ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA LỊCH SỬ
---&---
LÊ ĐÌNH TÂN
ĐẢNG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG THƯƠNG NGHIỆP
MIỀN BẮC VIỆT NAM THỜI KÌ 1954-1965
CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
MÃ SỐ: 6022.56
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LỊCH SỬ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.NGND LÊ MẬU HÃN
HÀ NỘI-2006
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
1
CHƢƠNG 1: LÃNH ĐẠO KHÔI PHỤC THƢƠNG NGHIỆP MIỀN
BẮC GIAI ĐOẠN 1954-1957
1.1. Thực trạng thƣơng nghiệp miền Bắc và chủ trƣơng của Đảng
5
5
1.1.1. Thực trạng thương nghiệp miền Bắc
5
1.1.2. Chủ trương của Đảng
12
1.2. Tổ chức khôi phục và phát triển thƣơng nghiệp
15
1.2.1. Thực hiện bình ổn vật giá và khôi phục hoạt động thương
15
nghiệp
1.2.2. Phát triển mậu dịch quốc doanh, sử dụng và quản lí thương
nghiệp tư doanh
25
CHƢƠNG 2: LÃNH ĐẠO CẢI TẠO VÀ PHÁT TRIỂN THƢƠNG
NGHIỆP MIỀN BẮC GIAI ĐOẠN 1958-1960
39
2.1. Hoàn cảnh mới và chủ trƣơng của Đảng.
39
2.1.1. Thương nghiệp miền Bắc sau 3 năm thực hiện khôi phục
39
2.1.2. Chủ trương của Đảng
40
2.2. Thực hiện cải tạo và phát triển thƣơng nghiệp
43
2.2.1. Cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với thương nghiệp tư bản tư 43
doanh
2.2.2. Tiếp tục phát triển hệ thống thương nghiệp quốc doanh và tập 49
thể
CHƢƠNG 3: LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN THƢƠNG NGHIỆP XHCN
MIỀN BẮC GIAI ĐOẠN 1961-1965
55
3.1. Chủ trƣơng của Đảng
55
3.2. Phát triển thƣơng nghiệp
60
3.2.1. Nội thương
60
3.2.2. Ngoại thương
79
KẾT LUẬN
88
TÀI LIỆU THAM KHẢO
96
PHỤ LỤC
DANH MỤC VIẾT TẮT
1
CNXH
Chủ nghĩa xã hội
2
XHCN
Xã hội chủ nghĩa
3
TBCN
Tư bản chủ nghĩa
4
MDQD
Mậu dịch quốc doanh
5
HTX
Hợp tác xã
6
GS
Giáo sư
7
NXB
Nhà xuất bản
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài.
Từ khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời cho đến nay, nền
Thương nghiệp Việt Nam đã trải qua gần 60 xây dựng và phát triển. Trong
quá trình đó, ngành Thương nghiệp đã có những đóng góp hết sức to lớn cho
sự nghiệp cách mạng của dân tộc: thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp (1945-1954), chống Mĩ (1954-1975) cũng như trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa ngày nay.
Tuy vậy, trong một khoảng thời gian dài, lĩnh vực lịch sử Thương
nghiệp Việt Nam chưa được đầu tư nghiên cứu đúng mức. Nghiên cứu những
thành tựu, hạn chế, ý nghĩa lịch sử và những bài học kinh nghiệm của quá
trình Đảng lãnh đạo xây dựng Thương nghiệp miền Bắc Việt Nam thời kì
1954-1965 không chỉ có ý nghĩa đóng góp về mặt khoa học lịch sử mà còn có
ý nghĩa chính trị, thực tiễn cho công cuộc xây dựng và phát triển thương mại
Việt Nam trong giai đoạn mới. Vì lí do đó nên tôi đã chọn đề tài Đảng lãnh
đạo xây dựng Thương nghiệp Miền Bắc Việt Nam thời kì 1954-1965 làm
luận văn thạc sĩ sử học.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.
