Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Đảng lãnh đạo xây dựng và phát triển quan hệ Việt Nam với CuBa (1960-1975)...

Tài liệu Đảng lãnh đạo xây dựng và phát triển quan hệ Việt Nam với CuBa (1960-1975)

.PDF
161
673
101

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ĐÀO THỊ KIM DUNG ĐẢNG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN QUAN HỆ VIỆT NAM VỚI CUBA (1960-1975) LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ HÀ NỘI - 2013 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ĐÀO THỊ KIM DUNG ĐẢNG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN QUAN HỆ VIỆT NAM VỚI CUBA (1960-1975) Chuyên ngành : Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam Mã số : 60 22 56 LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. NGUYỄN VIẾT THẢO HÀ NỘI - 2013 LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành bản luận văn này, bên cạnh những cố gắng của bản thân, tôi đã nhận được sự giúp đỡ tận tình của nhiều cá nhân, tập thể. Trước tiên, tôi xin bày tổ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS Nguyễn Viết Thảo. Thầy là người trực tiếp hướng dẫn tôi hoàn thành luận văn. Trong quá trình đó, thầy luôn tận tình đưa ra những chỉ dẫn khoa học, giúp đỡ, động viên để tôi hoàn thành luận văn. Đồng thời, tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới các anh, chị cán bộ của các cơ quan nơi tôi trực tiếp khai thác tư liệu phục vụ cho đề tài nghiên cứu như: Thư viện quân đội, Thư viện quốc gia, Trung tâm lưu trữ quốc gia III, Viện sử học, Thư viện trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn… Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn tới gia đình, bạn bè đã luôn quan tâm, động viên ủng hộ và giúp đỡ tôi trong quá trình hoàn thiện luận văn. Hà Nội, tháng 11 năm 2013 Tác giả Đào Thị Kim Dung DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BBT : Ban Bí thư BCT : Bộ Chính trị BCHTƯ : Ban Chấp hành Trung ương CHMNVN : Cộng hòa miền Nam Việt Nam CMDTDCND : Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân CNCS : Chủ nghĩa cộng sản CNĐQ : Chủ nghĩa đế quốc CNTB : Chủ nghĩa tư bản CNQTVS : Chủ nghĩa quốc tế vô sản CNTD : Chủ nghĩa thực dân CNXH : Chủ nghĩa xã hội CPCMLT : Chính phủ cách mạng lâm thời CTTG : Chiến tranh thế giới DCCH : Dân chủ cộng hòa ĐCS : Đảng Cộng sản ĐLĐVN : Đảng Lao động Việt Nam MTDTGPMNVN : Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam KHKT : Khoa học, kỹ thuật USD : Đô la Mỹ VNDCCH : Việt Nam Dân chủ cộng hòa TBCN : Tư bản chủ nghĩa XHCN : Xã hội chủ nghĩa MỤC LỤC MỞ ĐẦU ............................................................................................................................... 1 Chƣơng 1: ĐẢNG LÃNH ĐẠO THIẾT LẬP QUAN HỆ VIỆT NAM ĐOÀN KẾT CHIẾN ĐẤU VỚI CÁCH MẠNG CU BA TỪ NĂM 1960 ĐẾN NĂM 1965 ....... 8 1.1. Những yếu tố tác động tới việc thiết lập quan hệ Việt Nam với Cuba ..........8 1.1.1. Sự tương đồng về mục tiêu, nhiệm vụ của cách mạng hai nước ..............8 1.1.2. Bối cảnh quốc tế và chủ nghĩa quốc tế vô sản........................................20 1.2. Đƣờng lối đối ngoại của Đảng và chủ trƣơng thiết lập, củng cố quan hệ đoàn kết chiến đấu với cách mạng Cuba ...........................................27 1.2.1. Đường lối đối ngoại của Đảng ...............................................................27 1.2.2. Chủ trương thiết lập, củng cố quan hệ đoàn kết chiến đấu với cách mạng Cuba ........................................................................................................30 Chƣơng 2: ĐẢNG LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN QUAN HỆ VIỆT NAM VỚI CUBA TRONG CUỘC ĐẤU TRANH CHỐNG ĐẾ QUỐC MỸ TỪ NĂM 1965 ĐẾN NĂM 1975 ................................................................................................................. 45 2.1. Yêu cầu khách quan và điều kiện chủ quan để phát triển quan hệ Việt Nam với Cuba trong cuộc đấu tranh chống đế quốc Mỹ ........................45 2.1.1. Yêu cầu khách quan để phát triển quan hệ Việt Nam – Cuba ................45 2.1.2. Điều kiện chủ quan để phát triển quan hệ Việt Nam – Cuba trong cuộc đấu tranh chống đế quốc Mỹ ....................................................................51 2.2. Chủ trƣơng, sự chỉ đạo của Đảng tăng cƣờng phát triển quan hệ Việt Nam với Cuba trong cuộc đấu tranh chống đế quốc Mỹ ........................57 2.2.1. Những chủ trương, chính sách lớn .........................................................57 2.2.2. Những kết quả, thành tựu chủ yếu..........................................................63 Chƣơng 3: ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ 15 NĂM XÂY DỰNG, PHÁT TRIỂN QUAN HỆ VIỆT NAM - CUBA VÀ NHỮNG KINH NGHIỆM LỊCH SỬ ................ 