ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
LÊ ĐÌNH HÙNG
ĐẢNG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG
VŨ TRANG VÀ ĐẤU TRANH VŨ TRANG Ở MIỀN
NAM TỪ NĂM 1961 ĐẾN NĂM 1965
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
HÀ NỘI-2009
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
LÊ ĐÌNH HÙNG
ĐẢNG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG
VŨ TRANG VÀ ĐẤU TRANH VŨ TRANG Ở MIỀN
NAM TỪ NĂM 1961 ĐẾN NĂM 1965
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số: 60 22 56
Ng ười hướng dẫn khoa học: PGS,TS ĐOÀN NGỌC HẢI
HÀ NỘI-2009
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954 - 1975) là một thiên
anh hùng ca của cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc. Đó là cuộc chiến tranh yêu
nước vĩ đại, cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc tiêu biểu của
nhân dân ta. Cuộc kháng chiến đã để lại nhiều bài học kinh nghiệm sâu sắc góp
phần làm phong phú thêm kho tàng kinh nghiệm của cách mạng Việt Nam dưới
sự lãnh đạo của Đảng. Một trong những bài học được tổng kết và đúc rút ra từ
cuộc chiến là bài học về đấu tranh vũ trang và chiến tranh cách mạng.
Chủ nghĩa Mác – Lênin coi chiến tranh là một chiến lược tổng hợp, trong
đó mặt trận quân sự có ý nghĩa then chốt, chỉ có sự phát triển của lực lượng vũ
trang và những thắng lợi quyết định trên mặt trận đấu tranh quân sự mới có thể
đánh bại kẻ thù và đập tan ý chí xâm lược của chúng. Nắm vững quan điểm này,
trong những năm 1961- 1965 để đánh bại chiến thuật “trực thăng vận, thiết xa
vận” và mũi nhọn “tìm diệt” của Mỹ ngụy, Đảng đã nhanh chóng nắm bắt tình
hình đưa ra những chủ trương nhằm phát triển lực lượng vũ trang và đấu tranh
vũ trang nâng tầm lên song song với đấu tranh chính trị. Thực hiện chủ trương
đó, quân và dân miền Nam đã vượt qua mọi khó khăn, thử thách đánh bại chiến
lược “chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ, đưa cách mạng miền Nam tiến lên.
Bước sang thế kỷ XXI, đất nước có hoà bình và đang tiến hành sự nghiệp đổi
mới thành công. Đảng ta luôn lấy bài học kinh nghiệm giương cao hai ngọn cờ độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội làm cốt. Tuy nhiên trong hoàn cảnh phức tạp của tình hình
thế giới cũng như nguy cơ của chiến lược “diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ của các
thế lực thù địch trong và ngoài nước, những giá trị to lớn của bài học kinh nghiệm về sự
kết hợp đấu tranh chính trị và đấu tranh quân sự trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước có giá trị tham khảo rất bổ ích. Với ý nghĩa đó, tôi chọn đề tài: “Đảng lãnh đạo
đưa đấu tranh quân sự lên song song với đấu tranh chính trị ở miền Nam từ năm
1961 đến năm 1965” làm luận văn thạc sĩ lịch sử chuyên ngành lịch sử Đảng Cộng Sản
1
Việt Nam của mình, với mong muốn góp phần tổng kết một giai đoạn lịch sử của cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta dưới sự lãnh đạo của Đảng.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Khái quát thành các nhóm:
- Nhóm các công trình tổng kết, các bài viết của các đồng chí lãnh đạo
Đảng, Nhà nước, quân đội.
Công trình tổng kết của Ban tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính
trị (1995)về “Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước – thắng lợi và
bài học” Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, đã đề cập diễn biến cuộc chiến
tranh, nêu lên những bài học về cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Viện
Lịch sử quân sự có cuốn “Lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước”,
tập III viết về chủ trương, biện pháp của Đảng đánh thắng chiến lược “Chiến
tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ. Cuốn “Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam”,
tập III, Viện nghiên cứu chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995.
Cố Tổng bí thư Lê Duẩn có cuốn “Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì độc
lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội tiến lên giành thắng lợi mới” Nxb Sự Thật, Hà nội
1970. Đại tướng Văn Tiến Dũng “Về Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước”
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996. Đại tướng Võ Nguyên Giáp có “Chiến
tranh giải phóng và chiến tranh bảo vệ Tổ quốc” , Nxb Sự Thật, 1979.
- Nhóm các sách chuyên luận, chuyên khảo xuất bản thành sách.
Lê Quốc Dân, “Cuộc đọ sức thần kì” Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội
1991. PGS. TS Nguyễn Trọng Phúc, “Tìm hiểu lịch sử Đảng Cộng sản Việt
Nam qua các đại hội và hội nghị Trung ương” Nxb Lao Động, Hà Nội, 2003.
Trần Văn Giàu, “Miền Nam giữ vững Thành đồng” Tập 2, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội, 1966. Các cuốn sách trên nghiên cứu về cuộc kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước có đề cập đến giai đoạn 1961 -1965 nhưng chưa nghiên cứu làm
rõ chủ trương của Đảng về việc đưa đấu tranh quân sự lên song song với đấu
tranh chính trị, rút ra những kinh nghiệm.
2
- Nhóm các bài báo khoa học đăng trên tạp chí chuyên ngành.
Quang Lợi có bài “ Cuộc chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ ở miền
Nam” đăng trên Tạp chí Học Tập số 7, năm 1963. Duy Nghĩa “Ấp chiến lược
tập trung dân vào cứ điểm quân sự của Mỹ - Diệm ở miền Nam” Tạp chí Học
Tập, số 1, năm 1962. Trần Như Cương, “Quốc sách ấp chiến lược, một âm mưu
nguy hiểm của Mỹ - Nguỵ ở miền Nam (1961 -1965)” Tạp chí Lịch Sử Đảng, số
11, năm 1999. Phạm Quang Toàn “ 20 năm bình định tàn bạo thâm độc của Mỹ
- Nguỵ”, Tạp chí nghiên cứu Lịch sử, số 6, 1976.
- Nhóm các luận văn, luận án có liên quan.