Qua tìm hiểu lịch sử nghiên cứu vấn đề thương nghiệp đã qua, chúng
tôi thấy có các công trình chính như sau: Kinh tế thương nghiệp Việt Nam dân
chủ cộng hoà. NXB Giáo dục. H. 1963 của Lê Hữu Chỉnh; 30 năm xây dựng
và phát triển thương nghiệp XHCN Việt Nam 1951-1981. H. 1981 của Bộ Nội
thương; 35 năm kinh tế Việt Nam. (1945-1980). H. 1980 của Uỷ ban khoa học
xã hội Việt Nam, do GS. Đào Văn Tập chủ biên; Kinh tế thương nghiệp Việt
Nam của GS. Nguyễn Mại; NXB Đại học và trung học chuyên nghiệp.1985;
Kinh tế thương nghiệp XHCN. H. 1969 của Trường Đại học Kinh tế kế hoạch
(tức trường Đại học Kinh tế Quốc dân ngày nay);… Công trình nghiên cứu có
1
đề cập đến thương nghiệp thì có: Lịch sử kinh tế Việt Nam (1945-2000) của
Đặng Phong ở Viện Kinh tế chủ biên… Những công trình này đã khái quát
được lịch sử phát triển của Thương nghiệp Việt Nam từ khi ra đời cho đến
trước đổi mới. Riêng công trình nghiên cứu của Viện Kinh tế do Đặng Phong
chủ biên đã trình bày khá rõ nét lịch sử Kinh tế nói chung và Thương nghiệp
nói riêng. Nhưng đây không phải là công trình chuyên khảo nên lĩnh vực
Thương nghiệp không dược đầu tư nghiên cứu đứng mức. Nhìn chung là chưa
có công trình nào tập trung nghiên cứu, đánh giá quá trình lãnh đạo, chỉ đạo
và tổ chức xây dựng nền thương nghiệp miền Bắc Việt Nam của Đảng ta
trong thời kì này…
3. Nguồn tài liệu của luận văn.
- Các tác phẩm lí luận kinh điển.
- Hệ thống văn kiện Đảng Cộng sản Việt Nam, Hồ Chí Minh toàn tập;
các bài viết, nói của các lãnh tụ…
- Các báo cáo, tổng kết lưu trữ tại trung tâm lưu trữ Quốc gia (chủ yếu
là từ trung tâm lưu trữ Quốc gia III- Hà Nội)…
- Các công trình nghiên cứu liên quan trong và ngoài nước.
- Báo chí.
- Các tư liệu khác…
4. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn.
- Mục đích nghiên cứu:
+ Làm sáng tỏ bối cảnh và quá trình Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo
và tổ chức xây dựng nền Thương nghiệp miền Bắc thời kì 1954-1965 .
+ Thấy được các thành tựu và hạn chế của sự nghiệp đó.
+ Rút ra được các bài học kinh nghiệm quý báu cho sự nghiệp xây dựng
nền Thương mại hiện nay.
- Nhiệm vụ của luận văn:
2
+ Phân tích và đánh giá một cách khoa học quá trình đảng Cộng sản
Việt Nam nhận thức và thể hiện bằng chủ trương, nghị quyết về vấn đề xây
dựng nền Thương nghiệp mới (1954-1965).
+ Trình bày quá trình Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức xây dựng
Thương nghiệp Miền Bắc Việt Nam (1954-1965).
+ Qua nghiên cứu về chủ trương và tổ chức thực hiện sẽ cho chúng ta
thấy được bước tiến triển, thành quả và hạn chế của Thương nghiệp miền Bắc
Việt Nam thời kì 1954-1965.
+ Từ thực tiễn lịch sử ta có thể đúc rút được các bài học kinh nghiệm về
quá trình lãnh đạo và tổ chức xây dựng Thương nghiệp miền Bắc Việt Nam
của Đảng trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể của 10 năm tiến hành cách mạng đưa
miền Bắc tiến lên CNXH (1954-1965).
5. Giới hạn của luận văn.
- Đối tượng: Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam xây dựng
Thương nghiệp miền Bắc Việt Nam trong thời kì 1954-1965 về mặt chủ
trương và tổ chức thực hiện.
- Phạm vi: Quá trình Đảng lãnh đạo và tổ chức xây dựng Thương
nghiệp miền Bắc, trong đó chú trọng hơn đến lĩnh vực nội thương và ngoại
thương trong giai đoạn khôi phục kinh tế, cải tạo và xây dựng CNXH ở miền
Bắc trong thời kì 1954-1965.
6. Cơ sở lí luận và phƣơng pháp nghiên cứu.
- Cơ sở lí luận:
Luận văn được nghiện cứu trên cơ sở lí luận của chủ nghĩa Mác-Lênin
về kinh tế nói chung và thương nghiệp nói riêng.
- Phương pháp nghiên cứu:
3
Phương pháp lịch sử là phương pháp cơ bản, bên cạnh đó còn sử dụng
các phương pháp logic, so sánh, đối chiếu… để xử lí tài liệu và xây dựng luận
văn.
7. Bố cục của luận văn.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 03 chương :
Chƣơng 1: Lãnh đạo khôi phục thƣơng nghiệp miền Bắc giai đoạn
1954-1957.
Chƣơng 2: Lãnh đạo cải tạo và phát triển thƣơng nghiệp miền Bắc
giai đoạn1958-1960.
Chƣơng 3: Lãnh đạo phát triển thƣơng nghiệp XHCN miền Bắc
giai đoạn 1961-1965.
4
CHƢƠNG 1
LÃNH ĐẠO KHÔI PHỤC THƢƠNG NGHIỆP MIỀN BẮC
GIAI ĐOẠN 1954-1957.
1.1. Thực trạng thƣơng nghiệp Miền Bắc và chủ trƣơng của Đảng.
1.1.1. Thực trạng thương nghiệp.
Từ cuối thế kỉ XIX trở đi, thực dân Pháp đã xâm lược Việt Nam, biến
nước ta trở thành thuộc địa của chúng. Sau hai cuộc khai thác thuộc địa, nền
kinh tế-xã hội Việt Nam có những biến động lớn trên tất cả các mặt. Thương
nghiệp Việt Nam trở thành “một nền thương nghiệp có tính chất thuộc địa và
nửa phong kiến, hoàn toàn lệ thuộc vào nền kinh tế chính quốc” [52;6].
Sau cuộc cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam dân chủ
cộng hoà được thành lập, Đảng ta đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bắt
tay vào công cuộc Kháng chiến, kiến quốc. Một trong nhiệm vụ kinh tế quan
trọng của chế độ mới là xây dựng một nền thương nghiệp Việt Nam phát triển
để phục vụ đời sống nhân dân và công cuộc kháng chiến của dân tộc.
Trong 9 năm kháng chiến kiến quốc đó, có thể phân chia tiến trình xây
dựng kinh tế thương nghiệp thành 2 giai đoạn: từ 1945-1950 và từ 1951-1954.
Trong giai đoạn đầu, Đảng ta đã chỉ đạo xây dựng một nền thương
nghiệp mới với tổ chức và các hoạt động phù hợp với một nền kinh tế kháng
chiến trong vòng vây của kẻ thù. Đó là thương nghiệp của nền kinh tế quốc
dân tự cung tự cấp. Với các hoạt động chính như thành lập Nha tiếp tế (41946), rồi cục tiếp tế vận tải (4-1947); 3-1947, thành lập sở Ngoại thương; sở
Nội thương (9-1950) thuộc Bộ Công thương (đổi tên từ Bộ Kinh tế) làm công
5
cụ quản lí chủ yếu của Nhà nước đối với thương nghiệp. Đồng thời, Đảng ta
cũng đã chủ trương thành lập các hợp tác xã mua bán và phát triển hệ thống
chợ nhằm thúc đẩy nền thương nghiệp nhân dân rộng khắp. Đảng cũng chủ
trương thực hiện phương châm: tích cực bao vây kinh tế địch, bảo vệ kinh tế
ta; vừa kháng chiến vừa kiến quốc; tự cung tự cấp về mọi mặt, trong đó bao
gồm hai mặt: Một là “mặt tiêu cực, phá hoại kinh tế địch bằng cách tẩy chay
và quân sự phá hoại. Làm cho địch không kinh doanh, bóc lột gì được, không
thực hiện được chính sách lấy chiến tranh nuôi chiến tranh; Hai là mặt tích
cực, xây dựng kinh tế ta, vừa xây dựng vừa kiến quốc và lập nền kinh tế tự
túc” [41;103]. Với các chủ trương đó của Đảng, một nền thương nghiệp mới
đã được hình thành và bước đầu phát triển vừa tạm thời đáp ứng được các yêu
cầu thiết yếu của nhân dân vừa đảm bảo được các nhu cầu cơ bản của cuộc
kháng chiến trong giai đoạn đầu.
Tuy vậy, trong giai đoạn này đã bộc lộ những mặt hạn chế của ta trong
cả chủ trương và quá trình thực hiện đường lối xây dựng nền thương nghiệp
mới. Cụ thể là chính sách bao vây kinh tế địch đã không phát huy tác dụng
như mong muốn. Mặc dù đã gây cho chúng một số khó khăn nhất định song
cũng chính vì thế nên thương nghiệp kháng chiến đã chịu ảnh hưởng khá nặng
nề. Các hợp tác xã mua bán không phát huy hết tác dụng trong việc vận động
tầng lớp thương nhân tham gia buôn bán hợp pháp… qua đó, đã bộc lộ rõ
những hạn chế trong sự chỉ đạo thương nghiệp của Đảng và chính phủ, chưa
kịp thời như trên lĩnh vực quân sự. Đó là một trong những nguyên nhân làm
hạn chế nhiều sự đóng góp của thương nghiệp vào thắng lợi chung trong sự
nghiệp kháng chiến, kiến quốc.
Bước vào giai đoạn 1951-1954, là giai đoạn đẩy mạnh hoạt động
thương nghiệp quốc dân. Đặc điểm nổi bật nhất của thương nghiệp giai đoạn
6
này là sự xác lập quyền chi phối thương nghiệp của nhà nước bằng việc thiết
lập mậu dịch quốc doanh và các thiết chế hỗ trợ.
Ngày 14-5-1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh kí sắc lệnh thành lập Sở mậu
dịch quốc doanh thuộc bộ Công thương trên cơ sở sát nhập sở Nội thương và
cục Ngoại thương. Đó là một sự kiện có ý nghĩa hết sức to lớn đối với nền
thương nghiệp quốc dân Việt Nam. Từ đây, nhà nước đã từng bước thực hiện
các chính sách nhằm kiểm soát một cách có hiệu quả nền thương nghiệp của
nước nhà kể cả hoạt động nội thương cũng như ngoại thương. Mậu dịch quốc
doanh đã phát huy vai trò hết sức to lớn của nó trong việc kinh doanh, huy
động, điều hoà nền thương nghiệp quốc dân. Đặc biệt, vào giai đoạn sau chiến
thắng Biên giới 1950, một nền thương nghiệp Việt Nam mới có điều kiện phát
triển. Mậu dịch quốc doanh trở thành một công cụ điều tiết vĩ mô của nhà
nước, chi phối có hiệu quả nền thương nghiệp nước nhà.
Bên cạnh mậu dịch quốc doanh thì Đảng ta cũng đã chủ trương xây
dựng và tổ chức có hiệu quả hơn đối với các hợp tác xã mua bán và phát động
phong trào kinh doanh trong nhân dân; tăng cường buôn bán cả trong vùng tự
do, vùng tự do với vùng tạm chiếm và quan hệ ngoại thương (cả chính ngạch
và tiểu ngạch) với nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa…
Như vậy, với các chính sách về thương nghiệp đúng đắn của Đảng ta, từ
sau khi giành được chính quyền, chúng ta đã bắt tay vào xây dựng một nền
thương nghiệp mới. Và sau 9 năm, thương nghiệp Việt Nam đã trưởng thành,
từ một nền thương nghiệp thuộc địa phụ thuộc thành một nền thương nghiệp
dân chủ mới, độc lập, tự chủ…
Thương nghiệp vùng tự do có một thị trường nông thôn rộng lớn,
tuy bị chia cắt nhưng đều hoạt động dưới sự lãnh đạo của Đảng và
chính phủ kháng chiến. Nền thương nghiệp đó là một nền thương
nghiệp dân chủ nhân dân, một nền thương nghiệp mới mẻ mang tính
7
độc lập và tự chủ, đã giúp nhân dân ta bình ổn giá cả những hàng hoá
thiết yếu nhằm bảo đảm cung cấp cho tiền tuyến, giúp đỡ nhân dân
khắc phụ khó khăn trong đời sống hàng ngày, góp phần bồi dưỡng lực
lượng để đẩy mạnh kháng chiến đi đến thắng lợi [52;21].
Trong 9 năm kháng chiến, thương nghiệp vùng kháng chiến đã có
những đóng góp hết sức to lớn cho công cuộc xây dựng và cung cấp cho yêu
cầu của chiến trường, góp phần to lớn cho thắng lợi chung của dân tộc.
Trong khi đó, song song tồn tại với thương nghiệp kháng chiến là
thương nghiệp vùng tạm chiếm. Thương nghiệp vùng tạm chiếm trước và sau
chiến tranh là một nền thương nghiệp thuộc địa. Thực ra, ngay khi người Pháp
áp đặt được quyền thống trị của họ lên nước ta vào năm 1884 thì Việt Nam đã
trở thành một thuộc địa thực sự rồi. Những biện pháp kinh tế mà thực dân
Pháp tiến hành trong hai cuộc khai thác thuộc địa ngày càng làm bộc lộ rõ nét
tính chất đó. Thương nghiệp Việt Nam do đó cũng trở thành nền thương
nghiệp có tính chất thuộc địa và nửa phong kiến, hoàn toàn lệ thuộc và nền
thương nghiệp chính quốc. Điều này có thể thấy rõ vì thị trường Việt Nam là
một thị trường độc quyền và do các công ty độc quyền của Pháp nắm giữ.
Ngay khi thực dân Pháp chưa nổ súng xâm lược nước ta thì các công ty Pháp
đã thành lập và có mặt tại Việt Nam như công ty Đét-cua-Ca-bô (1780), công
ty Phơ-lơ-ry (1848) rồi đến khi thôn tính được Việt Nam thì Ngân hàng Đông
Dương được thành lập (1875), đại diện cho tư bản tài chính Pháp, chi phối
mọi hoạt động kinh tế ở Việt Nam. Tiếp đến là các công ty Hăm-buốc-goanhMácphéc-phơ-rơ (1884) công ty liên doanh Thương mại Đông Dương và Phi
Châu (1904), công ty Thương mại và hàng hải viễn đông (1909), Tổng công
ty Viễn Đông (1917)… Những công ty đó đã nắm hầu hết tư bản và lợi nhuận
ở thị trường Việt Nam [33;10-12]. Trong đó, hàng xuất khẩu chủ yếu là nông
sản chiếm 85% tổng giá trị hàng xuất và hàng nhập chủ yếu là hàng công
8
nghiệp và tiêu dùng với tỉ lệ tương ứng là 3/4 [33;12]. Chính vì lẽ đó mà nền
thương nghiệp Việt Nam nói riêng và kinh tế nói chung không thể phát triển
được. Tất nhiên, đội ngũ các nhà tư sản Việt Nam nhỏ yếu về kinh tế và thấp
kém về địa vị chính trị. Kể cả ở nông thôn hay trung tâm kinh tế-chính trị của
Đông Dương như Hà Nội, Hải Phòng, Sài Gòn, Nam Định, Vinh… Các nhà
tư sản thương nghiệp Việt Nam không có thế lực đáng kể.
Thực trạng đó tiếp tục duy trì khi người Pháp trở lại xâm lực Việt Nam
sau cách mạng tháng Tám và kéo dài suốt 9 năm chúng ta kháng chiến trường
kì. Nhìn chung, hoạt động thương nghiệp vùng tạm chiếm lúc này vẫn không
có khác biệt căn bản so với trước. Nghĩa là thị trường Việt Nam vẫn là thị
trường độc quyền của tư bản Pháp. Tuy vậy, sau một thời gian, đặc biệt là sau
năm 1950, thương nghiệp vùng tạm chiếm đã có sự phân hoá nhất định:
Trong giới tư bản độc quyền, ngoài tư bản Pháp, còn có tư bản
Mĩ đầu tư vào các công ty của Pháp, hay mua lại của Pháp. Một số tư
bản thân Mĩ, chuyên môn đầu cơ ngoại tệ, hoạt động chợ đen, mua
hàng chiến tranh để làm giàu, tư bản thương nghiệp tập trung ở đô thị
lớn, tầng lớp tiểu thương ngày càng đông đảo hơn vì người lương thiện
ở trong giai cấp tư sản ở thành phố không còn nghề nào khác là buôn
bán nhỏ để sống qua ngày [33;19].
9 năm thương nghiệp ở vùng Pháp tạm chiếm tiếp tục nằm dưới sự
thống trị của thực dân Pháp nên không có thực lực gì đáng kể. Những thay đổi
ở một số trung tâm chính trị-kinh tế vùng Pháp chiếm đóng không phản ánh
sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Đời sống nhân dân và tiểu thương hết
sức khó khăn và bị phân hoá sâu sắc. Cũng chính vì chiến tranh nên tư sản
thương nghiệp Pháp và ngoại kiều cũng như tư sản thương nghiệp Việt Nam
không dám đầu tư làm ăn. Nền thương nghiệp vốn đã nhỏ yếu, bị lũng đoạn
càng bị suy kiệt bởi chiến tranh ác liệt..
9
Sản xuất nói chung và thương nghiệp nói riêng chịu hậu quả nặng nề
của hàng nghìn năm dưới chế độ phong kiến, trăm năm dưới chế độ thực dân,
phát xít. Cuộc chiến tranh lần thứ hai ở Việt Nam (1945-1954) một lần nữa đã
làm suy kiệt tiềm lực của quốc gia. Về nông nghiệp gần 20 vạn mẫu lúa bị bỏ
hoang, các cây công nghiệp ít được chú ý vì ai nấy đều tập trung vào thóc gạo
là nhu cầu cấp bách trong kháng chiến. Công nghiệp gần như không có gì bởi
chính sách kinh tế phản động của thực dân Pháp cũng như điều kiện của
chúng ta. Nền tài chính quốc gia và các lĩnh vực khác của nền kinh tế quốc
dân cực kì yếu kém và bị lũng đoạn nghiêm trọng bởi tư bản Pháp. Điều này
có ảnh hưởng nghiêm trọng đến công cuộc khôi phục và bình ổn kinh tế sau
chiến tranh cũng như nền thương nghiệp mới.
Hơn nữa, ngay sau khi chúng ta giải phóng miền Bắc, vì nhiều lí do
khác nhau mà hàng viện trợ của các nước XHCN anh em chưa đến trong khi
nguồn hàng cơ bản của tư bản Pháp không còn nữa. Trước khi rút đi, thực dân
Pháp không chỉ phá hoại các cơ sở kinh tế, văn hoá, xã hội của ta mà còn
chấm dứt việc đưa hàng của họ vào Đông Dương. (Hàng năm trước chiến
tranh, người Pháp đã đưa vào miền Bắc từ 2.000 đến 3.000 đồng Đông Dương
hàng công nghệ, gần 20 vạn tấn gạo Nam bộ [36;4]). Mất đi một nguồn hàng
lớn như vậy trong khi đó chúng ta chưa có nguồn hàng bổ sung chính là
nguyên nhân chủ yếu tạo nên sự mất cân đối nghiêm trọng giữa cung và cầu
sau chiến tranh ở những vùng ta tiếp quản. Trong khi đó, ta phải đáp ứng nhu
cầu của một số dân đông tới 12 triệu người, nhu cầu khôi phục kinh tế quốc
dân, về an ninh quốc phòng, về cải thiện đời sống dân sinh… Những vấn đề
đó càng đặt ra cho công tác ổn định thương nghiệp một nhiệm vụ nặng nề hơn
bao giờ hết.
Nhìn chung, sau giải phóng, thương nghiệp miền Bắc Việt Nam tồn tại
nhiều vấn đề phức tạp. Thương nghiệp vùng kháng chiến và vùng mới giải
10
phóng còn tồn tại quá nhiều khác biệt về cả cơ sở kinh tế-xã hội cũng như
thực trạng phát triển. Nền thương nghiệp vùng kháng chiến mặc dù bước đầu
được tổ chức nhưng vẫn là một nền thương nghiệp nhỏ yếu, chỉ phù hợp với
tình trạng chiến tranh. Trong khi đó, thương nghiệp vùng mới giải phóng là
một nền thương nghiệp thuộc địa, vốn không có đủ khả năng tự đứng vững
khi không có sự can thiệp của tư bản chính quốc.
Như vậy, mặc dù trong 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp, dưới
sự lãnh đạo của Đảng và tổ chức quản lí của chính phủ, chúng ta đã có một
nền thương nghiệp đáp ứng yêu cầu của tình hình kháng chiến và kiến quốc.
Song, trong bối cảnh mới, nền thương nghiệp đó đã bắt đầu bộc lộ nhiều bất
cập cần giải quyết ngay.
Yêu cầu về một miền Bắc chủ nghĩa xã hội với thương nghiệp mới phát
triển để đáp ứng nhu cầu của nhân dân miền Bắc và làm tiền đề cho sự phát
triển thương nghiệp cả nước khi thống nhất là một đòi hỏi hết sức bức thiết.
Một nền kinh tế quốc dân chỉ có thể phát triển nhanh và lành mạnh
được khi mà có thương nghiệp phát triển. Công cuộc xây dựng miền Bắc đặt
ra cho thương nghiệp không chỉ có thị trường riêng ở miền Bắc mà còn có
quan hệ với thế giới mà đặc biệt là các nước XHCN. Chỉ khi nền kinh tế Việt
Nam nối được với nền kinh tế các nước trên thế giới thì chúng ta mới phát huy
hết được sức mạnh của nền kinh tế chúng ta, đồng thời tận dụng được sự hỗ
trợ và giúp đỡ của các nước đối với sự nghiệp xây dựng thương nghiệp miền
Bắc nói riêng và sự nghiệp cách mạng Việt Nam nói chung
Mặt khác, công cuộc xây dựng thương nghiệp miền Bắc Việt Nam
trong hoàn cảnh mới cũng là sự phản ánh đòi hỏi về một nền thương nghiệp
miền Bắc vững mạnh để có thể buôn bán, chi viện cho miền Nam, vừa chi
viện, vừa kháng chiến.
11
Trước hoàn cảnh đó, Đảng ta đã bắt tay ngay vào công cuộc xây dựng
thương nghiệp miền Bắc nước ta sau khi tiếp quản thủ đô và miền Bắc.
Về thực chất yêu cầu xây dựng thương nghiệp miền Bắc Việt Nam có
nhiều nội dung: thứ nhất là kiện toàn về mặt tổ chức thương nghiệp; hai là tổ
chức lại thị trường một cách hợp lí; ba là tổ chức quan hệ buôn bán với các
nước (ngoại thương) và bốn là tổ chức nền thương nghiệp trong quan hệ với
nền thương nghiệp miền Nam Việt Nam trong điều kiện đất nước bị chia cắt,
rồi hoàn thiện chủ trương, chính sách, pháp luật và đào tạo cán bộ cho
ngành.... Đây là những vấn đề quan trọng nhất đối với thương nghiệp miền
Bắc Việt Nam trong giai đoạn này.
Trước yêu cầu đó của tình hình thực tiễn, Đảng và nhà nước ta đã có
những chủ trương, chính sách để xây dựng và phát triển đất nước nói chung
và xây dựng thương nghiệp XHCN nói riêng.
1.1.2. Chủ trương của Đảng.
Điều kiện mới đã đặt ra cho Đảng ta phải có những chủ trương mới để
vừa ổn định nhanh chóng tình hình miền Bắc để vừa tạo điều kiện cho sự phát
triển nền kinh tế nói chung và thương nghiệp nói riêng. Ngay sau thắng lợi
của Điện Biên Phủ (khi Hiệp định Giơnevơ chưa được kí kết), Đảng ta đã họp
hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 6 từ ngày 15 đến 17 tháng 7 năm
1954 để bàn về một loạt các vấn đề quan trọng, trong đó có vấn đề khôi phục
và phát triển thương nghiệp trong tình hình mới. Về thương nghiệp, hội nghị
đã quyết định:
Phát triển mậu dịch quốc doanh, lãnh đạo nhà buôn (phát huy
tích cực về mặt có lợi cho kinh tế quốc dân nhưng đồng thời hạn chế
tính phá hoại của họ)[1;208]. Về chính sách giá cả, ở vùng tự do cũng
như vùng mới giải phóng, cần tránh tình trạng chênh lệch giá quá
nhiều để khỏi thiệt hại cho dân và ảnh hưởng không tốt đến sản xuất.
12
Mậu dịch quốc doanh đưa tiền ra mua hàng nhanh. Mậu dịch quốc
doanh cần tổ chức thêm nhiều ngành, bán nhiều hàng hơn nữa; ra sức
mở mang xuất khẩu lâm thổ sản, nhập công nghệ phẩm, cung cấp
lương thực cho thành thị. Tổ chức hợp tác xã mua bán[1; 209].
Đến tháng 9-1954, Bộ chính trị đã họp để bàn về Tình hình mới, nhiệm
vụ mới và chính sách mới của Đảng đã nhấn mạnh: cần hết sức coi trọng công
tác phục hồi công thương nghiệp làm cho các xí nghiệp công và tư hiện có
được tiếp tục kinh doanh, làm cho thị trường hoạt động, vật giá ổn định, phục
hồi và phát triển mậu dịch đối ngoại, duy trì và phát triển buôn bán giữa miền
Nam và miền Bắc, giải quyết tiền tệ một cách thoả đáng.
Tư tưởng chung là:
Công thương nghiệp tư nhân nhất luật được bảo hộ. Đối với
công thương nghiệp của địa chủ cũng nhất luật không đụng đến. Phàm
là công thương nghiệp có lợi cho quốc kế dân sinh đều được phục hồi
và phát triển. Nếu không có lợi cho quốc kế dân sinh thì có thể hạn chế
một cách thích đáng bằng sắc lệnh của chính phủ trong điều kiện cần
thiết và có thể, không nên thi hành một cách vội vàng [1;295].
Đối với công thương nghiệp của Pháp kiều cũng không bài trừ hoặc tiếp
quản.
Công thương nghiệp quốc doanh là thành phần lãnh đạo nền kinh tế
quốc dân, là nhân tố quan trọng để ổn định thị trường nên cần được toàn Đảng
hết sức coi trọng. Trong những ngành quan trọng, kinh tế quốc doanh cần
chiếm một vị trí nhất định theo nguyên tắc có thể và cần thiết, rồi phát triển
một cách có kế hoạch, theo từng bước, xây dựng thương nghiệp quốc doanh
và thương nghiệp hợp tác xã. Những việc đó rất quan trọng đối với việc quản
lí thị trường, ổn định vật giá, đẩy mạnh sản xuất. Mậu dịch đối ngoại phải do
nhà nước quản lí.
13
Qua các hội nghị Trung ương 6 (7-1954) và hội nghị Bộ chính trị (91954), chủ trương của Đảng ta về thương nghiệp ở miền Bắc Việt Nam đã
được xác lập căn bản. Chủ trương đó tựu trung lại có thể đánh giá là: quản lí
nội thương, độc quyền ngoại thương.
Tiếp theo hai hội nghị quan trọng đó, sau khi ta tiếp quản miền Bắc,
trước yêu cầu cụ thể của tình hình mới, cuối năm 1956, hội nghị Ban chấp
hành trung ương lần thứ 11 đã họp bàn về Tình hình và nhiệm vụ kinh tế, tài
chính trước mắt đã chỉ rõ:
Về thương nghiệp: nhiệm vụ chủ yếu là xây dựng và phát triển
mậu dịch quốc doanh và hợp tác xã, bình ổn vật giá, thúc đẩy sản xuất,
điều chỉnh thương nghiệp tư nhân[3;685].
Về ngoại thương: buôn bán với các nước anh em là chính và phải
dựa trên nguyên tắc bình đẳng tương trợ hai bên cùng có lợi, đồng thời
tranh thủ buôn bán với các nước khác. Tăng cường hoạt động của mậu
dịch quốc doanh là chủ yếu, mặt khác sử dụng đúng mức tư thương bỏ
vốn kinh doanh xuất nhập khẩu, dưới sự quản lí của cơ quan ngoại
thương [36;1-2].
Tiếp đến, ngày 13-3-1957, Bộ chính trị đã có nghị quyết chuyên đề Về
vấn đề bình ổn vật giá, quản lí thị trường [48;79] và hội nghị 12 của Ban chấp
hành Trung ương Đảng họp (3-1957) tiếp tục bàn về kế hoạch nhà nước năm
1957, trong đó có đánh giá và đặt ra các chỉ tiêu cụ thể của công tác thương
nghiệp. Hội nghị nêu lên nhiệm vụ hiện tại chủ yếu là phải củng cố và phát
triển mậu dịch quốc doanh, cải tiến kinh doanh, phân cấp quản lí và tổ chức có
hiệu quả hợp tác xã mua bán. Chú ý sử dụng đại, trung thương với khả năng
của họ đồng thời hạn chế tác hại. Mậu dịch quốc doanh và hợp tác xã phải làm
tăng được 17% sức mua và kiểm soát 41% tổng số bán lẻ. Mậu dịch quốc
doanh phải nắm được 68% thị trường hàng tiêu dùng của toàn bộ thị trường so
14
với 46% năm 1956. Hội nghị này cũng xác định cần phải nhanh chóng giảm
nhập siêu, tăng xuất khẩu hàng hoá lên 138% so với năm 1956.
Như vậy, trong 3 năm khôi phục kinh tế sau chiến tranh, trên bình diện
chung, Đảng ta đã có các chủ trương và chính sách kịp thời để ổn định và đi
vào phát triển một số lĩnh vực trong đời sống kinh tế quốc dân. Riêng đối với
lĩnh vực thương nghiệp, sau các nghị quyết của Ban chấp hành Trung ương
Đảng và Bộ chính trị năm 1954 và các nghị quyết tiếp theo đã khái quát các
quan điểm về chính sách thương nghiệp, phản ánh nhận thức của Đảng ta về
yêu cầu của việc khôi phục và xây dựng một nền thương nghiệp miền Bắc
Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới.
1.2. Tổ chức khôi phục và phát triển thƣơng nghiệp.
1.2.1. Thực hiện bình ổn vật giá và khôi phục hoạt động thương nghiệp
Nhiệm vụ cân đối và bình ổn giá cả là một công tác được Đảng và nhà
nước ta xem là một trong những công tác quan trọng nhất trong 3 năm khôi
phục kinh tế sau chiến tranh.
Chủ trương và chính sách chung của chúng ta lúc đó là :
Điều chỉnh giá cả của hai vùng thành một hệ thống giá cả duy nhất
có tác dụng khôi phục và thúc đẩy sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, tiểu
công nghiệp và thủ công nghiệp, đẩy mạnh lưu thông hàng hoá giữa thành
thị và nông thôn, giữa trong nước và ngoài nước, giúp đỡ nhân dân giải
quyết những khó khăn trong đời sống hàng ngày [36;5].
Trong 3 năm khôi phục kinh tế sau chiến tranh, về vấn đề bình ổn giá cả
diễn ra hết sức phức tạp.
Ngay sau hoà bình lập lại, chúng ta bắt đầu thực hiện hai nhiệm vụ: một
là điều chỉnh giá cả giữa hai vùng; hai là bình ổn giá cả 6 loại hàng chính:
gạo, muối, vải, đường, giấy, dầu hoả, chủ yếu là bình ổn giá gạo [36;5].
15
Tình hình chung lúc bấy giờ là sự chênh lệch giá giữa hàng hoá nông
sản (chủ yếu là gạo) với các loại mặt hàng khác (chủ yếu là hàng công nghệ
phẩm). Khu vực thị trường kháng chiến cũ có lợi thế về nông sản và ngược lại
thị trường ở vùng mới giải phóng lại có lợi thế về hàng công nghệ phẩm. Tuy
nhiên, do trình độ sản xuất và nhiều lí do khác nên giá cả cân đối của hàng
công nghệ phẩm với lúa gạo ở vùng tạm chiếm cũ lại không chênh lệch nhiều.
Trong khi đó, nhu cầu về hàng công nghệ phẩm của ta ở các vùng tự do cũ rất
lớn để ổn định và phát triển sản xuất thì có sự chênh lệch cao.
Bảng số liệu sau có thể cho thấy rõ thực trạng đó:
Mức giá vùng giải
Chệnh lệch
phóng
(%)
0,34
0,15
226,67
Thịt lợn
2,80
1,76
159,1
Muối
0,73
0.12
608,33
Đường
2,9
0,57
508,77
Vải (m)
1,62
0,49
330,61
Xà phòng giặt (kg)
2,20
0,67
328,35
Dầu hoả (lít)
1,83
0,30
610
Giấy viết
0,60
0,18
333,33
Chiếu đôi
3,86
1,50
257,33
Mặt hàng
Mức giá vùng tự do
Gạo tẻ
Bảng số liệu so sánh giá vùng tự do và vùng mới giải phóng [49;370].
Trước hoàn cảnh đó, chính phủ đã chủ trương nâng cao giá gạo ở các
vùng tự do mua vào của mậu dịch quốc doanh từ 1.200đ lên 2.300 đồng/kg.
Nhờ đó mậu dịch quốc doanh đã mua được 23.000 tấn gạo để cung cấp cho
Hà Nội và các vùng mới giải phóng, ổn định điều kiện ăn ở của nhân dân.
Trong khi đó thì lợi dụng việc giá cả hàng công nghệ của vùng mới giải phóng
16
- Xem thêm -