99 3.1. Đánh giá chung về 15 năm xây dựng, phát triển quan hệ Việt Nam – Cuba ..................................................................................................................99 3.1.1. Xây dựng, củng cố, phát triển quan hệ Việt Nam – Cuba là một quá trình tích cực của cả hai Đảng, hai Nhà nước phù hợp xu thế thời đại và lợi ích của hai nước. .....................................................................................99 3.1.2. Đảng cộng sản Việt Nam là người khởi xướng, lãnh đạo toàn diện quá trình xây dựng và phát triển quan hệ Việt Nam – Cuba. Chủ trương và sự chỉ đạo thúc đẩy quan hệ với Cuba giai đoạn 1965-1975 vừa có sự thống nhất căn bản, vừa có sự phát triển so với giai đoạn 1960-1965. ..........103 3.1.3. Quan hệ Việt Nam – Cuba (1960 - 1975) là điển hình của tinh thần quốc tế vô sản trong sáng ...............................................................................107 3.2. Những kinh nghiệm lịch sử .......................................................................113 3.2.1. Đánh giá chính xác tình hình thực tiễn trong nước và quốc tế, chủ động xây dựng và phát triển quan hệ với Cuba ..............................................113 3.2.2. Chủ trương củng cố, thúc đẩy quan hệ với Cuba cần được gắn với chủ trương tăng cường đoàn kết quốc tế, tích cực góp phần vào thành công của cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước ...........................................116 3.2.3. Phát huy những thành tựu đã đạt được, coi trọng phát triển quan hệ với Cuba trong tương quan của các quan hệ quốc tế đa phương ...................120 KẾT LUẬN ....................................................................................................................... 122 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................ 125 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Quan hệ quốc tế luôn đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển của mỗi quốc gia trên thế giới. Sớm nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động đối ngoại, Đảng và Nhà nước ta đã vận dụng cao độ nhân tố này phục vụ mục tiêu giành độc lập, thống nhất toàn vẹn đất nước trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Sau khi lật đổ chế độ độc tài Batixta do Mỹ chi phối, nước Cộng hòa Cuba được chính thức thành lập ngày 1-1-1959. Đảng và nhân dân Cuba đã lựa chọn con đường cách mạng XHCN làm mục tiêu chiến lược để xây dựng và phát triển đất nước. Sự ra đời của nhà nước Cộng hòa Cuba đã đánh dấu bước phát triển quan trọng cho lịch sử Cuba và thế giới – một quốc gia đi theo con đường XHCN đầu tiên được thiết lập ở khu vực Mĩ Latinh. Mặc dù giành được độc lập, nhưng cho đến nay Cuba vẫn nằm trong vòng bao vây, cô lập của Mĩ, đất nước vẫn gặp nhiều khó khăn trong công cuộc xây dựng, phát triển đất nước. Việt Nam và Cuba mặc dù cách biệt nhau về địa lý, ngôn ngữ, văn hóa,...Nhưng hai đất nước lại có sự đồng mệnh: đều bị thực dân nô dịch; đều dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản hoàn thành các mục tiêu, nhiệm vụ chiến lược của mình; lựa chọn con đường XHCN để xây dựng, phát triển đất nước. Đó là cơ sở bước đầu để tạo dựng quan hệ hai nước. Với những hoạt động tích cực của hai Đảng và Nhà nước, quan hệ hai nước sớm được thiết lập, ngày 2-12-1960 quan hệ Việt Nam – Cuba chính thức được thiết lập ở cấp đại sứ. Sự kiện đó đã mở ra trang mới cho lịch sử quan hệ hai nước, góp phần tích cực vào sự phát triển của cách mạng mỗi nước. Quan hệ hai nước đã trải qua những thời kỳ phát triển khác nhau. Trong kháng chiến chống Mĩ: từ 1960 – 1965 là giai đoạn xây dựng và củng cố quan hệ hai nước và đã để lại những dấu ấn nhất định; từ 1965-1975 mặc dù bối cảnh quốc tế có nhiều biến động phức tạp đặc biệt trong hệ thống các nước XHCN, nhưng quan hệ của hai nước vẫn tiếp tục phát triển lên một tầm cao mới và đã tác động lớn đến cách mạng hai nước, đồng thời tác động đến vị thế hai nước trên trường quốc tế. Từ 1975 – nay quan hệ hai nước tiếp tục được phát triển sâu rộng, Cuba vẫn tiếp tục là người bạn thân thiết của nhân dân Việt Nam. 1 Như vậy, thời kỳ 1960 – 1975 là thời kỳ xây dựng, củng cố và phát triển quan hệ Việt Nam với Cuba, tạo nền tảng quan trọng để phát triển hơn nữa quan hệ hai nước sau này. Vì thế việc nghiên cứu tổng thể những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong quan hệ với Cuba những năm 1960-1975, từ đó rút ra những đánh giá, nhận xét, kinh nghiệm phục vụ hiện tại có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. Góp phần tiếp tục phát triển quan hệ hai nước, đưa mối quan hệ hai nước lên tầm cao mới. Xuất phát từ ý nghĩa đó, chúng tôi lựa chọn đề tài: “Đảng lãnh đạo xây dựng và phát triển quan hệ Việt Nam với Cuba (1960 – 1975)”. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Trong phạm vi đề tài, đến nay chưa có một công trình chuyên luận nào được công bố, nhưng đã có nhiều công trình liên quan được công bố. Có thể phân chia các công trình nghiên cứu thành các nhóm như sau: Công trình nghiên cứu của các nhà khoa học trong nƣớc - Nhóm công trình liên quan đến đề tài nghiên cứu + Tài liệu về ngoại giao và quan hệ quốc tế: “Thắng lợi có tính chất thời đại và cuộc đấu tranh trên mặt trận đối ngoại của nhân dân ta, (Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1985)”; “Mặt trận ngoại giao thời kỳ chống Mỹ cứu nước”(Nguyễn Duy Trinh, Nxb Sự thật, Hà Nội); “Quan hệ quốc tế 1945-1995”(Hoàng Văn Hiển, Nguyễn Viết Thảo, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998)...Đây là nhóm công trình gồm các loại sách chuyên khảo, tham khảo. Nội dung chủ yếu các tác giả tập trung trình bày là những nét lớn, tổng quan về đường lối đối ngoại, chủ trương, chính sách của Đảng trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống đế quốc Mĩ cứu nước; giai đoạn xây dựng và bảo vệ đất nước sau này. Đồng thời, trình bày những hoạt động ngoại giao trên nhiều phương diện, phản ánh sự vận động, phát triển của nền ngoại giao Việt Nam qua các giai đoạn lịch sử. Trong một số cuốn sách, các tác giả có đề cập sơ lược quan hệ Việt Nam – Cuba. Tuy nhiên, chưa đi sâu vào nghiên cứu những chủ trương, chính sách cụ thể của Đảng nhằm xây dựng, củng cố và thúc đẩy quan hệ ngoại giao Việt Nam – Cuba giai đoạn 1960-1975. + Về tư tưởng ngoại giao của Hồ Chí Minh: “Bác Hồ nói về ngoại giao” (Học viện quan hệ quốc tế, 1994); “Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh” (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002 ); “Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa quốc tế vô sản” 2 (Vũ Quang Vinh, Tạp chí Lý luận chính trị, số 7, 2005)…Đây là những công trình nghiên cứu có số lượng lớn, đóng góp quan trọng vào việc làm rõ những tư tưởng chủ đạo của Hồ Chí Minh về ngoại giao, sự vận dụng những tư tưởng đó của Đảng vào thực tiễn cách mạng Việt Nam qua các thời kỳ. Đại hội VII(1991) khẳng định “lấy chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho cách mạng Việt Nam”. Những chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước 1959-1975 được các tác giả đề cập trong nội dung vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về ngoại giao. Đó là những cơ sở nền tảng, gợi mở giúp tác giả triển khai nội dung nghiên cứu. - Nhóm công trình trực tiếp viết về quan hệ ngoại giao Việt Nam – Cuba qua các thời kỳ. + Sách báo của các tác giả trong nước: “Quá trình hình thành và phát triển phong trào ủng hộ Việt Nam ở Cuba giai đoạn 1959-1975”(Nguyễn Ngọc Mão, Luận án PTSLS, 1995); Lịch sử quan hệ Việt Nam – Cuba (1959-2005) (Nguyễn Trinh Nghiệu, Luận án TSLS, 2009.); “Việt Nam-Cu Ba: Quan hệ truyền thống, mẫu mực, thuỷ trung” (Nguyễn Khắc Sứ, Tạp chí Cộng sản, Số 23, 2005.);….Đây là nguồn tư liệu khá phong phú, nghiên cứu trực tiếp quan hệ Việt Nam – Cuba trên nhiều phương diện khác nhau. Tiêu biểu là cuốn luận án “Quá trình hình thành và phát triển phong trào ủng hộ Việt Nam ở Cuba giai đoạn 1959-1975” của Nguyễn Ngọc Mão, Luận án PTSLS, 1995; Đây là công trình chuyên khảo đề cập trực tiếp quan hệ Việt Nam – Cuba trên phương diện hệ thống hóa quá trình hình thành và phát triển phong trào Cuba ủng hộ cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam giai đoạn 1959-1975, đặc biệt là sự ủng hộ về chính trị và tinh thần. Lịch sử quan hệ Việt Nam – Cuba (1959-2005) của Nguyễn Trinh Nghiệu, Luận án TSLS, 2009; Đây cũng là một công trình chuyên khảo nghiên cứu tổng quát về quan hệ Việt Nam – Cuba từ khi thiết lập quan hệ đến năm 2005 trên tất cả các phương diện. Tuy nhiên, cũng chưa có công trình nào đề cập trực tiếp, đầy đủ dưới góc độ lịch sử Đảng đến vấn đề nghiên cứu của luận văn. Nhưng những vấn đề mà các nhà nghiên cứu đã đề cập đến là nguồn tư liệu quí giá giúp tác giả luận văn khai thác phục vụ đề tài nghiên cứu. + Sách, báo của các tác giả nước ngoài: “Tối mật - những người Cu Ba trên đường Hồ Chí Minh” (Raul Valdes Vivo, Nxb Quân đội nhân dân, 2009); “Cu Ba: 3 Kinh tế, xã hội và quan hệ với Việt Nam” (Hêsuaise Sôtôlônggô Tạp chí Cộng sản, số 1 – 2005)...