Trần Như Cương, Luận án Tiến sĩ Lịch sử “Đảng lãnh đạo phong trào
chiến tranh chống chương trình bình định của chính quyền Sài Gòn tại Đông
Nam Bộ từ 1961 đến 1965” Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2003. Phí
Văn Thức, Luận án Tiến sĩ Lịch sử “Đảng lãnh đạo phong trào đấu tranh chính
trị tại một số đô thị lớn miền Nam từ năm 1961 đến 1968” Học viện chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh, 2006. Trần Thị Thu Hương, Luận án Tiến sĩ Lịch sử
“Đảng lãnh đạo phong trào đấu tranh chống “Quốc sách ấp chiến lược” của
Mỹ và chính quyền Sài Gòn từ 1961 -1965”, Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí
Minh, 2000. Các công trình trên đã nghiên cứu về sự lãnh đạo của Đảng trong
việc đấu tranh chống lại âm mưu của Mỹ - Nguỵ trong chiến lược “chiến tranh
đặc biệt”, nhưng chưa đi sâu nghiên cứu về Đảng lãnh đạo đưa đấu tranh quân
sự lên song song với đấu tranh chính trị thời kỳ này.
- Nhóm các tài liệu người nước ngoài viết về cuộc kháng chiến chống Mỹ
cứu nước.
Maicơn Máclia có tác phẩm “Việt Nam cuộc chiến tranh mười nghìn
ngày” Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội - 1990. Tác giả R.S Mác Namara với
cuốn “Nhìn lại quá khứ - Tấn thảm kịch và những bài học về Việt Nam” Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995. Hay R. Nich Xơn cũng đã đề cập một phần về
cuộc chiến tranh Việt Nam trong “Hồi ký” của mình Nxb Công an nhân dân, Hà
Nội, 2004. Do quan điểm lập trường giai cấp tư sản, các học giả có đề cập đến
3
cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam nhưng cách nhìn nhận đánh giá về cuộc
chiến tranh có khác nhau nên chưa thật sự khách quan.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn.
* Mục đích:
Làm sáng tỏ sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn sáng tạo của Đảng xây dựng
lực lượng vũ trang và đấu tranh vũ trang trong những năm 1961 – 1965 ở miền
Nam, nhân tố quan trọng quyết định đánh bại chiến lược “chiến tranh đặc biệt”
của đế quốc Mỹ. Làm rõ giá trị lịch sử, hiện thực và đúc rút những kinh nghiệm
có giái trị tham khảo vận dụng vào hiện nay.
3.2 Nhiệm vụ:
Để đạt mục đích trên, luận văn có các nhiệm vụ sau:
Làm rõ yêu cầu khách quan xây dựng lực lượng vũ trang và đấu tranh vũ
trang ở miền Nam từ năm 1961 đến năm 1965.
Phân tích, luận giải làm sáng tỏ chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng xây dựng
lực lượng vũ trang và đấu tranh vũ trang trong những năm 1961 – 1965.
Đánh giá ý nghĩa lịch sử, đúc rút kinh nghiệm vận dụng vào giai đoạn mới.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.
* Đối tượng: Luận văn tập trung nghiên cứu chủ trương và sự chỉ đạo của
Đảng Cộng Sản Việt Nam về xây dựng lực lượng vũ trang và đấu tranh vũ trang
ở miền Nam từ năm 1961 đến năm 1965.
* Phạm vi nghiên cứu:
Về nội dung: nghiên cứu quan điểm, đường lối và sự chỉ đạo của Đảng về
xây dựng lực lượng vũ trang và đấu tranh vũ trang
Thời gian: Từ năm 1961 đến năm 1965
Không gian: Trên chiến trường miền Nam
5. Cơ sở lí luận, phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lí luận: Dựa trên cơ sở lí luận Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh
quan điểm, đường lối của Đảng về chiến tranh cách mạng, về xây dựng lực
lượng chính trị, lực lượng vũ trang, đấu tranh chính trị, đấu tranh vũ trang.
4
- Phương pháp nghiên cứu: Trên cơ sở phương pháp luận mác xít, phương
pháp nghiên cứu chủ yếu của luận văn là sử dụng phương pháp lịch sử, phương
pháp lôgic và sự kết hợp hai phương pháp đó. Ngoài ra sử dụng một số phương
pháp khác như: Thống kê, so sánh, lịch đại, đồng đại...
6. Đóng góp của luận văn
Hệ thống hoá các chủ trương, sự chỉ đạo của Đảng về xây dựng lực lượng
vũ trang và đấu tranh vũ trang từ năm 1961 đến năm 1965
Khẳng định ý nghĩa lịch sử, ý nghĩa hiện thực của chủ trương xây dựng
lực lượng vũ trang và đấu tranh vũ trang; đúc rút kinh nghiệm vận dụng vào xây
dựng nền quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân bảo về Tổ quốc hiện nay.
Luận văn làm tài liệu tham khảo phục vụ cho việc nghiên cứu, giảng dạy
lịch sử Đảng trong cơ quan, trường học.
7. Bố cục luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục. Luận
văn gồm 3 chương chính:
Chương 1: Tình hình miền Nam Việt Nam sau Hiệp định Giơnevơ đến
trước năm 1961
Chương 2: Đảng lãnh đạo công tác xây dựng lực lượng và đấu tranh vũ
trang ở miền Nam (1961 - 1965)
Chương 3: Ý nghĩa lịch sử, bài học kinh nghiệm của quá trình chuyển
hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng (1961 - 1965)
5
Ch-¬ng 1
TÌNH HÌNH MIỀN NAM VIỆT NAM SAU HIỆP ĐỊNH
GIƠNEVƠ ĐẾN TRƯỚC NĂM 1961
1.1 Âm mưu của Đế quốc Mỹ và bộ máy chính quyền tay sai
ở miền Nam Việt Nam
1.1.1 Âm mưu của Đế quốc Mỹ ở miền Nam Việt Nam
Hiệp định Giơnevơ về chấm dứt chiến tranh và lập lại hoà bình ở Việt Nam năm
1954 đã chính thức kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân
dân ta. Miền Bắc hoàn toàn được giải phóng, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội
song từ vĩ tuyến 17 trở vào Nam, chúng ta vẫn phải tiếp tục cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước.
Với âm mưu làm bá chủ thế giới, từ lâu đế quốc Mỹ đã nhòm ngó đến nước ta.
Hiệp định Giơnevơ về Đông Dương được ký kết buộc Pháp phải kết thúc cuộc
chiến tranh khiến đế quốc, điều này khiến Mỹ bàng hoàng lo sợ “Cộng sản sẽ
kiểm soát toàn bộ Đông Nam Á sẽ làm cho vị trí của Mỹ ở các mắt xích gồm các
đảo ngoài khơi Thái Bình Dương trở nên mong manh và sẽ phá hoại nghiêm
trọng lợi ích an ninh cơ bản của Mỹ ở viễn đông” [1, tr.237]. Vì thế, Mỹ quyết
định chọn Việt Nam làm nơi thí nghiệm chiến lược toàn cầu phản cách mạng
nhằm đè bẹp cách mạng Việt Nam, ngăn chặn và đẩy lùi chủ nghĩa cộng sản ở
Đông Dương và Đông Nam Á. Qua đó răn đe các nước xã hội chủ nghĩa, đàn áp
phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới.
Chỉ một ngày sau khi Hiệp định Giơnevơ về Đông Dương được ký kết, tổng
thống Mỹ Ai-xen-hao tuyên bố với báo chí rằng: Hoa Kỳ không tham dự vào
những quyết định của Hội nghị Giơnevơ và không bị ràng buộc vào những quyết
định ấy. Từ đây, Mỹ thực hiện nhiều chủ trương và dùng nhiều biện pháp để cản
trở, phá hoại việc thi hành hiệp định.
Trước khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết ngày 16/06/1954, Mỹ ép Pháp và Bảo
Đại buộc thủ tướng Bửu Lộc tay sai của Pháp từ chức và đưa Ngô Đình Diệm
tay sai của Mỹ lên thay. Ngày 07/07/1954, một nội các bù nhìn mới với nhiều
6
thành phần thân Mỹ thành lập do Ngô Đình Diệm làm Thủ tướng kiêm tổng
trưởng Quốc phòng.
Ngày 18/08/1954, Hội đồng an ninh quốc gia Mỹ (NSC) do Tổng thống Ai-xenhao chủ trì, chính thức chủ trương hất cẳng Pháp và thay Pháp xâm lược Việt
Nam, mở đầu giai đoạn chủ nghĩa thực dân mới trực tiếp xâm lược Việt Nam.
Cũng như chủ nghĩa thực dân cũ của Pháp, Mỹ biết rõ muốn thực hiện chủ
nghĩa thực dân mới ở miền Nam, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới
của Mỹ phải xoá bỏ phong trào cách mạng miền Nam. Tuy nhiên để xóa
bỏ phong trào cách mạng miền Nam, Mỹ không thể làm như Pháp, Mỹ không
thể sử dụng quân viễn chinh xâm lược, Mỹ phải tạo ra chủ nghĩa thực dân
mới, xây dựng và sử dụng đội quân ngụy và chính quyền mang màu sắc quốc
gia giả hiệu. Và ứng viên tiêu biểu cho chính quyền giả hiệu đó là Ngô Đình
Diệm và chính quyền của ông.
Để xây dựng một chính quyền thực dân mới vững mạnh, Mỹ tìm mọi cách để
tiêu diệt các thế lực thân Pháp nhằm xoá bỏ hoàn toàn ảnh hưởng của Pháp,
xây dựng cơ cấu chính trị, quân sự trung thành với Mỹ. Từng bước Mỹ loại
bỏ hết tay chân thân tín của Pháp ra khỏi bộ máy ngụy quân, ngụy quyền.
Tháng 10/ 1955, Mỹ tổ chức “Trưng cầu dân ý” nhằm phế truất Bảo Đại, đưa
Ngô Đình Diệm lên làm tổng thống chính quyền Sài Gòn, tuyên bố thành lập
chính thể Việt Nam cộng hoà.
Bên cạnh lực lượng ngụy quân, một đối thủ khá lợi hại của Mỹ - Diệm trong
những năm đầu tiến hành chiến tranh xâm lược Việt Nam là lực lượng vũ
trang của các giáo phái thân Pháp. Lực lượng này bao gồm quân Bình Xuyên
của Bảy Viễn, lực lượng vũ trang Hoà Hảo và tín đồ Cao Đài có vũ trang.
Trong hơn một năm (từ tháng 4/1955 đến tháng 6/1956) Mỹ - Diệm đã lần
lượt thanh toán xong lực lượng quân sự để tiêu diệt nốt lực lượng các đảng
phái tay chân của Pháp như Đại Việt, Quốc Dân Đảng ... nhằm loại bỏ tận gốc
ảnh hưởng của Pháp, trừ hậu hoạ sau này.
7
Như vậy, tới cuối năm 1956, Mỹ đã hoàn toàn loại bỏ Pháp ra khỏi Việt Nam,
tiến tới độc chiếm toàn Đông Dương. Chính thức thực hiện mục đích biến miền
Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới của mình. Để thực hiện mục đích đó
Mỹ gấp rút xây dựng chính quyền tay sai, tiến hành cải tổ ngụy quân làm công
cụ thực hiện chính sách xâm lược thực dân kiểu mới.
1.1.2 Chính quyền tay sai của Mỹ ở miền Nam Việt Nam
Tháng 3/1956, dưới sự bảo trợ của Mỹ, chính quyền Ngô Đình Diệm
tổ chức tổng tuyển cử, bầu ra Quốc hội. Tháng 10/1956, Diệm ban hành hiến
pháp của “nền Đệ nhất cộng hoà” - một chính quyền tay sai “hợp hiến, hợp
pháp” giả hiệu đã được xây dựng. Chính quyền đó đã thi hành hàng loạt các biện
pháp nhằm chống phá cách mạng, tiêu diệt phong trào đấu tranh của nhân dân
miền Nam, phá hoại Hiệp định Giơnevơ.
Về quân sự, Mỹ tăng cường cố vấn, chuyên viên quân sự sau đó lập ra
Bộ chỉ huy quân sự Mỹ ở Sài Gòn dưới danh nghĩa phái đoàn MAAG. Bên
cạnh đó, Mỹ còn tổ chức lại hệ thống quân chủ lực gồm cấp sư đoàn khinh chiến
và các trung đoàn quân độc lập địa phương. Quân chính quy được trang bị vũ
khí Mỹ, quần áo, cấp hiệu Mỹ. Hệ thống cố vẫn Mỹ đặt từ bộ tổng tham mưu
ngụy, đến các sư đoàn, trung đoàn, các quân khu, các trường huấn luyện, đến
các căn cứ quân sự, kho tàng quan trọng. Các tiểu đoàn ở giới tuyến cũng có cố
vấn Mỹ. Như vậy, phái bộ viện trợ quân sự MAAG chi phối mọi hoạt động của
quân ngụy kiểm soát việc sử dụng viện trợ và chỉ huy phái bộ CATO (tổ chức
huấn luyện và chiến đấu). Số sĩ quan thân Pháp bị khuất phục phải theo Mỹ hoặc
bị sa thải khỏi các vị trí điều hành quân đội, những sĩ quan tin cậy được cất nhắc
vào các cấp chỉ huy. Quân đội Sài Gòn dần dần biến thành một thứ quân đội
Hoa Kỳ bản xứ [21, tr.295].
Từ năm 1957, Mỹ - Diệm bắt đầu thực hiện kế hoạch 5 năm xây dựng
quân đội. Phương pháp, mục tiêu của kế hoạch này là chú trọng chất lượng hơn
số lượng, lấy lục quân làm chủ yếu, tổ chức tương đối chính quy và hiện đại, có
thể tác chiến trên mọi địa hình. Về quân số, địch vẫn duy trì ở mức trên dưới
8
150.000 song về tổ chức bỏ hình thức sư đoàn dã chiến và khinh chiến, thống
nhất tên gọi là sư đoàn bộ binh. Từ 10 sư đoàn, địch chấn chỉnh còn bảy sư
đoàn. Ba sư đoàn khinh chiến được bổ sung cho bảy sư đoàn. Các cơ quan chỉ
đạo chiến lược, chiến thuật, Bộ Tư lệnh Hải quân, các bộ tư lệnh quân đoàn lần
lượt được tổ chức. Không quân, hải quân cũng từng bước được kiện toàn [4,
tr.30]. Bên cạnh đó, để xây dựng đội quân tay sai trung thành, Mỹ - Diệm đã gửi
nhiều sĩ quan đi học ở trường quân sự ở các nước Tư bản, nhất là ở Mỹ.
Về chính trị, để tạo chỗ dựa cho chính quyền, tháng 8/1954 Ngô Đình
Diệm thành lập Đảng Cần lao nhân vị do Ngô Đình Nhu, em ruột của Diệm cầm
đầu. Đảng Cần lao nhân vị thu hút tới 7 vạn đảng viên, chủ yếu là các cha cố, tín
đồ công giáo, công chức và sĩ quan trung, cao cấp. Đảng được tổ chức thống
nhất từ trên xuống dưới. Theo linh mục Cao Văn Luận - nguyên Viện trưởng
Viện đại học Huế, một nhân vật thâm tín với Diệm thì “Trong hầu hết các
trường hợp, viên chức cao cấp nhất của chính quyền tại một địa phương hay một
cơ quan nào đồng thời cũng là lãnh tụ địa phương của Đảng Cần lao” [6, tr.315].
Đảng được coi là nòng cốt của chế độ Diệm cả về phương diện chính trị tinh
thần cũng như thực lực lãnh đạo.
Bên cạnh Đảng Cần lao nhân vị, Diệm còn tổ chức ra phong trào cách
mạng quốc gia (tháng 10/1654) mà nòng cốt là giới công chức và nhân viên
chính quyền Sài gòn do Trần Chánh Thành đứng đầu, hoạt động với khẩu hiệu
“chống cộng sản”, chống phong kiến, chống thực dân nhưng thực chất là chống
cách mạng, chống nhân dân, đi theo Mỹ, tôn thờ Diệm. Tổ chức này phát triển
cả ở nông thôn và thành thị, thu hút khá đông lực lượng hình thành một số liên
đoàn như Liên đoàn phụ nữ, Liên đoàn thanh niên ...
Về mặt hành chính, Mỹ - Diệm xây dựng một bộ máy cai trị từ trung
ương đến tận thôn, xã. Ở trung ương, ngoài Quốc hội là cơ quan lập pháp, có
Tổng thống và kèm theo đó là Phủ Tổng thống với các Bộ Quốc phòng, ngoại
giao, nội vụ, kinh tế, tư pháp, y tế, công dân vụ ... Ở xã, Mỹ - Diệm đưa bọn ác
ôn về làm nòng cốt, buộc những người có thế lực hay kháng chiến cũ tham gia
9
chính quyền để tranh thủ nhân dân, sau đó thanh lọc dần hoặc biến họ thành tay
sai. Bộ máy kìm kẹp ở cơ sở gồm Hội đồng hương chính xã, ban đại diện ấp, uỷ
viên cảnh sát, tổng đoàn, xã đoàn, dân vệ, tổ chức ngũ gia liên bảo, mạng lưới
công an, do thám chìm nổi. Chúng buộc đồng bào lập sổ hộ tịch, làm thẻ căn
cước, phân loại từng gia đình hòng nắm chặt từng người dân.
Như vậy, về cơ bản chính quyền Mỹ - Diệm đã được xây dựng một cách
hoàn bị từ Trung ương đến cơ sở. Trên cơ sở đó chính quyền Mỹ - Diệm bắt tay
vào thực hiện “bình định” miền Nam Việt Nam. Việc đầu tiên, Ngô Đình Diệm
tiến hành là thực hiện chính sách “tố cộng, diệt cộng”.
Từ tháng 5/1955 đến tháng 5/1956, Mỹ - Diệm phát động “chiến dịch
tố cộng” giai đoạn một gọi là giai đoạn mở rộng diện trên quy mô rộng lớn toàn
miền Nam. Mục đích của “chiến dịch tố cộng” là gây uất hận trong dân chúng
đối với Việt cộng. Mục tiêu của địch là tập trung vào nơi có phong trào cách
mạng phát triển, đánh cả người hoạt động cách mạng và dân thường, lấy đánh
vào Đảng cộng sản làm mục tiêu quyết định nhất, vừa tiêu diệt được con người,
vừa khủng bố tinh thần. Tất cả đều nhằm mục đích tối hậu là làm cho những
người cộng sản hoặc bị tiêu diệt, hoặc chịu thuần phục quốc gia, làm cho quần
chúng hoặc chết hoặc trở thành người dân quốc gia.
Để đạt mục tiêu trên, Mỹ - Diệm tổ chức bộ máy chỉ đạo tố cộng rất chặt
chẽ và thống nhất từ trên xuống dưới. Cao nhất là Hội đồng chỉ đạo tố cộng bao
gồm tất cả các bộ trưởng trong chính phủ do Diệm trực tiếp làm chủ tịch. Dưới
Hội đồng chỉ đạo tố cộng là Uỷ ban tố cộng trung ương với các ban thường trực
gồm đại diện Bộ công an, Thông tin, Quốc phòng ... Nhiệm vụ của Uỷ ban tố
cộng trung ương là trực tiếp chỉ đạo phong trào tố cộng ở các tỉnh, các cơ quan
và đào tạo cán bộ làm công tác tố cộng ở cấp trung ương. Giúp việc cho uỷ ban
này có các Ban Tuyên huấn, Học tập kiểm thảo, khai thác ...
Ở cấp tỉnh có Uỷ ban tố cộng tỉnh. Mỗi bộ lại có một uỷ ban chỉ đạo
theo ngành dọc xuống các cơ quan trực thuộc bộ mình. Huyện, xã có Uỷ ban
10
chỉ đạo tố cộng của huyện, xã. Thậm chí, liên gia cũng có bộ phận làm công
tác tố cộng cấp liên gia.
Tố cộng giai đoạn 1 của địch được tiến hành qua ba đợt. Đợt 1: từ ngày
15/5 đến cuối tháng 8/1955, trọng điểm là các tỉnh miền Trung. Đợt 2: từ tháng
9 đến tháng 11/1955, trọng điểm là nội bộ cơ quan ngụy quyền. Đợt 3 từ tháng
11/1955 đến tháng 5/1956, làm rộng rãi ở các tỉnh [4, tr.32].
Đầu tiên, địch thực hiện phân loại dân, chia dân ra làm 3 loại để đánh
phá với phương châm dựa vào loại C (loại không liên quan đến cách mạng),
đánh vào loại A (công dân bất hợp pháp gồm cán bộ, đảng viên, người
kháng chiến cũ), làm cho loại B (công dân nửa hợp pháp - gia đình có người
đi tập kết, liên quan đến kháng chiến cũ) khiếp sợ và khuất phục. Sau đó
từng bước thực hiện [21, Tr.299].
Mở màn chiến dịch tố cộng, địch thực hiện một kế hoạch tuyên truyền
quy mô chưa từng thấy trên tất cả các phương tiện từ báo chí, truyền thanh
đến cả trường học ... nhằm nói xấu Đảng cộng sản, tô vẽ cho bộ mặt chính
quyền tay sai. Tiếp theo đó, chúng kết hợp quân ngụy với bộ máy kìm kẹp ở
cơ sở gồm bọn chỉ điểm, mật vụ, công an, những người phản bội cách mạng...
sục sạo vào xã, ấp nhận mặt từng người. Để khống chế đàn áp quần chúng,
địch dùng mọi biện pháp thâm độc như: tổ chức xé cờ ly khai Đảng, buộc vợ
có chồng đi tập kết hoặc thoát ly phải bỏ chồng, cha mẹ có con tham gia cách
mạng phải từ con. Cùng với biện pháp khống chế tù đày, địch còn kết hợp với
biện pháp o ép, mua chuộc, lừa mị đánh vào tâm lý, tình cảm và kinh tế, buộc
quần chúng phát hiện cán bộ, đảng viên.
Kết thúc giai đoạn 1 tố cộng, Mỹ - Diệm đạt được một phần ý đồ của
chúng là gây hoang mang, lo sợ trong dân chúng, tạo nên mối nghi ngờ về lòng
tin của nhân dân với cách mạng. Các chiến dịch tố cộng, diệt cộng ác liệt của
Mỹ - Diệm đã làm cho một bộ phận cán bộ, đảng viên dao động, mất lòng tin,
không giữ vững được khí tiết người cộng sản, đã ra đầu hàng, tự thú với địch.
11
Sau thành công bước đầu của giai đoạn 1, từ giữa năm 1956, Mỹ Diệm triển khai tiếp giai đoạn 2, trọng điểm là các tỉnh Nam Bộ, đồng thời
Ngô Đình Diệm ngang nhiên tuyên bố không thi hành Hiệp định Giơnevơ,
không hiệp thương với miền Bắc, không tổng tuyển cử. Từ đây, Mỹ - Diệm
tăng cường đánh phá với quy mô lớn và rất tàn bạo đối với nhân dân miền
Nam. Chúng công khai đưa vào Hiến pháp những điều khoản phủ nhận chủ
nghĩa cộng sản, “đặt cộng sản ra ngoài vòng pháp luật”. Những kinh nghiệm
của tố cộng giai đoạn một được Mỹ - Diệm tận dụng triệt để trong giai đoạn
2. Tất cả những điểm trên làm cho tố cộng, diệt cộng giai đoạn 2 của Mỹ Diệm trở nên rất khốc liệt.
Bắt đầu từ ngày 24/6/1956 đến ngày 24/2/1957 địch sử dụng 2 sư đoàn
bộ binh (sư 11 và sư 13), 6 trung đoàn độc lập, 4 hải đoàn xung phong kết hợp
với các đoàn tố cộng và bộ máy kìm kẹp ở cơ sở mở cuộc hành quân mang tên
Thoại Ngọc Hầu càn quét, đánh phá các tỉnh đồng bằng Sông Cửu Long. Mục
tiêu cuộc hành quân này là tiêu diệt cơ sở cách mạng, thanh toán LLVT của ta
và tàn quân của Hoà Hảo, củng cố, phát triển chính quyền ngụy. Đồng thời, từ
ngày 10/7/1956 đến ngày 24/2/1957, chúng mở cuộc hành quân Trương Tấn
Bửu, càn quét các tỉnh miền Đông Nam Bộ (Kể cả Sài Gòn, chợ Lớn) nhằm tiêu
diệt lực lượng cách mạng và tàn quân Bình Xuyên, Cao Đài, kiểm soát chặt chẽ
vùng biên giới, tái lập an ninh nông thôn, hỗ trợ cho các đoàn tố cộng, thực hiện
chiến dịch tố cộng, diệt cộng ở vùng này [4, tr.34].
Từ ngày 1/10/1957 đến tháng 12/1957, Mỹ - Diệm lại mở tiếp cuộc
hành quân mùa Thu, đánh vào miền Tây Nam Bộ lần thứ 2 nhằm củng cố kết
quả tố cộng ở đây và ngăn trở hoạt động của ta, bảo vệ vựa lúa của chúng ở
đồng bằng Sông Cửu Long.
Với thủ đoạn đánh phá vô cùng thâm hiểm như chà đi, xát lại nhiều lần,
phân vùng, chia ô để đánh, đánh cả ngày lẫn đêm, dùng biệt kích, thám báo,
chụp bắt bất ngờ cơ sở ta; sử dụng bọn đầu hàng, tự thú chỉ điểm, dùng hình
12
thức chiến tranh tâm lý để khủng bố, uy hiếp, lung lạc tinh thần cản bộ nhân dân
... địch đã gây cho ta những tổn thất nặng nề.
Đi đôi với tố cộng, diệt cộng, Mỹ - Diệm còn ban hành hai chính sách
“cải tiến nông thôn” và “lập khu trù mật”, “khu dinh điền” nhằm khống chế
nông dân, kiểm soát nông thôn, bổ sung cho “chiến lược tố cộng”. Chương trình
cải tiến nông thôn được tiến hành trên cơ sở lấy “cải cách điền địa” làm khâu
trung tâm để mua chuộc, lừa phỉnh, lôi kéo nông dân nhằm làm suy yếu phong
trào cách mạng ở nông thôn.
Bằng chương trình cải cách điền địa, chính quyền Ngô Đình Diệm đã
cướp không ruộng đất của nông dân, phát triển chế độ chiếm hữu ruộng đất của
giai cấp địa chủ, duy trì phương thức bóc lột phong kiến nhằm xoá bỏ ảnh
hưởng của cách mạng ở nông thôn, bần cùng hoá lực lượng đồng minh của giai
cấp công nhân trong cách mạng dân tộc dân chủ.
Cùng với việc thực hiện Chương trình cải cách điền địa, tháng 4/1957
Mỹ - Diệm cho ra đời cái gọi là “Chính sách tái định cư và cứu tế dân di cư”,
bằng việc xây dựng các khu dinh điền. Núp dưới danh nghĩa là một tổ chức
sản xuất nông nghiệp để giải quyết đời sống cho dân nghèo, đặc biệt là dân di
cư từ miền Bắc vào. Các dinh điền được thiết lập trên các cao nguyên hẻo
lánh và xung yếu dọc biên giới nhằm mục tiêu chủ yếu là xây dựng tuyến
ngăn chặn từ xa, từng bước bao vây, cô lập cách mạng. Chính Diệm - Nhu đã
xác định: “Khu dinh điền là biện pháp xẻ đường đưa dân vào chiến khu, mật
khu Việt cộng, dùng dân đề đẩy cộng sản ra khỏi vùng đó và dinh điền là nơi
cung cấp tin tình báo, nơi xuất phát để hành quân ngăn chặn xâm nhập”[1,
tr.67]. Ngay cả Trưởng phái đoàn viện trợ kinh tế Mỹ thì tuyên bố: “Phải làm
cho các khu dinh điền trở thành những cứ điểm bao vây bọn Việt cộng. Với ý
đồ như vậy, Mỹ - Diệm tổ chức bộ máy chỉ đạo để thực hiện chương trình này
rất chặt chẽ và thống nhất từ trung ương tới địa phương.
Với những thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, sau gần 2 năm thực hiện (từ
4/1957 đền đầu năm 1959) trên toàn miền Nam, Mỹ - Diệm đã dồn được
13
128.374 người, trong đó có 90.436 người là dân di cư từ miền Bắc vào 84 khu
dinh điền, khai phá 12.322 ha đất canh tác. Riêng Nam Bộ, chúng xây dựng
được 7 khu gồm 47 điểm ở Phước Long, Kiến Phong, Kiến Tường, có cả những
khu dành cho các gia đình binh sĩ ngụy ở dọc biên giới huyện Mộc Hoá (Long
An), Tân Uyên ... [4, tr.40]. Phần lớn dân chúng bị dồn ép, cưỡng bức vào các
khu dinh điền, không chịu nổi cuộc sống khắc nghiệt, bị o ép mọi bề ở nơi rừng
thiêng, nước độc này nên cuối năm 1958, số bỏ trốn ngày càng tăng.
Sau hàng loạt các chiến dịch tố cộng, diệt cộng, các chương trình cải cách
điền địa, lập khu trù mật, khu dinh điền ... chính quyền Mỹ - Diệm đã làm cho cách
mạng miền Nam tổn thất nặng nề. Để tiến lên tiêu diệt hoàn toàn cách mạng miền
Nam, Mỹ - Diệm tiếp tục thi hành thêm nhiều chính sách khốc liệt hơn.
Tháng 4/1959, Quốc hội Diệm thông qua đạo luật 91, được Diệm ban
hành ngày 6/5/1959 mang tên “Luật 10/59” về thành lập các toà án quân
sự đặc biệt để xử những người cộng sản. Theo luật 10/59, tội xử chỉ có 2
mức: tử hình và khổ sai, kéo dài 3 ngày là tối đa, không có giảm khinh,
không có kháng án. Thực chất của luật 10/59 là đánh vào tất cả các lực
lượng cách mạng và nhân dân miền Nam.
Ngày 4/7/1959, Quốc hội Diệm lại thông qua luật số 21 cho phép
Diệm dùng máy chém giết hại nhân dân miền Nam. Chúng đưa máy chém đi
khắp nơi, gây nên các vụ giết người man rợ. Bất kỳ ai được chúng gọi là
Việt cộng hoặc “chứa chấp” Việt cộng đều bị buộc tội, “nhà nào chứa chấp
cộng sản thì bị chặt đầu hết cả nhà”. Chúng giở sổ theo dõi của mật vụ, moi
móc đủ mọi chuyện lớn nhỏ của đồng bào từ trước tới nay: ai đã biểu tình, ai
xin miễn dịch, ai phản đối trưng cầu dân ý, ai chưa dứt khoát với cộng sản...
Hàng loạt người bị bắt, bị giết, bị tù đày. Đây là thời kỳ đen tối nhất của
phong trào cách mạng miền Nam. Máy chém đã trở thành biểu tượng của
chế độ phát xít Ngô Đình Diệm do Mỹ dựng lên.
Như vậy, trong vài năm đầu sau Hiệp định Giơnevơ, trong khi toàn Đảng,
toàn dân ta cố gắng thực hiện nghiêm chỉnh những điều khoản được ký kết trong
14
Hiệp định Giơnevơ thì Mỹ - Diệm lại ra sức phá hoại Hiệp định và triệt phá cách
mạng. Chính vì thế, lực lượng cách mạng của ta bị tổn thất nặng nề. Khi Liên
tỉnh uỷ miền Trung bắt đầu chuyển hướng đấu tranh chính trị, ta bố trí lại 12.000
đảng viên, cuối giai đoạn 1 tố cộng mất 6.000, đến cuối năm 1959 chỉ còn lại
2.000 đồng chí. Ở Mỹ Tho sau tháng 07/1959 có 90 chi bộ bám đều khắp với
3.00 đảng viên đến cuối năm 1959 chỉ còn lại 8 chi bộ, các tổ chức thanh niên
lao động nòng cốt bị địch đánh tan rã gần hết. Bến Tre, sau ngày 20/7/1954 có
chi bộ đều khắp các xã hơn 2.000 đảng viên, cuối năm 1959 chỉ còn 18 chi bộ
với 162 đảng viên trong 115 xã [21, tr.326]. Trước tình hình như vậy, yêu cầu về
sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng đối với cách mạng miền Nam
ngày càng trở nên cấp thiết.
1.2 Tình hình cách mạng miền Nam giai đoạn 1954 - 1961
Hiệp định Giơnevơ được ký kết đã đưa cách mạng Việt Nam bước sang
giai đoạn mới. Miền Bắc hoàn toàn giải phóng và bắt đầu công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội trong khi tình hình miền Nam lại có rất nhiều biến động. Trước
sự chuyển biến của tình hình, từ ngày 5 đến ngày 7/9/1954, BCT đã họp và ra
nghị quyết: “Về tình hình mới, nhiệm vụ mới và chính sách mới của Đảng”.
Trên cơ sở phân tích những đặc điểm và tình hình mới của cách mạng
Việt Nam, BCT đề ra nhiệm vụ của cách mạng nước ta là: “Đoàn kết và lãnh
đạo nhân dân đấu tranh thực hiện hiệp định đình chiến... để củng cố hoà bình, ra
sức hoàn thành cải cách ruộng đất, phục hồi và nâng cao sản xuất, tăng cường
xây dựng. Quân đội nhân dân để củng cố miền Bắc, giữ vững và đẩy mạnh cuộc
đấu tranh chính trị của nhân dân miền Nam, đặng củng cố hoà bình thực hiện
thống nhất, hoàn thành độc lập dân chủ trong toàn quốc [16, tr.15].
Đối với miền Nam, BCT xác định nhiệm vụ của Đảng trong giai đoạn
hiện tại là: “Lãnh đạo nhân dân miền Nam đấu tranh thực hiện hiệp định đình
chiến, củng cố hoà bình, thực hiện tự do dân chủ (tự do ngôn luận, tự do hội
họp, tự do tổ chức, tự do đi lại...), cải thiện dân sinh, thực hiện thống nhất và
tranh thủ độc lập. Đồng thời phải lãnh đạo nhân dân đấu tranh chống những
15
hành động khủng bố, đàn áp, phá cơ sở của ta, bắt bớ cán bộ ta và quần chúng
cách mạng, chống những hành động tiến công của địch, giữ lấy quyền lợi
quần chúng đã giành được trong thời kỳ kháng chiến, nhất là ở những vùng
căn cứ địa và vùng du kích cũ của ta” [16, tr.308].
BCT cũng chỉ rõ phương châm của ta lúc này là: “Tranh thủ hoạt động
hợp pháp và nửa hợp pháp, kết hợp công tác hợp pháp với công tác không
hợp pháp. Đối với các tổ chức quần chúng và tổ chức đảng thì cố tranh thủ
cho được tồn tại hợp pháp và hoạt động hợp pháp. Hình thức đấu tranh kịch
liệt (như khởi nghĩa và chiến tranh du kích) cần đình chỉ ngay; những hình
thức như biểu tình, đình công, bãi khoá, bãi thị... cũng cần sử dụng một cách
thận trọng và phải tiến hành trên nguyên tắc có lý, có lợi, có mức, đừng để
bọn phản động khiêu khích và tạo cơ hội cho bọn thực dân Pháp phá hoại
đình chiến và ngụy quyền khủng bố [16, tr310].
Trước yêu cầu phát triển mau lẹ của tình hình. Nghị quyết BCT tháng
9/1954 đã kịp thời chỉ ra phương hướng hành động cho toàn Đảng, toàn quân và
toàn dân ta nói chung, ở miền Nam nói riêng. Điều này đã thể hiện quyết tâm
của toàn thể dân tộc ta trong cuộc đấu tranh thống nhất Tổ quốc. Và phương
châm thực hiện đấu tranh chính trị là phương châm chủ đạo trong giai đoạn đầu
của cuộc kháng chiến chống Mỹ. Ngày 15/9/1955, TW Đảng nhận định: “Đông
Dương nằm trong khu vực căng thẳng do chính sách gây chiến của đế quốc Mỹ Diệm đương ráo riết hoạt động ở miền Nam ... Do đó, phương châm đấu tranh ở
miền Nam phải giữ gìn lực lượng, không làm hao phí lực lượng không đem
phong trào nhân dân miền Nam ra xung phong một cách đơn độc. Mỗi cuộc đấu
tranh phải kết hợp với việc giữ vững và củng cố cơ sở tổ chức. Có như vậy mới
đúng tính chất trường kỳ đấu tranh”. [17, tr.609].
Dưới ánh sáng của đường lối cách mạng, nhân dân ta ở miền Nam đã đẩy
mạnh đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ và hoà bình, đòi đối phương thi hành
nghiêm chỉnh Hiệp định Giơnevơ. Mở đầu cho phong trào đấu tranh này là
những cuộc mít tinh, biểu tình có tính chất biểu dương lực lượng rầm rộ nổ ra ở
16
khắp nơi trên toàn miền Nam. Phong trào đã thu hút sự tham gia đông đảo của
các tầng lớp trí thức yêu nước và tiến bộ. Bên cạnh đó, đông đảo các tầng lớp
nhân dân lao động thuộc các cơ sở sản xuất, các đoàn thể tiến bộ, các tổ chức
quần chúng ... cũng tham gia phong trào.
Tuy nhiên, thực tiễn 2 năm đấu tranh chính trị, chứng tỏ với “chế độ độc
tài phát xít của tư sản mại bản và phong kiến thân Mỹ phản động nhất” mà Mỹ
dựng lên ở miền Nam thì đấu tranh bằng phương pháp hoà bình là không có hiệu
quả. Trước chiến dịch “tố cộng, diệt cộng” của Mỹ - Diệm, cách mạng miền
Nam đã gặp rất nhiều khó khăn: nhiều gia đình bị ly tán, cơ sở cách mạng tan rã,
cán bộ, đảng viên bị bắt giết, tù đày. Số người bị tình nghi cán bộ, đảng viên, có
cảm tình với cách mạng bị giam lên đến hàng vạn. Điều này đòi hỏi Đảng phải
kịp thời chuyển hướng đấu tranh tìm ra phương pháp và hình thức thích hợp,
nhằm gìn giữ và phát triển lực lượng để khi có thời cơ kịp thời phát động quần
chúng đứng lên giành chính quyền về tay nhân dân.
Trước yêu cầu đó, tháng 6/1956, BCT họp và ra nghị quyết về tình hình
nhiệm vụ và công tác miền Nam Bộ Chính trị khẳng đinh: Tình hình quốc tế
và trong nước có những diễn biến phức tạp nên cuộc đấu tranh của người dân
ta ở miền Nam nhất định phải kéo dài và có nhiều khó khăn gian khổ. Bởi vậy
chúng ta phải chọn: “Hình thức đấu tranh của ta trong toàn quốc hiện nay là
đấu tranh chính trị, không phải là đấu tranh vũ trang. Nói như thế không có
nghĩa là tuyệt đối không dùng vũ trang tự vệ trong những hoàn cảnh nhất định
hoặc không tận dụng những lực lượng vũ trang của các giáo phái chống
Diệm” [18, tr.225]. BCT chủ trương: “Cần củng cố lực lượng vũ trang, bán
vũ trang hiện có và xây dựng các căn cứ làm chỗ dựa. Đồng thời xây dựng cơ
sở quần chúng vững mạnh làm điều kiện căn bản để duy trì và phát triển
LLVT. Tổ chức tự vệ trong quần chúng nhằm bảo vệ các cuộc đấu tranh của
quần chúng và giải thoát cán bộ khi cần thiết” [18, Tr.228].
Nghị quyết BCT tháng 6/1956 đã thể hiện sự thay đổi trong đường
lối chỉ đạo cách mạng ở miền Nam. Nghị quyết đã chỉ ra những vấn đề cơ bản
17
của cách mạng miền Nam như vấn đề vũ trang tự vệ để bảo vệ phong trào đấu
tranh của quần chúng, bảo vệ cơ sở và cán bộ, vấn đề xây dựng LLVT và căn
cứ địa cách mạng, vấn đề xây dựng Đảng và xây dựng Mặt trận dân tộc thống
nhất chống Mỹ - Diệm.
Vấn đề đấu tranh vũ trang lại tiếp tục được
đề cập tới trong
bản “Đề cương Đường lối cách mạng miền Nam” do đồng chí Lê Duẩn Uỷ viên Bộ chính trị soạn thảo vào tháng 8/1956. “Đường lối cách mạng miền
Nam” có ý nghĩa rất quan trọng trong việc chỉ đạo cách mạng miền Nam. Tài
liệu này cùng với các Nghị quyết của TW và BCT đã chỉ đạo cách mạng miền
Nam cho phù hợp với thực tiễn đấu tranh. Trên thực tế, các cấp uỷ đảng Nam
Bộ, Khu V bắt đầu chú trọng xây dựng, phát triển LLVT tuyên truyền, vũ
trang tự vệ, xây dựng căn cứ để yểm trợ cho đấu tranh chính trị chống tố
cộng, diệt cộng. Nhân dân miền Nam đã khéo kết hợp chặt chẽ đấu tranh
chính trị với vũ trang trong những điều kiện cụ thể.
Tuy nhiên, đường lối chung của Đảng vẫn là tập trung mạnh vào đấu
tranh chính trị, lấy đấu tranh chính trị làm chủ yếu, đấu tranh vũ trang chỉ
được sử dụng trong những trường hợp thật cần thiết với mục đích hỗ trợ
cho đấu tranh chính trị.
Nắm được chủ trương, đường lối của ta, Mỹ - Diệm ra sức đánh phá cách
mạng. Địch dùng bạo lực phát xít đánh thẳng vào lực lượng cách mạng, vào
phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng. Vì thế, phong trào cách mạng
của quần chúng gặp nhiều khó khăn, tổn thất. Thế cách mạng ở thị xã, thị trấn
yếu dần, tại nông thôn tình hình đấu tranh chống địch bị giảm sút, nhiều cơ sở
cách mạng bị tan rã và bị thiệt hại nặng, quần chúng bị kìm kẹp gắt gao, có chỗ
gượng lại được nhưng không bằng cũ.
Theo thống kê, chỉ hai năm sau Hiệp định Giơnevơ, Đảng bộ Nam
Bộ bị tổn thất nặng: 1 phó bí thư Xứ uỷ, 18 tỉnh uỷ viên, 100 huyện uỷ viên bị
bắt hoặc bị giết. Trong vòng 4 năm (1955 - 1958), trên 9/10 cán bộ, đảng viên ở
miền Nam bị giết hại. Riêng Nam Bộ chỉ còn 5 ngàn đảng viên trên tổng số 60
18
- Xem thêm -