ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
NGUYỄN THỊ THU TRANG
ĐẢNG ỦY CÔNG AN TRUNG ƯƠNG LÃNH ĐẠO
PHONG TRÀO HỌC TẬP, THỰC HIỆN SÁU ĐIỀU
BÁC HỒ DẠY CÔNG AN NHÂN DÂN
(NĂM 1998 – NĂM 2008)
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
HÀ NỘI - NĂM 2009
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
NGUYỄN THỊ THU TRANG
ĐẢNG ỦY CÔNG AN TRUNG ƯƠNG LÃNH ĐẠO
PHONG TRÀO HỌC TẬP, THỰC HIỆN SÁU ĐIỀU
BÁC HỒ DẠY CÔNG AN NHÂN DÂN
(NĂM 1998 – NĂM 2008)
CHUYÊN NGÀNH LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
MÃ SỐ: 60 22 56
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
Người hướng dẫn khoa học: PGS. LÊ MẬU HÃN
HÀ NỘI - NĂM 2009
2
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
4
1. Tính cấp thiết của đề tài
4
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
7
3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu
7
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
8
5. Sự đóng góp của luận văn
8
6. Cấu trúc luận văn
9
Chương 1: Phong trào Công an nhân dân học tập, rèn luyện về
10
“Tư cách người công an cách mệnh” (1948-1997)
1.1 Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về “Tư cách người công an cách mệnh”
10
1.2. Công an nhân dân học tập, vận dụng quan điểm về “Tư cách người công
23
an cách mệnh” (1948-1997)
Chương 2: Đảng ủy Công an Trung ương lãnh đạo phong trào học
45
tập, rèn luyện tư cách người công an nhân dân trong thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa (1998 – 2008)
2.1.
Lực lượng Công an nhân dân đẩy mạnh việc rèn luyện phẩm chất đạo đức
45
và bản lĩnh chính trị của cán bộ, chiến sĩ trong tình hình mới (1998-2003)
2.2
Phong trào Công an nhân dân thi đua thực hiện khẩu hiệu “Công an nhân
60
dân vì nước quên thân, vì dân phục vụ” (2003-2008)
Chương 3: Thành tựu, hạn chế và những kinh nghiệm chủ yếu
75
3.1. Thành công, hạn chế của phong trào
75
3.2. Bài học kinh nghiệm chủ yếu và một số kiến nghị
92
Kết luận
108
Tài liệu tham khảo
111
Phụ lục
116
3
DANH MỤC VIẾT TẮT
CAND: Công an nhân dân
XHCN : xã hội chủ nghĩa
CNXH: chủ nghĩa xã hội
4
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Công an nhân dân (CAND) là lực lượng vũ trang trọng yếu của Nhà
nước, của nhân dân nên Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt chú ý đến việc giáo dục,
rèn luyện CAND về phẩm chất đạo đức cách mạng. Người luôn nhắc nhở mỗi
cán bộ, chiến sĩ công an phải ý thức đầy đủ vị trí và trách nhiệm của mình trước
nhân dân, trước Đảng, trước Chính phủ. Người đã xác định: “Đối với nhân dân,
đối với Đảng, với cách mạng xã hội chủ nghĩa, trách nhiệm của công an là rất
lớn, rất nặng nề” [48, tr.31] và “Nhiệm vụ của công an thì nhiều, nhưng nói tóm
tắt là bảo vệ sự nghiệp xã hội chủ nghĩa” [48, tr.447]. Để lực lượng CAND làm
tròn nhiệm vụ to lớn, đáp ứng được lòng tin cậy của nhân dân, của Đảng, của
Chính phủ, việc rèn luyện tư cách đạo đức là điều kiện tiên quyết.
Vì vậy, trong mọi hoàn cảnh, khi đến thăm các đơn vị công an, hay lúc
dự các hội nghị của lực lượng công an, trong các thư, điện, chúc mừng, thăm
hỏi cán bộ, chiến sĩ công an, Người luôn động viên, nhắc nhở cán bộ, chiến sĩ
công an phải thường xuyên rèn luyện tư cách, phẩm chất của người công an
cách mạng. Trong thư gửi đồng chí Hoàng Mai (lúc đó là Giám đốc Sở Công an
Khu XII), ngày 11-3-1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định rõ “Tư cách
người công an cách mệnh” gồm 6 điều là:
“Đối với tự mình, phải cần, kiệm, liêm, chính.
Đối với đồng sự, phải thân ái, giúp đỡ.
Đối với Chính phủ, phải tuyệt đối trung thành.
Đối với nhân dân, phải kính trọng, lễ phép.
Đối với công việc, phải tận tụy.
Đối với địch, phải cương quyết, khôn khéo.” [44, tr.406].
5
Lực lượng CAND thường gọi 6 điều đó là: 6 điều Bác Hồ dạy CAND.
Trong luận văn này, tôi xin được dùng cụm từ “Tư cách người Công an cách
mệnh” mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết trong thư.
Sáu điều về “Tư cách người Công an cách mệnh” của Chủ tịch Hồ Chí
Minh dạy là kim chỉ nam cho hành động của mỗi cán bộ, chiến sĩ CAND trong
suốt gần 60 năm qua. Có thể khẳng định rằng, ở đâu và khi nào mà mỗi cán bộ
công an quán triệt và chiến đấu, rèn luyện theo 6 điều dạy trên, khi đó an ninh
trật tự được đảm bảo, công an được nhân dân tin yêu, Đảng, Chính phủ tin cậy.
Sáu điều về “Tư cách người Công an cách mệnh” đã trở thành linh hồn, là ngôi
sao dẫn đường cho mỗi cán bộ, chiến sĩ công an trong cuộc chiến đấu thầm lặng
bảo vệ Đảng, bảo vệ nhân dân, bảo vệ chính quyền cách mạng, trong những
tháng năm (1945-1946), trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ
(1946-1975) và trong thời kỳ đầu xây dựng CNXH.
Trong Kế hoạch số 81/KH/ĐU(X15) ra ngày 30-06-2003 về “Đẩy mạnh
nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh trong lực lượng
CAND”, Đảng uỷ Công an Trung ương đã chỉ rõ: “Các đơn vị làm công tác tư
tưởng, lý luận, cơ quan nghiên cứu khoa học, các Học viện, nhà trường cần có
chương trình, các đề tài nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm góp phần làm
sáng tỏ những vấn đề mới, sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong lĩnh vực
bảo vệ an ninh trật tự và xây dựng lực lượng CAND chính quy, tinh nhuệ và
từng bước hiện đại…”[8, tr.3].
Ngày 07-11-2006, Bộ Chính trị khoá X ra Chỉ thị số 06-CT/TW về tổ
chức cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”
trong đó một lần nữa khẳng định: phải “làm cho toàn Đảng, toàn dân nhận thức
sâu sắc những nội dung cơ bản và giá trị to lớn của tư tưởng đạo đức và tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh. Tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về ý thức tu dưỡng,
rèn luyện và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong toàn xã hội, đặc
biệt là trong cán bộ, đảng viên, công chức, đoàn viên, thanh niên, học sinh…”,
6
từ đó nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng, ý thức tổ chức kỷ luật, ý thức
trách nhiệm, ý thức phục vụ nhân dân; khắc phục những thiếu sót khuyết điểm,
yếu kém, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, quan liêu, tham nhũng, lãng phí…
Trước bối cảnh mới của đất nước, vấn đề an ninh trật tự đang đặt ra yêu
cầu cao hơn, nhiệm vụ của các cán bộ, chiến sĩ công an càng nặng nề hơn, khó
khăn hơn. Trong tình hình mới, có nhiều nhân tố tích cực phát triển, số đông
cán bộ, chiến sĩ lực lượng công an được rèn luyện, thử thách, giữ được phẩm
chất, đạo đức cách mạng, phát triển được trình độ chuyên môn, kiến thức, năng
lực ngày càng cao. Tuy nhiên, trước mặt trái của nền kinh tế thị trường, những
nhân tố tiêu cực cũng có cơ hội phát triển. Thực tế là, trong thời gian qua, một
số cán bộ, chiến sĩ công an chưa phấn đấu giữ gìn tư cách người công an cách
mệnh, bị thoái hóa về chính trị, phẩm chất, đạo đức, lối sống, lợi dụng địa vị,
chức quyền, cơ hội, thực dụng… làm giảm uy tín, sức mạnh của công an đối với
Đảng, với nhân dân. Vì vậy, việc tiếp tục đẩy mạnh phong trào học tập, quán
triệt 6 điều về “Tư cách người Công an cách mệnh” là hết sức cần thiết, giúp
lực lượng CAND vươn lên tầm cao mới cả về trí tuệ, bản lĩnh và phẩm chất
cách mạng trong tình hình mới.
Nghiên cứu quá trình Đảng ủy Công an Trung ương lãnh đạo phong trào
học tập, thực hiện 6 điều Hồ Chủ tịch dạy CAND từ năm 1998 - 2008, tác giả
có điều kiện đánh giá tổng kết 60 năm thực hiện phong trào trong kháng chiến
chống Pháp, chống Mỹ và những năm đầu đổi mới. Hơn nữa, trước thực tiễn
cách mạng Việt Nam, tháng 09/1998 Bộ Công an đã ra Hướng dẫn số 640 - HD
“Về tiếp tục đẩy mạnh phong trào học tập, thực hiện Sáu điều Bác Hồ dạy
CAND trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, tạo
điều kiện để toàn lực lượng CAND tiếp tục phấn đấu, rèn luyện.
Nghiên cứu vấn đề trên để góp phần nhận thức sâu sắc hơn về ý nghĩa
thực tiễn của 6 điều Hồ Chủ tịch dạy về tư cách người công an cách mệnh, làm
sáng tỏ sự lãnh đạo phong trào rất đúng đắn, sáng suốt, sâu sát của Đảng ủy
7
Công an Trung ương đã tạo không khí thi đua sôi nổi trong toàn lực lượng suốt
gần 60 năm qua, là động lực làm nên những chiến công hiển hách, những đơn vị
điển hình, những cá nhân anh hùng. Đồng thời từ đó rút ra những kinh nghiệm
quý báu để trong thời gian tới, với nhiệm vụ mới, Đảng ủy Công an Trung ương
nói chung, Đảng bộ cơ sở nói riêng sẽ lãnh đạo, chỉ đạo phong trào sâu rộng
hơn nữa, đạt hiệu quả cao hơn nữa nhằm xây dựng lực lượng CAND cách
mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.
Đó là lí do tôi lựa chọn vấn đề: “Đảng ủy Công an Trung ương lãnh
đạo phong trào học tập, thực hiện 6 điều Bác Hồ dạy Công an nhân dân từ
năm 1998 - 2008” làm đề tài luận văn Thạc sĩ Lịch sử chuyên ngành Lịch sử
Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về lực lượng CAND, về an ninh trật
tự,… đã được tiến hành từ lâu và có những kết quả quan trọng. Trong các
nghiên cứu đó có một số công trình nghiên cứu về phong trào CAND học tập,
thực hiện sáu điều Hồ Chủ tịch dạy như: “Chủ tịch Hồ Chí Minh với ngành
CAND Việt Nam”; Kỷ yếu Hội thảo khoa học - thực tiễn “CAND thực hiện 6
điều Bác Hồ dạy trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước”; đề tài nghiên cứu về quá trình vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về tư
cách người CAND trong thời kỳ đổi mới... Nội dung các công trình nghiên cứu
chủ yếu tập trung làm rõ tính khoa học, tính nhân văn, tính cách mạng, tính biện
chứng, tính hoàn chỉnh của Sáu điều Bác Hồ dạy… Ở Đảng bộ cơ sở, địa
phương chủ yếu là các báo cáo tổng kết, đánh giá phong trào hàng năm.
Là một phong trào hoạt động sâu rộng trong toàn lực lượng CAND từ
năm 1948 đến nay nhưng chưa có công trình nghiên cứu nào đi sâu phân tích,
đánh giá quá trình Đảng ủy Công an Trung ương lãnh đạo phong trào CAND
học tập, thực hiện sáu điều Bác Hồ dạy dưới góc độ nghiên cứu lịch sử, đồng
8
thời đưa ra tổng kết những bài học kinh nghiệm và đề xuất một vài kiến nghị cụ
thể cho phong trào trong thời gian tới.
3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu
Mục đích của luận văn là làm rõ một bước yêu cầu về nhận thức và hành
động theo nội dung 6 điều Hồ Chủ tịch dạy về tư cách người công an cách
mệnh trong thời kỳ mới. Từ đó, tìm hiểu chủ trương đúng đắn, cụ thể và kết quả
quá trình Đảng ủy Công an Trung ương lãnh đạo phong trào học tập, thực hiện
6 điều Bác Hồ dạy từ năm 1998- 2008.
Những kinh nghiệm quý báu rút ra và những kiến nghị sẽ là giải pháp để
cán bộ, chiến sĩ rèn luyện phẩm chất đạo đức, nâng cao hiệu quả chiến đấu,
công tác trong các đơn vị công an từ Trung ương đến địa phương, cơ sở.
Để thực hiện mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ trình bày một cách
khoa học quá trình Đảng ủy Công an Trung ương lãnh đạo phong trào học tập,
thực hiện Sáu điều Hồ Chủ tịch dạy về tư cách người công an cách mệnh từ
năm 1998 - 2008. Nhiệm vụ đó bắt đầu từ việc thu thập, xử lý, tổng hợp các Chỉ
thị, Hướng dẫn, Kế hoạch, các báo cáo tổng kết của Đảng ủy Công an Trung
ương về phong trào học tập, thực hiện Sáu điều Bác Hồ dạy… Từ đó, luận văn
có nhiệm vụ rút ra những đánh giá, nhận xét về thành tựu, hạn chế và kinh
nghiệm trong quá trình lãnh đạo phong trào của Đảng ủy Công an Trung ương.
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
Đề tài thực hiện được dựa trên khá nhiều nguồn tư liệu. Trước hết là
những bài viết của các nhà kinh điển của Chủ nghĩa Mác- Lênin về xây dựng
con người mới xã hội chủ nghĩa; đặc biệt là những bài viết, bài nói của Chủ tịch
Hồ Chí Minh về lực lượng CAND, về đạo đức cách mạng….; các bài viết của
một số đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, lãnh đạo Bộ Công an đánh giá kết
quả phong trào. Bên cạnh đó, luận văn đã sử dụng những văn bản gốc chủ yếu
là Chỉ thị, Kế hoạch, Hướng dẫn… của Đảng ủy Công an Trung ương trong quá
trình lãnh đạo phong trào và các công trình nghiên cứu liên quan.
9
Phương pháp nghiên cứu chủ yếu của luận văn là phương pháp luận chủ
nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, phương pháp nghiên cứu
khoa học lịch sử nói chung, của chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt
Nam nói riêng. Cụ thể luận văn chủ yếu sử dụng phương pháp lịch sử, phương
pháp lôgic, sự kết hợp của hai phương pháp đó, ngoài ra luận văn còn thể hiện
có mức độ phương pháp thống kê, phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh…
5. Sự đóng góp của luận văn
Tác giả mong muốn luận văn sẽ cung cấp tài liệu được hệ thống hóa
nhằm làm rõ hơn về chủ trương, phương pháp cụ thể của Đảng ủy Công an
Trung ương trong quá trình lãnh đạo phong trào học tập, thực hiện Sáu điều Bác
Hồ dạy CAND từ năm 1998 - 2008. Những thành tựu cũng như hạn chế của
phong trào thời gian qua là cơ sở để Đảng ủy Công an Trung ương lãnh đạo
phong trào thành công hơn nữa trong thời gian tới. Đồng thời, một lần nữa,
khẳng định giá trị thực tiễn sâu sắc của Sáu điều Hồ Chủ tịch dạy về “Tư cách
người công an cách mệnh”.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn được
chia làm 3 chương:
Chương 1: : Phong trào Công an nhân dân học tập, rèn luyện về “Tư
cách người Công an cách mệnh” (1948-1997)
Chương 2: Đảng ủy Công an Trung ương lãnh đạo phong trào học
tập, rèn luyện tư cách người công an nhân dân trong thời kỳ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa (1998 – 2008)
Chương 3: Thành tựu, hạn chế và kinh nghiệm chủ yếu.
10
CHƯƠNG 1
PHONG TRÀO CÔNG AN NHÂN DÂN HỌC TẬP, RÈN LUYỆN
VỀ “TƯ CÁCH NGƯỜI CÔNG AN CÁCH MỆNH” (1948-1997)
1. 1. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về “Tư cách người Công an
cách mệnh”
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã đánh dấu bước ngoặt lịch sử vĩ đại với
cách mạng Việt Nam. Vừa mới ra đời, Đảng đã lãnh đạo và tổ chức một phong
trào đấu tranh của quần chúng rộng lớn mà đỉnh cao là Xô Viết Nghệ Tĩnh. Từ
trong cao trào đó, đã xuất hiện những Đội tự vệ đỏ gồm những người ưu tú, có
tinh thần hăng hái, can đảm trách nhiệm và có sức khỏe tốt được cử ra từ các
nông hội, công hội, đoàn thanh niên cộng sản… Những Đội tự vệ đỏ là hạt nhân
đầu tiên của lực lượng vũ trang cách mạng, của nhân dân do Đảng ta lãnh đạo.
Ngay từ khi mới ra đời, Đảng ta rất coi trọng công tác xây dựng lực lượng
chính trị và lực lượng vũ trang cách mạng. Đây là yếu tố cực kỳ quan trọng và
có ý nghĩa quyết định đến thắng lợi của cuộc đấu tranh cách mạng Việt Nam.
Tháng 3 năm 1935, Đại hội I của Đảng đã ra Nghị quyết về Đội Tự vệ. Đảng ta
đã khẳng định: “Không có một sản nghiệp nào, một làng nào có các cơ sở của
Đảng, của Đoàn, của các Hội quần chúng cách mạng mà không có tổ chức Đội
Tự vệ” [34, tr.199].
Trong cao trào kháng Nhật cứu nước từ tháng 3.1945 đến tháng 8.1945, cuộc
khởi nghĩa từng phần, giành chính quyền bộ phận đã diễn ra sôi nổi. Những nơi
chính quyền nhân dân đã thành lập, Đảng ta tổ chức thêm các Đội trừ gian, Tự
vệ thành, Tự vệ sắt…
Trong quá trình đấu tranh giành chính quyền, việc chiếm lĩnh và đập tan
công cụ đàn áp của giai cấp thống trị cũ và thiết lập công cụ mới của cách mạng
là vấn đề quan trọng nhất trong công tác đấu tranh để bảo vệ chính quyền non
trẻ mới thành lập. Thấy rõ tầm quan trọng đó, Đảng ta đã lãnh đạo xây dựng
11
một lực lượng nòng cốt, một đội quân xung kích, một cơ quan chuyên trách
vững về chính trị, có tổ chức chặt chẽ, tập hợp những người trung kiên nhất của
Đảng để làm nhiệm vụ đấu tranh bảo vệ Đảng, bảo vệ những thành quả cách
mạng đã giành được.
Thắng lợi của cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945, hệ thống chính quyền
cách mạng dân chủ của toàn dân đã được thành lập trong cả nước từ cơ sở đến
Trung ương. Ngày 2-9-1945, thay mặt Chính phủ nước Việt Nam dân chủ Cộng
hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã long trọng đọc bản Tuyên ngôn độc lập tuyên bố
trước quốc dân đồng bào và thế giới: nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã ra
đời. Quyền độc lập tự do của dân tộc Việt Nam được khẳng định trong Tuyên
ngôn độc lập đã đặt cơ sở pháp lý quan trọng đầu tiên của nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa. “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực
lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”[44, tr.4].
Nhà nước cách mạng vừa mới ra đời đã phải đối phó với tình thế “ngàn cân
treo sợi tóc”. Đó là nguy cơ “giặc đói”, “giặc dốt” và đặc biệt là giặc ngoại xâm
với sự xuất hiện của quân Tưởng, quân Anh, quân Pháp. Các loại phản động
trong nước cấu kết chặt chẽ với đế quốc bên ngoài hoạt động phá tan an ninh
trật tự, bạo loạn lật đổ chính quyền cách mạng nổi lên như bọn Việt quốc, Việt
cách…
Trước tình thế khó khăn của đất nước và yêu cầu bức thiết của cách mạng,
Đảng ta xác định: “ Nhiệm vụ cơ bản, trước mắt của cách mạng nước ta là củng
cố chính quyền dân chủ nhân dân, chống thực dân Pháp xâm lược, bài trừ nội
phản, cải thiện đời sống nhân dân” [35, tr.26-27].
Để thực hiện nhiệm vụ trọng đại và thiêng liêng đó, Chủ tịch Hồ Chí
Minh, Người xây dựng nền Cộng hòa Dân chủ Việt Nam, đã chăm lo xây dựng
các lực lượng vũ trang nhân dân, trong đó có lực lượng Công an Việt Nam, một
lực lượng nòng cốt thực hiện giữ gìn an ninh quốc gia, chống lại các lực lượng
phản động âm mưu lật đổ chế độ dân chủ nhân dân. Vì vậy, ngày 21-02-1946,
12
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trực tiếp ký Sắc lệnh số 23/SL thành lập “Việt Nam
Công an vụ” trên cơ sở hợp nhất các Sở Liêm phóng và Sở Cảnh sát trong toàn
quốc. Sắc lệnh xác định Việt Nam công an vụ có nhiệm vụ:
“- Tìm kiếm và tập trung các tin tức và tài liệu liên can đến sự an toàn
quốc gia, hoặc bề trong, hoặc bề ngoài.
- Đề nghị và thi hành các phương pháp đề phòng những sự hành động
có thể làm rối việc trị an và mất trật tự trong nước, bất cứ sự hoạt động đó là do
người Việt Nam hay người ngoại quốc.
- Điều tra về những hành động trái phép nói trên truy tầm người can
phạm để giúp toà án trong sự trừng trị” [69, tr.118].
Theo quy định của Sắc lệnh, Việt Nam Công an vụ do một Giám đốc
điều khiển dưới quyền chỉ huy trực tiếp của Bộ Nội vụ. Những Chánh, Phó
Giám đốc Việt Nam Công an vụ sẽ do Sắc lệnh của Chủ tịch Chính phủ Việt
Nam bổ nhiệm.
Tiếp theo Sắc lệnh số 23/SL, Bộ trưởng Bộ nội vụ Võ Nguyên Giáp đã
ký ban hành Nghị định số 121/NĐ quy định tổ chức Việt Nam Công an vụ
thành ba cấp: Công an Trung ương, Công an kỳ, Công an tỉnh. Công an Trung
ương gọi là Nha Công an Việt Nam, ở cấp kỳ gọi là Sở Công an, ở tỉnh gọi là
Ty Công an. Thực hiện Nghị định 121/NĐ, ở miền Bắc có Sở Công an Bắc Bộ,
ở miền Trung có Sở Công an Trung Bộ và ở miền Nam có Sở Công an Nam Bộ.
Ở cấp tỉnh và thành phố của cả nước đã đều lần lượt lập Ty Công an.
Sự kiện lịch sử ngày 21-02-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số
23/SL về việc thành lập Việt Nam Công an vụ để thực hiện những nhiệm vụ cơ
bản và trọng yếu về an ninh quốc gia và với một cơ cấu tổ chức có hệ thống
được thành lập trong toàn quốc, là một mốc son lịch sử ra đời của lực lượng
Công an cách mạng của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Ngày 16/02/1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh 141-SL đổi Nha
Công an Trung ương thành Thứ Bộ công an trực thuộc Hội đồng Chính phủ.
13
Đến tháng 8/1953, thấy rõ tầm quan trọng đặc biệt của công tác công an, Hội
đồng Chính phủ quyết định đổi tên Thứ Bộ Công an thành Bộ Công an và giao
cho đồng chí Trần Quốc Hoàn-ủy viên Trung ương Đảng làm Bộ trưởng.
Ngày trong năm đầu mới thành lập, Công an Việt Nam thực sự là một
công cụ sắc bén để giữ gìn an ninh quốc gia đã đánh bại các lực lượng phản
động chống lại nền Cộng hòa Dân chủ Việt Nam, góp phần quan trọng để giữ
vững chính quyền cách mạng, vượt qua tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, chuẩn
bị cùng cả nước đi vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
Thực dân Pháp đã khước từ thiện chí hòa bình của nhân dân ta, từng bước
lấn tới, đẩy ta vào tình thế không còn con đường nào khác buộc phải chủ động
bước vào cuộc chiến đấu bảo vệ độc lập, tự do, bảo vệ thành quả Cách mạng
tháng Tám. Ngày 19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát động cuộc kháng
chiến trong cả nước.
Hưởng ứng “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” của Người, dưới sự lãnh
đạo của Đảng, Chính phủ, lực lượng công an đã vượt qua khó khăn dành toàn
bộ lực lượng phục vụ đắc lực và có hiệu quả cuộc kháng chiến toàn dân, toàn
diện của nhân dân ta. Từ năm 1945-1948, trong quá trình đấu tranh cách mạng,
lực lượng CAND Việt Nam luôn luôn bám sát và phục vụ kịp thời mục tiêu,
nhiệm cách mạng do Đảng đề ra, đã kết hợp chặt chẽ đấu tranh chống thù trong,
giặc ngoài, đồng thời đảm bảo cứng rắn về nguyên tắc, khôn khéo mềm dẻo về
sách lược đã trấn áp kịp thời và hiệu quả mọi âm mưu thâm độc của bọn phản
cách mạng, bảo vệ vững chắc chính quyền dân chủ nhân dân. Trong cuộc chiến
đó, lực lượng công an đã lập nên những chiến công lớn.
Quán triệt chủ trương của Đảng, Công an các tỉnh đều thành lập “Đội
trừ gian”, “Đội danh dự trừ gian”, “Công an xung phong”, “Biệt động đội” để đi
sâu vào vùng địch nắm tình hình, diệt trừ bọn tề điệp nguy hiểm, phá chính
quyền địch, phá hoại âm mưu của địch, bảo vệ thành quả cách mạng đã đạt
được.
14
Công an các địa phương trên cả nước lập rất nhiều thành tích tiêu biểu
như Công an Sài Gòn, Công an Hải Phòng, Công an Hà Nội, Công an Hoà
Bình…
Một thành công lớn của Nha Công an Trung ương năm 1947 là đã phá vụ
án phố Ôn Như Hầu. Lực lượng công an đã lên kế hoạch cụ thể bố trí lực lượng
bí mật đột nhập trụ sở tại 132 Đuy-vi-nhô (nay là phố Bùi Thị Xuân) và số 7
phố Ôn Như Hầu (nay là phố Nguyễn Gia Thiều) của bọn phản động Quốc dân
Đảng. Kết quả là ta bắt được gần 100 tên phản động, thu toàn bộ các loại tài
liệu, truyền đơn, áp phích, súng, lựu đạn, dụng cụ làm bạc giả, dụng cụ tra tấn,
thuốc mê và đào được 6 xác người bị chúng giết chôn trong vườn… Đặc biệt, ta
thu được một bản tài liệu do chính Trương Tử Anh viết về kế hoạch lật đổ
Chính phủ Hồ Chí Minh nên đã kịp thời đập tan âm mưu và hoạt động của thực
dân Pháp cấu kết với bọn phản động tay sai định lật đổ Chính phủ ta.
Đánh giá thắng lợi trong các trận truy quét bọn phản cách mạng, đồng chí
Trường Chinh, Tổng Bí thư của Đảng viết: “Những vụ khám bắt trên đây có
một tác dụng vô cùng quan trọng,… Nó lôi ra ánh sáng… một bọn giả danh
chính trị, giả danh quốc gia, dân tộc và do đó, nó làm cho sự đoàn kết của các
đảng phái yêu nước và của toàn dân ngày một chặt chẽ thêm. Mấy cuộc khám
bắt vừa đây cắm một cái mốc trên con đường thống nhất dân tộc và biểu lộ sức
mạnh và uy tín của chính quyền nhân dân” [20, tr.106-107].
Ngày 25-1-1948, Hội nghị Công an toàn quốc lần thứ II được tổ chức tại
Tuyên Quang gồm 30 đại biểu đến dự. Hội nghị thống nhất tiếp tục củng cố bộ
máy công an gọn nhẹ, bí mật, phù hợp với tình hình mới.
Hội nghị Công an toàn quốc lần thứ II đã phát động trong toàn lực lượng
công an phong trào “Rèn cán bộ, lập chiến công”. Phong trào là một sinh hoạt
chính trị sôi nổi, tạo không khí hăng say, nhiệt tình trong công tác và chiến đấu
của cán bộ, chiến sỹ công an hoạt động trong lòng địch cũng như ở hậu phương,
căn cứ.
15
Để xây dựng bộ máy công an ngày càng vững mạnh, nâng cao trình độ
nghiệp vụ và chính trị cho cán bộ, chiến sỹ, ngày 21-2-1948, Nha Công an
Trung ương xuất bản nội san “Rèn luyện”. Nội san bao gồm những bài viết thiết
thực cho công tác chiến đấu và rèn luyện cán bộ. Đây là cơ quan ngôn luận duy
nhất lúc đó của Nha, đã tăng cường giáo dục, trao đổi kinh nghiệm chiến đấu
trong lực lượng công an nhân dân. Nội san có ý nghĩa nhằm rèn luyện cho công
an các cấp trong toàn quốc một tinh thần liên lạc, đoàn kết, tương thân, tương
ái, dẻo dai, bền bỉ, dân chủ, rèn luyện cho mỗi chiến sĩ Công an Việt Nam một
bản lĩnh cao cường, một tinh thần kỷ luật sắt đá song song với một tinh thần
chiến đấu bền bỉ. Những số nội san đầu tiên đơn giản, chỉ phát hành 14 bản
nhưng dần phát triển lên 320 bản, ra đều hàng tháng.
Cũng thời gian này, tại các địa phương, công an các Khu, các Ty cũng ra
những tờ nội san địa phương mình nhằm tăng cường công tác giáo dục chính trị,
nâng cao bản lĩnh chiến đấu, tuyên truyền và động viên tinh thần chiến đấu, trao
đổi và nêu gương điển hình trong công tác học tập và chiến đấu. Điển hình có
các nội san của công an Nam Định với tờ “Luyện tiến”, Công an Cao Bằng có
tờ “Kiến thiết”, Công an Sơn Tây có tờ “Cố gắng”, Công an Bắc Giang có tờ
“Tiến”, Công an Tuyên Quang có tờ “Trau dồi”, Công an khu IV có tờ “Rèn
luyện”…. Công an khu XII cũng xuất bản nội san “Bạn dân”. Một ngày đầu
xuân năm Mậu Tý (1948), tại căn cứ ATK, Bác Hồ nhận được tờ Nội san “Bạn
dân” số báo Tết của Công an khu XII do đồng chí Hoàng Mai, Giám đốc Công
an khu XII gửi tặng. Gửi tặng Bác Hồ số báo Tết, cán bộ, chiến sỹ vừa muốn
kính chúc Bác năm mới mạnh khoẻ để lãnh đạo quân và dân trong cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp và những chiến công của CAND ba miền đồng thời
vừa muốn xin ý kiến Bác về nội dung, hình thức, số lượng trang của tờ nội san.
Ngày 11-3-1948, Bác viết thư gửi trả lời đồng chí Hoàng Mai. Trong thư
Bác đã góp ý cụ thể về hình thức, số lượng trang báo: “…từ 24 đến 32 trang thì
dài quá. Cần làm ngắn lại và viết những vấn đề thật thiết thực, mọi người đọc
16
đều có thể hiểu và làm được. Như thế mới có tác dụng giúp đẩy mạnh công tác,
đẩy mạnh thi đua” [44, tr.406-407] . Trong thư, Người cũng căn dặn chung toàn
thể cán bộ, chiến sỹ công an phải biết dựa vào sức mạnh của quần chúng nhân
dân: “Trên báo, cần thường xuyên làm cho anh chị em công an nhận rõ công an
của ta là công an nhân dân, vì dân mà phục vụ và dựa vào nhân dân mà làm
việc” [44, tr.407]. Bác còn nêu: nhân dân ta có hàng chục triệu người, có hàng
mấy chục triệu tai mắt, tay chân. Nếu biết dựa vào dân thì việc gì cũng xong.
Người căn dặn: “Trên tờ báo phải luôn luôn nhắc nhở anh em rèn luyện tư cách
đạo đức. Tư cách người Công an cách mệnh là:
“Đối với tự mình, phải cần, kiệm, liêm, chính.
Đối với đồng sự, phải thân ái, giúp đỡ.
Đối với Chính phủ, phải tuyệt đối trung thành.
Đối với nhân dân, phải kính trọng, lễ phép.
Đối với công việc, phải tận tuỵ.
Đối với địch, phải cương quyết, khôn khéo”.
Nói tóm lại là những đạo đức và tư cách mà người Công an cách mệnh
phải có, phải giữ cho đúng” [44, tr.407].
Nhận thức sâu sắc tình cảm và sự quan tâm của Bác đối với lực lượng
CAND, ngay sau khi nhận thư Bác, Nha Công an Trung ương đã cho đăng nội
dung bức thư trên tờ Nội san “Rèn luyện”. Số báo được phát hành đông đảo
đến lực lượng CAND ở khắp ba miền, tạo niềm vui, động lực thúc đẩy công tác,
học tập và chiến đấu ở cán bộ, chiến sĩ.
Những điều Bác Hồ dạy CAND đã đi sâu vào thực tế công tác chiến đấu
của toàn lực lượng CAND, Nha Công an Trung ương đã quyết định mở cuộc
vận động thi đua nhân dịp kỷ niệm 58 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh
(19/05/1890 – 19/05/1948) làm ngày chính thức tổ chức phong trào thi đua học
tập và làm theo sáu lời dạy của Bác Hồ dưới hình thức lớp “Chỉnh huấn tập
17
trung” mà nội dung là “Tổng kiểm thảo” do Nha Công an tổ chức tại Rừng
Thông, thuộc huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hoá.
Lớp chỉnh huấn tập trung được mở đầu bằng hoạt động Lễ tuyên thệ của
đại biểu công an nguyện tuyệt đối trung thành với Tổ quốc và đăng ký học tập,
làm theo Sáu điều Bác Hồ dạy. Phía ngoài cửa các trại là một rừng cờ giăng,
biểu ngữ, panô dán hình Bác với dòng chữ “Kỷ niệm ngày sinh nhật”,”Học tập
làm theo lời Bác”, “Tư cách người Công an cách mệnh”…
Sau khi lễ tuyên thệ kết thúc, công an các khu toả về các nơi và được chia
làm 6 nhóm tượng trưng cho Sáu lời dạy của Bác. Mỗi nhóm cắm một trại. Mỗi
khu trại đều có panô, áp phích ghi Sáu điều Bác Hồ dạy để hàng ngày cán bộ,
chiến sĩ học tập và nguyện làm theo. Trong suốt quá trình sinh hoạt, với tinh
thần “Kiểm thảo thành thật”, cán bộ, chiến sĩ công an mỗi trại đều tổ chức đầu
buổi sáng học thuộc Sáu lời dạy của Bác, sau đó, từng địa phương kiểm điểm
kết quả công tác của mình, đánh giá những ưu điểm, hạn chế và rút kinh nghiệm
việc thực hiện những lời dạy của Bác.
Cuối đợt “Tổng kiểm thảo” có tổng kết, đánh giá tình hình và biểu dương
những địa phương có thành tích xuất sắc trong chiến đấu, học tập và công tác.
Hình thức lớp “chỉnh huấn tập trung” mà nội dung là “kiểm thảo thành
thật”, lần đầu tiên lực lượng CAND đã đưa việc học tập Sáu điều Bác Hồ dạy
thành chương trình hành động để rèn luyện tư cách đạo đức, phẩm chất năng
lực của người chiến sĩ công an. Đó là tiền đề của phong trào CAND học tập,
thực hiện Sáu điều Bác Hồ dạy trong suốt chặng đường xây dựng, chiến đấu và
trưởng thành của lực lượng CAND từ trong kháng chiến chống Pháp, chống
Mỹ, trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Ngày nay, những cán
bộ, chiến sĩ công an đang tiếp tục rèn luyện, tu dưỡng đạo đức tư cách theo Sáu
lời dạy của Bác Hồ kính yêu với tầm cao mới với nội dung và hình thức phong
phú hơn, phạm vi, quy mô sâu rộng hơn, phù hợp với tính chất đặc điểm của
mỗi thời kỳ lịch sử cụ thể.
18
Trong tư cách người công an cách mệnh, Hồ Chí Minh nêu ra 6 nhiệm vụ,
được khắc hoạ trong 3 mối quan hệ: đối với chính bản thân mình (đối với tự
mình); đối với người khác (Chính phủ, nhân dân, đồng sự, với địch); đối với
công việc, nhiệm vụ của mình. Ba mối quan hệ này vừa có tính độc lập, vừa có
quan hệ với nhau, tổng hòa với nhau hình thành nên bản chất người chiến sĩ
công an nhân dân Việt Nam.
Sáu điều Hồ Chủ tịch về tư cách người công an cách mệnh dạy thể hiện tính
toàn diện, mang tính nhất quán và chứa đựng triết lý nhân sinh sâu sắc về tư
cách, đạo đức, lối sống, tác phong công tác và trách nhiệm chính trị của mỗi
chiến sĩ công an. Đây là những định hướng cơ bản, có tính nguyên tắc trong chỉ
đạo công tác xây dựng lực lượng CAND trong suốt hơn 60 năm qua. Sáu điều
Bác Hồ dạy tư cách người công an cách mệnh thể hiện trên những nội dung
sau :
Một là, với bản thân, việc rèn luyện đạo đức cách mạng là yêu cầu trước
hết, là ưu tiên quan trọng nhất trong tư cách người cán bộ công an. Chủ tịch Hồ
Chí Minh cho rằng đạo đức của người cán bộ chiến sĩ công an trước hết là cần,
kiệm, liêm, chính là phẩm chất quan trọng đầu tiên, được đặt ở điều thứ nhất và
mang tính bao trùm toàn bộ tư cách người cán bộ công an cách mạng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, cần, kiệm, liêm, chính không phải là
một khẩu hiệu mà là một vấn đề hàng ngày phải quan tâm rèn luyện. Xem xét tư
cách người công an cách mạng phải đặt trong mối quan hệ biện chứng giữa
công việc chuyên môn và việc rèn luyện đạo đức cần, kiệm, liêm, chính. Cần
trước hết là thái độ đối với công việc, không nề hà việc lớn, việc nhỏ, bất kỳ
công tác gì cũng đều phải siêng năng, tăng năng suất lao động. Cần hoàn toàn
xa lạ với chủ nghĩa trung bình và thái độ làm việc cầm chừng, lề mề chậm chạp,
hành chính quan liêu. Kiệm ở đây mang nhiều nội dung mới, ý tưởng mới,
nhưng điều quan trọng nhất theo Chủ tịch Hồ Chí Minh là mỗi người cán bộ
công an phải hết sức tránh thói rườm rà, làm việc kiểu hành chính bàn giấy vừa
19
lãng phí thời giờ của nhân dân vừa lãng phí của cải của ngành và xã hội. Tiết
kiệm luôn đi đôi với chống tham ô, lãng phí, xa hoa, tiêu xài vung tay quá trán.
Chữ Liêm được Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cao. Người cán bộ phải tuyệt đối
không tham lam, lạm dụng của công, không tham lam quyền lực, danh vọng,
địa vị, tiền tài. Khi cách mạng thành công, các cán bộ, đảng viên tham gia cách
mạng đã có vị trí trong các cơ quan lớn của Đảng, có quyền hành trong chính
quyền, trong đoàn thể các cấp, hơn nữa, đất nước bước vào thời kỳ mới cũng
bắt đầu xuất hiện những mặt trái ảnh hưởng trực tiếp đến tư tưởng hành động
của các cán bộ, đảng viên. Con đường làm cách mạng không phải là con đường
để kiếm sống, để làm kinh tế, càng không phải là con đường mưu cầu lợi ích,
hạnh phúc cá nhân. Mọi biểu hiện sống bằng cách chiếm đoạt sức lao động của
nhân dân, của xã hội hoặc sử dụng của công quá tiêu chuẩn, không phù hợp với
mục đích của tập thể, thậm chí lợi dụng quyền lực, chức tước, địa vị, quyền
hành của cá nhân để mưu cầu lợi ích riêng … đều là bất Liêm. Khi người chiến
sĩ công an cách mạng phạm phải một trong những biểu hiện bất Liêm ấy thì họ
đã tự đào thải mình.
Đặt quan hệ với ‘tự mình’ lên hàng số một là vấn đề ý nghĩa thực tiễn rất
sâu sắc. Trước hết, người công an phải luôn đối diện với chính mình, tự mình
phải nêu gương, phải là kiểu mẫu, lấy đó làm gương cho cấp dưới, làm gương
cho nhân dân học tập, đi theo.
Do đặc thù công việc và hoạt động trong môi trường phức tạp của lực lượng
công an, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: việc đánh địch bên ngoài đã khó, đánh
địch bên trong còn khó khăn hơn. Vì vậy, việc thường xuyên nâng cao tính kỷ
luật tổ chức là một yêu cầu quan trọng bậc nhất trong tư cách người công an
nhân dân. Đối với người công an chân chính không có chỗ cho căn bệnh cá
nhân chủ nghĩa tồn tại. Vì chủ nghĩa cá nhân là một thứ vi trùng rất độc, do nó
mà sinh ra các thứ bệnh nguy hiểm: bệnh tham lam, bệnh lười biếng, bệnh kiêu
ngạo, bệnh hiếu danh, thiếu kỷ luật, óc hẹp hòi, địa phương, cục bộ, bệnh xu
20
- Xem thêm -