Đây là nguồn tư liệu của các nhà nghiên cứu nước ngoài. Mặc dù với số lượng còn hạn chế, nhưng những công trình giúp chúng ta hiểu được quan hệ Việt Nam – Cuba từ góc độ của những nhà nghiên cứu nước ngoài, qua đó cung cấp cho chúng ta nhiều thông tin quí giá. Tuy nhiên, các tác giả chủ yếu đề cập từ khía cạnh những giúp đỡ của Cuba với Việt Nam, hoặc những quan hệ nói chung trên các lĩnh vực, nhưng chưa đề cập đến sự ảnh hưởng hai chiều của mối quan hệ này tới cách mạng hai nước. Ngoài ra, còn rất nhiều những công trình nghiên cứu của các nhà nghiên cứu Cuba bằng tiếng Tây Ban Nha đã được công bố. Do những khách quan, chủ quan, tác giả luận văn vẫn chưa có điều kiện tiếp cận. Nhìn chung, những tác phẩm kể trên chưa đi sâu nghiên cứu những chủ trương, chính sách của Đảng trong quá trình lãnh đạo xây dựng, củng cố và phát triển quan hệ Việt Nam – Cuba. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu. Mục đích của luận văn là làm sáng tỏ chủ trương, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước đối với quá trình xây dựng và phát triển quan hệ Việt Nam với Cuba giai đoạn 1960 – 1975. Hệ thống hóa, khái quát hóa những tư liệu đã có, bổ sung tư liệu mới góp phần xây dựng sự hiểu biết tổng quan, trung thực, cụ thể về quá trình Đảng xây dựng và phát triển quan hệ Việt Nam – Cuba. Nêu lên những thành tựu, hạn chế của quá trình đó. Trên cơ sở đó rút ra một số kinh nghiệm lịch sử phục vụ hiện tại. Nhiệm vụ nghiên cứu Để thực hiện các mục đích nghiên cứu và nguồn tư liệu nêu trên, trên cơ sở kế thừa những kết quả của những người đi trước, đồng thời thu thập, xử lý tư liệu mới, luận văn có nhiệm vụ sau: - Đi sâu phân tích, làm rõ những chủ trương, sự chỉ đạo của Đảng và Nhà nước đối với hoạt động ngoại giao giữa Việt Nam với Cuba qua hai giai đoạn: 1960-1965; 1965-1975. 4 - Làm rõ tiến trình xây dựng và phát triển quan hệ quan hệ Việt Nam – Cuba từ năm 1960 đến năm 1975. - Nêu lên những thành tựu, hạn chế, triển vọng trong quan hệ Việt Nam – Cuba; rút ra một số kinh nghiệm lịch sử chủ yếu có giá trị khoa học và thực tiễn. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra nhằm xây dựng, thúc đẩy và phát triển quan hệ Việt Nam – Cuba giai đoạn 1960 - 1975; quá trình chỉ đạo của Đảng và Nhà nước trong việc thực thi các chủ trương đó. Phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu những chủ trương, chính sách cơ bản, quan trọng có tính chất nền tảng do Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra trong quan hệ Việt Nam với Cuba từ năm 1960 đến năm 1975. 5. Cơ sở lý luận, phƣơng pháp nghiên cứu và nguồn tài liệu Để thực hiện mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu, luận văn dựa trên những cơ sỏ lý luận: Về cơ sở lý luận - Dựa trên cơ sở lý luận chung của chủ nghĩa Mác – Lênin. - Tư tưởng Hồ Chí Minh về ngoại giao, về các vấn đề quốc tế và quan hệ quốc tế. Về phương pháp nghiên cứu: - Những phương pháp phổ biến của khoa học lịch sử như: phương pháp lịch sử, phương pháp lôgic. - Các phương pháp khác như: phân tích, tổng hợp, đối chiếu, thống kê, so sánh, hệ thống hóa... Về nguồn tài liệu và hướng sử dụng: - Những tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin và Hồ Chí minh về chủ ngĩa quốc tế XHCN; về mối quan hệ giữa các vấn đề dân tộc và quốc tế, dân tộc và thời đại, về mối quan hệ quốc tế là cơ sở lý luận cho luận văn. 5 - Các văn kiện, nghị quyết, chỉ thị, sắc lệnh, thông tư…của hai Đảng và Nhà nước về ngoại giao nói chung và quan hệ Việt Nam – Cuba nói riêng; cũng như các hiệp định, điện, thư, bài phát biểu của các nguyên thủ quốc gia; các báo cáo, văn bản tiếp xúc của các cơ quan, phái đoàn hai nước, báo cáo các bộ ngành hai nước…hiện đang được lưu trữ tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia III, Viện Sử học Việt Nam…nơi mà tác giả có điều kiện tiếp cận. Đó là những nguồn tư liệu gốc phục vụ triển khai nội dung luận văn. - Các công trình nghiên cứu khoa học, các bài báo, tạp chí, sách có liên quan do các cơ quan nghiên cứu uy tín đã cho công bố như Viện Sử học, Viện Lịch sử Đảng…là nguồn tài liệu quan trọng của luận văn. - Các tư liệu, sách báo về lịch sử Việt Nam, Cuba, lịch sử quan hệ quốc tế, lịch sử phong trào cộng sản…là nguồn tài liệu bổ trợ giúp sáng tỏ các khía cạnh khác nhau của luận văn. - Nguồn từ liệu từ phía Cuba và các công trình nghiên cứu nước ngoài mới được khai thác ở mức độ nhất định do những khó khăn chủ quan và khách quan từ phía tác giả. 6. Dự kiến đóng góp của luận văn Trên cơ sở tập hợp, hệ thống hóa, bổ sung, xử lý nguồn tư liệu một cách khoa học, luận văn dự kiến đóng góp các vấn đề sau: - Làm rõ một cách hệ thống những chủ trương, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước trong quan hệ Việt Nam – Cuba giai đoạn 1960 – 1975. - Tái hiện lại lịch sử quan hệ ngoại giao Việt Nam – Cuba trong giai đoạn này, chỉ ra những đặc trưng cơ bản của mối quan hệ hợp tác cùng có lợi. - Bước đầu đưa ra những đánh giá, nhận xét một cách khoa học về thành tựu, những vấn đề tồn tại qua các giai đoạn: 1960 – 1965, 1965-1975. Từ đó rút ra một số kinh nghiệm. - Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo để phục vụ công tác nghiên cứu, giảng dạy những môn học liên quan. 7. Bố cục của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn gồm có 3 chương: 6 Chương 1: Đảng lãnh đạo thiết lập quan hệ Việt Nam đoàn kết chiến đấu với cách mạng Cuba từ năm 1960 đến năm 1965. Chương 2: Đảng lãnh đạo phát triển quan hệ Việt Nam với Cuba trong cuộc đấu tranh chống đế quốc Mỹ từ năm 1965 đến năm 1975. Chương 3: Đánh giá chung về 15 năm xây dựng, phát triển quan hệ Việt Nam – Cuba và những kinh nghiệm lịch sử. 7 Chương 1: ĐẢNG LÃNH ĐẠO THIẾT LẬP QUAN HỆ VIỆT NAM ĐOÀN KẾT CHIẾN ĐẤU VỚI CÁCH MẠNG CU BA TỪ NĂM 1960 ĐẾN NĂM 1965 1.1. Những yếu tố tác động tới việc thiết lập quan hệ Việt Nam với Cuba 1.1.1. Sự tương đồng về mục tiêu, nhiệm vụ của cách mạng hai nước Cách mạng Cuba Nằm ở khu vực Trung Mỹ, bao gồm các quần đảo trong vùng biển Ca-ri-bê, với diện tích 110 922km2. Cuba giống như hình một con cá sấu vươn mình từ cửa ngõ vịnh Mê-hi-cô ra Đại Tây Dương, án ngữ ở vị trí quan trọng chiến lược là cầu nối của các tuyến đường giao thông đường thủy và đường hàng không quốc tế giữa Bắc Mỹ và Nam Mỹ, giữa Trung Mỹ và châu Âu. Chủ nhân nơi đây là những người da đỏ đã bị thực dân Tây Ban Nha tàn sát gần hết. Sau này, Cuba trở thành nơi hội tụ của nhiều nhóm người thuộc nhiều chủng tộc khác nhau (trắng, vàng, da đen…). Đến giữa thế kỷ XX, dân cư của quần đảo này chủ yếu là người da trắng, họ chiếm khoảng hơn 70% dân số. Lịch sử đất nước Cuba là lịch sử đấu tranh kiên cường bất khuất trong gần 500 năm kể từ khi quân đội thực dân Tây Ban Nha đặt chân xâm lược vùng đất này từ năm 1511, sau đó xác lập nền thống trị thực dân nô dịch, thống trị nhân dân ở đây. Thực tiễn khắc nghiệt đó buộc nhân dân Cuba phải vùng lên đấu tranh bền bỉ giành lại nền độc lập, tự do cho mình. Tiêu biểu là cuộc “Chiến tranh 10 năm”(1868-1878) do Các-lôt Ma-nu-en đê Xê-xpê-đét lãnh đạo; cuộc “Chiến tranh nhỏ” (1879-1880) do A. Ma-xê-ô đứng đầu; đặc biệt là cuộc “Chiến tranh giành độc lập”(1895) do Hô-xê Mác-ti lãnh đạo. Khi cuộc chiến tranh chống ách đô hộ của thực dân Tây Ban Nha do Hô-xê Mác-ti lãnh đạo gần kết thúc thắng lợi, đến năm 1894, đế quốc Mỹ chiếm Cuba, gạt ảnh hưởng và quyền lợi của Tây Ban Nha ra khỏi khu vực. Cuba cũng như số phận của các nước khác thuộc khu vực Mỹ Latinh dần bị biến thành thuộc địa mới kiểu Mỹ và được Mỹ gọi là “cái sân sau” hay “cái ao nhà” của mình. Năm 1952, đế quốc Mỹ thiết lập chế độ độc tài quân sự Bat-xti-ta làm công cụ giúp mình thống trị nhân dân Cuba. Cũng bắt đầu từ đây, nhiệm vụ đấu tranh chống CNTD mới giành độc 8 lập, tự do của nhân dân Cuba trở nên khó khăn, nặng nề và phức tạp hơn khi phải đối đầu với kẻ thù xảo quyệt hơn, có sức mạnh vượt trội về quân sự, kinh tế. Sự kiện đánh dấu bước chuyển biến mới về chất trong phong trào đấu tranh của nhân dân Cuba đó là ngày 26-7-1953, 135 thanh niên nam nữ do Phi-đen Caxtơ-rô chỉ huy tấn công vào trại lính Môn-ca-đa. Mặc dù thất bại, nhưng cuộc khởi nghĩa đã có ý nghĩa to lớn: trước phiên tòa xét xử Phi-đen Ca-xtơ-rô, ông đã tự bào chữa cho mình với nhan đề “lịch sử sẽ xóa án cho tôi” được xem như bản Cương lĩnh Môn-ca-đa cổ vũ mạnh mẽ phong trào yêu nước phát triển; một tổ chức cách mạng khác có tên Phong trào 26 tháng Bảy ra đời nhằm kế tục sự nghiệp của các chiến sĩ Môn-ca-đa. Ngày 1-1-1959, cuộc tổng bãi công cách mạng với qui mô rất lớn do Bộ chỉ huy nghĩa quân đứng đầu là Phi-đen Ca-xtơ-rô, Đảng xã hội nhân dân và Mặt trận công nhân phối hợp tổ chức ở thủ đô La Habana và khắp các thành phố lớn trong cả nước. Cuộc tổng bãi công phối hợp chặt chẽ với các cuộc tiến công quân sự nhanh chóng giành thắng lợi. Chế độ độc tài quân sự thân Mỹ Bat-xti-ta bị lật đổ. Chiến thắng trên có ý nghĩa lịch sử quan trọng đối với Cuba và cả thế giới : Kết thúc thắng lợi cuộc đấu tranh bền bỉ của nhân dân Cuba chống ách đô hộ của thực dân cũ, mới sau 500 năm bị nô dịch; Nhân dân Cuba đã giành được độc lập, làm chủ vận mệnh của mình và của đất nước; Cách mạng Cuba đã trở thành lá cờ đầu trong phong trào giải phóng dân tộc chống CNTD mới kiểu Mỹ, đã “phá vỡ một trong những khâu yếu của sợi dây chuyền thuộc địa kiểu mới của Mỹ ở Latinh” [112, tr. 34], là “tiếng chuông thức tỉnh nhân dân Mỹ Latinh, đánh tan thuyết định mệnh về địa lý lâu nay vẫn kìm hãm tư tưởng của họ”[101, tr. 28], trở thành nhân tố tích cực thúc đẩy sự phát triển phong trào cách mạng giải phóng dân tộc ở Mỹ Latinh và thế giới. Sau ngày cách mạng thành công, ngày 2-1-1959, Chính phủ Liên hiệp lâm thời Cuba được thành lập, ban bố quyền tự do dân chủ cho nhân dân. Đế quốc Mỹ không chấp nhận mất quyền lợi, ảnh hưởng của mình tại đây. Vì vậy, chính quyền Tổng thống Ken-nơ-đi âm mưu chống phá chính phủ cách mạng, sử dụng tay sai nhằm lật đổ chính quyền cách mạng nhưng không thành công. Tháng 2 – 1959, Phiđen Ca-xtơ-rô Ru-dơ trở thành Thủ tướng chính phủ nước Cộng hòa Cuba. Chính 9 phủ mới do ông đứng đầu thực thi một loạt những chính sách tiến bộ đem lại quyền tự do dân chủ cho nhân dân như: Ban hành Đạo luật cơ bản (ngày 7-2-1959) (nội dung chủ đạo khẳng định Cuba là một nước độc lập, chủ quyền, dân chủ cho mọi công dân); Luật về Cải cách ruộng đất (5/1959) (chính quyền cách mạng tiến hành xóa bỏ chế độ chiếm hữu ruộng đất của địa chủ đưa vào khu vực quốc doanh, được thực hiện qua hai đợt: đợt 1 đầu năm 1959, đợt 2 cuối năm 1963); Cải cách đô thị (10/1960); Sắc luật về quốc hữu hóa tư bản nước ngoài và toàn bộ các xí nghiệp công nghiệp (thực hiện năm 1959, 1960)…Đặc biệt, ngày 16-4-1961, Thủ tướng Phi-đen Ca-xtơ-rô tuyên bố lựa chọn CNXH làm mục tiêu chiến lược để xây dựng đất nước của nhân dân Cuba. Thủ tướng Phi-đen khẳng định: “cuộc cách mạng của chúng ta là cuộc cách mạng dân chủ và xã hội chủ nghĩa của những người nghèo khổ, do những người nghèo khổ và vì những người nghèo khổ. Chúng ta sẵn sàng hiến dâng cả tính mạng cho cuộc cách mạng”[113, tr. 77]. Như vậy, phải đến năm 1961, Cuba mới chính thức lựa chọn CNXH là mục tiêu chiến lược của mình. Nhưng những tư tưởng về cách mạng giải phóng và về CNXH của chủ nghĩa Mác-Lênin lại ảnh hưởng sâu đậm vào cách mạng Cuba. Điều đó được minh chứng từ trong nội dung của Cương lĩnh Môn-ca-đa (1953), đến khi cách mạng thành công. Tiếp đó, cách mạng vừa thành công, bằng những cuộc cải cách dân chủ rộng rãi, tiến bộ trên các lĩnh vực của Chính phủ Cách mạng Cuba đã đem lại quyền cơ bản cho nhân dân lao động. Trong Tuyên bố ngày 16-4-1961, Cuba đã trở thành đất nước đầu tiên ở khu vực Mỹ Latinh lựa chọn con đường XHCN. Thêm vào đó, tháng 5-1963, Tổ chức cách mạng thống nhất được cải tổ thành Đảng cách mạng xã hội chủ nghĩa thống nhất Cuba do một ban lãnh đạo toàn quốc đứng đầu, công khai tuyên bố lấy chủ nghia Mác-Lênin làm ngọn cờ tư tưởng của mình. Khu vực Mỹ Latinh, vốn vẫn được coi là “sân sau” của đế quốc Mỹ đã xuất hiện một cuộc cách mạng ở Cuba lật đổ ách thống trị thực dân mới của mình. Sau đó, bằng những hành động cương quyết, dứt khoát, Cuba tiến hành cải cách dân chủ rộng rãi loại bỏ quyền lợi và ảnh hưởng của Mỹ tại đây, đồng thời công khai lựa chọn CNXH làm mục tiêu chiến lược để xây dựng đất nước. Với những sự kiện lớn đó, Cuba trở thành linh hồn, lá cờ đầu ở Mỹ Ltinh trong cuộc chiến chống 10 chủ nghĩa thực dân mới kiểu Mỹ. Tất cả những điều đó đã ảnh hưởng đến quyền lợi của Mỹ tại đây, đến chiến lược toàn cầu của Mỹ mà trọng tâm coi CNCS là kẻ thù số 1 cần phải tiêu diệt. Vì vậy, đế quốc Mỹ đã điên cuồng chống phá thành quả cách mạng của nhân dân Cuba, chống phá sự nghiệp xây dựng chế độ mới của họ bằng mọi thủ đoạn. Ngay khi cách mạng Cuba thành công, Mỹ đã tìm cách mua chuộc chính quyền mới nhưng không thành. Ngày 17-4-1961, Mỹ sử dụng vài nghìn lính đánh thuê đỏ bộ lên bãi biển Hi-rôn (Cuba) nhưng đã bị các lực lượng vũ trang Cuba đánh bại. Không chấp nhận thất bại, Chính quyền Mỹ đã thay đổi thủ đoạn: Tiến hành các hoạt động phá hoại, lật đổ gây mất ổn định về chính trị, đe dọa sử dụng vũ lực và chiến tranh với phong tỏa về ngoại giao; Khuất phục Cuba dưới hình thức “sự trừng phạt về kinh tế”, tiến hành cấm vận kinh tế, thương mại, KHKT... Sự thù địch đó thể hiện rất rõ ràng, đặc biệt từ sau 1961 khi Cuba dứt khoát lựa chọn con đường đi lên CNXH, sự thù địch và âm mưu phá hoại của chính phủ Mỹ (đứng đầu là Tổng thống Ken-nơ-đi được thực hiện ráo riết và quyết liệt hơn). Nhiều lần chính giới Mỹ khẳng định: “Mỹ không chung sống hòa bình với chế độ hiện nay của Cuba” và rằng “Mỹ sẽ chống lại chế độ đó bằng mọi cách”[112, tr. 47]. Trong tờ New York Times ngày 21-4-1961, Tổng thống Ken-nơ-đi đã công khai tuyên bố: “Cuba không được rơi vào tay cộng sản…Nếu các nước ở lục địa này không chịu tham gia vào cuộc chiến đấu chống sự xâm nhập của chủ nghĩa cộng sản từ bên ngoài, thì chính phủ chúng ta sẽ hoàn thành nhiệm vụ hàng đầu đó một cách không do dự”[93, tr. 11]. Về quân sự, sau thất bại trong việc sử dụng lính đánh thuê tấn công Cuba tại bãi biển Hi-rôn (4-1961), tháng 10-1962, tiến hành bao vây quân sự với cớ “Cuba uy hiếp nền an toàn” của Mỹ, gây ra vụ khoảng tên lửa trầm trọng ở vùng biển Cari-bê. Sau đó, Liên Xô thỏa thuận sẽ rút tên lửa khỏi Cuba và Mỹ cam kết không xâm lược Cuba. Từ đây, Mỹ đã thay đổi chính sách thù địch với đất nước này, chọn giải pháp bao vây, cô lập kinh tế là chủ đạo. Mặc dù đã thỏa thuận với Liên Xô không xâm lược Cuba, nhưng trên thực tế những hành động chống phá cách mạng Cuba của Mỹ vẫn tiếp tục được triển khai với nhiều hình thức khác nhau. Từ đầu năm 1963, Chính phủ Mỹ đã thành lập cơ quan đặc biệt nhằm chống lại cách mạng 11 Cuba. Từ tháng 10-1962 đến năm 1964, Mỹ đã thực hiện gần 2.000 vụ khiêu khích đối với Cuba[100, tr. 90]. Về chính trị - ngoại giao, bằng sức mạnh của một siêu cường Mỹ dùng sức ép buộc nhiều nước và khu vực trên thế giới không công nhận địa vị pháp lý của Cuba. Tháng 7-1964, Mỹ dùng sức ép buộc Hội nghị tư vấn bộ trưởng ngoại giao các nước trong Tổ chức các nước châu Mỹ cắt quan hệ ngoại giao với Cuba (chỉ trừ có Mê-hi-cô không chấp thuận quyết định này). Trên phương diện kinh tế, bắt đầu từ 19/10/1060, Mỹ tuyên bố thực hiện “cấm vận” bao vây kinh tế toàn diện đối với Cuba. Đế quốc Mỹ hi vọng dùng phong tỏa kinh tế có thể làm sụp đổ đất nước Cuba. Cơ sở mà Mỹ tin mình có thể làm được vì nền kinh tế của Cuba dưới thời thống trị của nền độc tài Ba-xti-ta phụ thuộc hoàn toàn vào Mỹ. Mỹ gây sức ép đối với đồng minh trong khối NATO bằng cách yêu cầu họ hạn chế đến mức tối đa nhu cầu trao đổi thương mại với Cuba. Tháng 11964, quốc hội Mỹ thông qua đạo luật bổ sung viện trợ kinh tế cho các quốc gia không có quan hệ với Cuba. Từ đầu năm 1963, Mỹ thi hành biện pháp trừng phạt kinh tế với tất cả các quốc gia chở hàng đến Cuba[100, tr. 90]. Chính sách bao vây, cấm vận của Mỹ đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến Cuba: hơn 70% người dân sinh ra và lớn lên đều chịu dưới sự bao vây, cấm vận của Mỹ, hàng năm gây thiệt hại cho nền kinh tế Cuba ước tính khoảng 1.782 USD[121, tr. 38] Như vậy, lịch sử quan hệ Mỹ - Cuba trong suốt hơn 150 năm là lịch sử của quá trình đế quốc Mỹ không ngừng nô dịch đất nước Cuba “kẻ thù số 1 của nền độc lập và tự do của Cuba”[93, tr. 12]. Sau khi cách mạng Cuba thành công năm 1959, nước Cộng hòa Cuba ra đời, lựa chọn độc lập dân tộc và CNXH làm mục tiêu chiến lược xây dựng và phát triển đất nước. Trước thực tiễn đế quốc Mỹ luôn tìm mọi thủ đoạn chống phá cách mạng, cho nên vừa xây dựng đất nước theo con đường CNXH, vừa không ngừng đấu tranh chống lại âm mưu phá hoại, thù địch của đế quốc là nhiệm vụ thường nhật của Cuba từ sau cách mạng thành công năm 1959. Đó là nhiệm vụ vô cùng khó khăn đối với một đất nước nhỏ bé, nghèo nàn, lạc hậu dưới ách thống trị tàn bạo của chế độ thực dân cũ và mới tới 500 năm, nhưng nhân dân Cuba dưới sự lãnh đạo Đảng, Nhà nước đứng đầu là Thủ tướng Phi-đen Ca-xtơ-rô vẫn kiên định trên con đường mình đã chọn. 12 Cách mạng Việt Nam. Nằm ở phía Đông bán cầu, cách Cuba nửa vòng trái đất, cũng một đất nước nhỏ bé với diện tích hơn 331.212 km2, dân số đầu thế kỷ XX khoảng trên 20 triệu dân, Việt Nam nằm bên bờ biển Đông thuộc khu vực Đông Nam Á. Với vị trí án ngữ trên tuyến đường giao thương quốc tế: từ Đông Bắc Á xuống Đông Nam Á, từ Tây Thái Bình Dương sang Đông Ấn Độ Dương và đường hàng không trực tiếp giữa Thái Bình Dương và Nam Á; Phần lục địa vừa tiếp giáp với Thái Bình Dương và nối liền với đại lục châu Á. Việt Nam được coi là cửa ngõ, là tiền đồn, tiềm trạm của tuyến đường thương mại quốc tế, là nơi gặp gỡ và giao lưu của nhiều luồng văn hóa khác nhau trên thế giới; cùng với nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, dồi dào mang đặc trưng của khu vực Đông Nam Á. Tuy nhiên, cũng chính vì vị trí thuận lợi và nguồn tài nguyên phong phú như vậy cho nên Việt Nam luôn gặp phải họa ngoại xâm từ thuở khai thiên lập nước cho đến nay. Việt Nam cũng như Cuba, sớm bị thực dân phương Tây nhòm ngó và xâm lược. Cuối thế kỷ XIX, Việt Nam trở thành thuộc địa của thực dân Pháp, nạn nhân của chế độ thực dân cũ. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, cách mạng tháng Tám 1945 thành công đã đánh đổ đế quốc và tay sai mở ra kỷ nguyên độc lập cho dân tộc Việt Nam. Trên cơ sở của thắng lợi đó, ngày 2-9-1945 nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra đời, đánh dấu một mốc son quan trọng trong lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam. Nhưng ngay sau đó, thực dân Pháp quay trở lại xâm lược Việt Nam một lần nữa, nhân dân ta tiếp tục dưới sự lãnh đạo của Đảng tiến hành kháng chiến chống Pháp và can thiệp Mỹ (1945-1954). Sau CTTG II, Mỹ trở thành siêu cường lớn nhất thế giới về kinh tế - quân sự. Dựa vào ưu thế đó, Mỹ triển khai chiến lược toàn cầu với tham vọng làm bá chủ thế giới. Chiến lược toàn cầu được điều chỉnh qua nhiều chiến lược cụ thể dưới tên gọi học thuyết khác nhau. Khu vực châu Á – Thái Bình Dương luôn là khu vực mà Mỹ tham vọng muốn có được, nhưng vấn đề Việt Nam và Đông Dương cho đến những năm 19461947 Mỹ vẫn chưa quan tâm nhiều. Từ cuối năm 1949 đến đầu năm 1950, cùng với việc củng cố vị trí của mình ở các khu vực quan trọng trên thế giới, nhất là khi cách mạng Trung Hoa thành công, chính quyền Mỹ bắt đầu quan tâm đến châu Á – Thái 13 Bình Dương. Mỹ lo sợ nguy cơ lan tràn của CNCS từ Trung Quốc xuống khu vực Đông Nam Á (tuy nhiên trọng điểm trong chiến lược toàn cầu của Mỹ lúc này vấn là Đông Bắc Á). Ngăn chặn nguy cơ, ảnh hưởng của cộng sản xuống khu vực Đông Nam Á dần trở thành nhiệm vụ hàng đầu trong chính sách toàn cầu của Mỹ. Xuất phát từ ý nghĩa địa – chính trị ảnh hưởng đến cục diện toàn khu vực và thế giới, Đông Dương dần được Chính phủ Mỹ nhận thức về tầm quan trọng chiến lược trong khu vực Đông Nam Á. Văn kiện số 64 của Ủy ban An ninh quốc gia Mỹ (21950) khẳng định: “Đông Dương là khu vực then chốt của Đông Nam Á”, là chiến tuyến quan trọng chống lại “sự bành trướng của chủ nghĩa cộng sản thế giới dưới sự lãnh đạo của Liên Xô”[109, tr. 27]. Sau đó, nhiều văn kiện của Ủy ban này tiếp tục khẳng định hơn nữa vai trò, vị trí chiến lược của Đông Dương trong chiến lược toàn cầu của Mỹ. Việt Nam có vị trí chiến lược hết sức quan trọng trong khu vực Đông Nam Á. Vì vậy, trong cuộc chiến tranh xâm lược của Pháp ở Đông Dương (19451954), Chính phủ Mỹ từng can thiệp sâu và “dính líu” trực tiếp vào cuộc chiến tranh ở Đông Dương. Từ 5-1949, Mỹ đẵ bắt đầu viện trợ kinh tế và quân sự cho Pháp. Chiến tranh xâm lược của Pháp càng kéo dài, sự can thiệp của Mỹ vào Việt Nam và Đông Dương ngày càng sâu và lộ rõ. Năm 1954, chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ đã toàn thắng, buộc thực dân Pháp phải chấp nhận ký Hiệp định Gơnevơ về chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình ở Đông Dương. Đồng thời, làm thất bại âm mưu kéo dài, mở rộng và quốc tế hóa chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ ở Đông Dương. Đó là mốc son quan trọng đánh dấu thắng lợi của nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Pháp và can thiệp Mỹ, là chiến thắng quyết định kết thúc hơn 80 năm thống trị và nô dịch của thực dân Pháp, kết thúc sự thống trị của chế độ thực dân cũ già nua và tàn bạo. Song đế quốc Mỹ vẫn ngoan cố, không chịu từ bỏ âm mưu xâm lược Việt Nam. Hiệp định Gơnevơ được ký kết, đại diện chính quyền Mỹ ra tuyên bố cam kết tôn trọng hiệp định, nhưng không chịu sự ràng buộc của Hiệp định. Trong khi Hiệp định Gơnevơ về Đông Dương đang được ký kết, ngày 20-7-1954, Hội đồng an ninh quốc gia Mỹ đã thông qua “kế hoạch Menxphin” với nội dung cơ bản “biến Vĩ tuyến 17 thành một phòng tuyến ngăn chặn CNCS không thể xóa bỏ được”, thực hiện âm mưu chia cắt lâu dài nước Việt Nam. Sau Hiệp định 18 ngày, đế quốc Mỹ 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan