sức ép toàn diện với Việt Nam; một số nước lại tỏ ra lo ngại về nguy cơ cơ bản và lâu dài là Trung Quốc đối với khu vực, và do đó chủ trương đối thoại với Việt Nam nhằm tìm một giải pháp chính trị cho vấn đề Campuchia (như Inđônêxia, Malaixia). Tại hội thảo “Hòa bình, ổn định và hữu nghị ở Đông Nam Á”; một đại biểu Inđônêxia đã nhấn mạnh: “Các nước Đông Nam Á gánh lấy trách nhiệm và ổn định của mình. Nếu tất cả các nước Đông Nam Á thực sự muốn duy trì hòa bình và ổn định ở khu vực thì tất cả chúng ta phải dựa vào chúng ta, chứ không phải để người khác kiểm soát khu vực của chúng ta” [ 1; tr 111]. Đứng trước tình hình căng thẳng đó, Việt Nam vừa đấu tranh với ASEAN về vấn đề Campuchia, vừa triển khai đấu tranh ngoại giao, gắn việc giải quyết vấn đề Campuchia với việc xây dựng khu vực hòa bình, ổn định ở Đông Nam Á, thúc đẩy đối thoại để đẩy lùi đối đầu, phân hóa liên minh chống Việt Nam. 18 Từ năm 1986, trong bối cảnh quan hệ quốc tế ngày càng được mở rộng, nhu cầu đảm bảo hòa bình để phát triển kinh tế ngày càng cấp thiết. Đặc biệt là do những cố gắng, thiện chí của Việt Nam trong việc giải quyết “vấn đề Campuchia”. Ở Thái Lan, Thủ tướng Xatxai Chunhavan đã tuyên bố quan điểm của Chính phủ mới về “vấn đề Campuchia” trong một mệnh đề nổi tiếng “biến Đông Dương từ chiến trường thành thị trường” đã trở thành bước ngoặt căn bản trong quan hệ Thái Lan - Việt Nam nói riêng và quan hệ Việt Nam - ASEAN nói chung, thực hiện giải quyết “vấn đề Campuchia” theo hướng đối thoại, hòa bình. Quan hệ giữa ASEAN và Việt Nam có chiều hướng phát triển tốt đẹp. Để thúc đẩy việc tiến tới một giải pháp chính trị cho vấn đề Campuchia, tháng 9-1989, quân tình nguyện Việt Nam đã chủ động và đơn phương rút khỏi Campuchia. Sau nhiều năm thương lượng, các bên Campuchia đã đi đến thoả thuận thành lập Hội đồng dân tộc tối cao Campuchia (SNC) do Xihanúc làm Chủ tịch. Ngày 23-10-1991, tại Hội nghị quốc tế về Campuchia, tổ chức ở Paris, Hiệp định về một giải pháp chính trị toàn diện cho cuộc xung đột Campuchia đã được ký kết. Căn cứ vào Hiệp định Paris về vấn đề Campuchia, dưới sự giám sát của Liên Hợp Quốc, từ ngày 23 đến ngày 27-5-1993, cuộc bầu cử Quốc hội lập hiến được tiến hành ở Campuchia. Ngày 21-9-1993, Quốc hội đã thông qua Hiến pháp mới, thiết lập nền quân chủ lập hiến. Xihanúc trở lại ngai vàng sau 38 năm từ bỏ; Hunxen (Đảng Nhân dân Cămpuchia) và N.RanaRiddh (Mặt trận thống nhất dân tộc vì một nước Campuchia độc lập, trung lập, hoà bình và hợp tác, viết tắt là FUNCINFEC) làm đồng Thủ tướng. Khơme đỏ tự mình loại khỏi quá trình hoà giải dân tộc và đi đến chỗ diệt vong. Nhân dân Campuchia bước vào một thời kỳ mới với nhiều thử thách mới. Những nỗ lực trong việc giải quyết “vấn đề Campuchia” là một trong những nguyên nhân để các nước ASEAN bắt đầu phát triển các quan hệ song 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan