ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------
VŨ THỊ THU HIỀN
ĐẢNG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG
LỰC LƢỢNG AN NINH MIỀN NAM
TỪ NĂM 1960 ĐẾN NĂM 1975
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
HÀ NỘI, 2012
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------
VŨ THỊ THU HIỀN
ĐẢNG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG
LỰC LƢỢNG AN NINH MIỀN NAM
TỪ NĂM 1960 ĐẾN NĂM 1975
CHUYÊN NGÀNH
LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
MÃ SỐ:
60 22 56
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Vũ Quang Hiển
HÀ NỘI, 2012
2
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU........................................................................................................
4
Chƣơng 1 ĐẢNG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG LỰC LƢỢNG AN NINH
13
MIỀN NAM TỪ NĂM 1960 ĐẾN NĂM 1965
1.1. Tình hình miền Nam sau ngày Hiệp định Giơnevơ đƣợc ký kết và
13
chủ trƣơng của Đảng
1.1.1. Tình hình miền Nam sau ngày Hiệp định Giơnevơ được ký kết.........
13
1.1.2. Chủ trương của Đảng............................................................................
18
1.2. Chỉ đạo thành lập lực lƣợng An ninh miền Nam
20
1.2.1. Thành lập Ban An ninh Trung ương Cục miền Nam............................
20
1.2.2. Hình thành hệ thống an ninh ............................................................
27
Tiểu kết
43
Chƣơng 2 ĐẢNG LÃNH ĐẠO CỦNG CỐ, KIỆN TOÀN LỰC
45
LƢỢNG AN NINH MIỀN NAM TỪ NĂM 1965 ĐẾN NĂM 1975
2.1. Lãnh đạo củng cố, phát triển lực lƣợng từ năm 1965 đến năm 1968
45
2.1.1. Công tác chính trị, tư tưởng.................................................................
45
2.1.2. Củng cố tổ chức, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ………………...
53
2.2. Đảng lãnh đạo điều chỉnh tổ chức, củng cố lực lƣợng từ năm 1969
62
đến 1975
2.2.1. Điều chỉnh tổ chức, củng cố lực lượng trong những năm 1969-
62
1973........................................................
2.2.2. Lãnh đạo phát triển lực lượng trong những năm 1973-1975...............
Tiểu kết
73
94
Chƣơng 3 NHẬN XÉT VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
96
3.1. Nhận xét
96
3
3.1.1 Ưu điểm.................................................................................................
96
3.2.1. Hạn chế.................................................................................................
106
3.2. Bài học kinh nghiệm
108
3.2.1. Sự lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối của Đảng là nhân tố quyết định đối
109
với quá trình phát triển của lực lượng an ninh miền Nam..............................
3.2.2. Lãnh đạo xây dựng và rèn luyện lực lượng, kiện toàn bộ máy…........
112
3.2.3. Tin tưởng và dựa chắc vào quần chúng để phát triển lực lượng, xây
115
dựng mạng lưới an ninh .................................................................................
3.2.4. Phát huy vai trò nòng cốt của lực lượng an ninh miền Nam trong
118
cuộc đấu tranh chống phản cách mạng của nhân dân miền Nam...................
Tiểu kết
120
KẾT LUẬN
121
TÀI LIỆU THAM KHẢO
124
4
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là bản anh hùng
ca vĩ đại trong lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam.
Thắng lợi đó đã chứng minh truyền thống yêu nước quật cường, trí thông
minh và tài thao lược của dân tộc trong sự nghiệp đấu tranh vì độc lập tự do,
vì chủ nghĩa xã hội.
Trong chiến công chung của dân tộc, lực lượng Công an nhân dân dưới
sự lãnh đạo của Đảng đã từng bước trưởng thành, đọ sức và đánh thắng bộ
máy chiến tranh gián điệp của tên đế quốc sừng sỏ nhất, có nhiều kinh nghiệm
nhất trong chiến tranh gián điệp, tâm lý và bình định, góp phần bảo vệ miền
Bắc, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Lực lượng An ninh miền Nam là một bộ phận quan trọng của lực lượng
Công an nhân dân Việt Nam trong thời kỳ chống Mỹ, cứu nước. Xuất phát từ
nhiệm vụ cụ thể của cách mạng miền Nam, Đảng đã chú trọng công tác xây
dựng An ninh miền Nam từ không đến có, từ ít đến nhiều, thành một tổ chức
chặt chẽ với nhiệm vụ đấu tranh chống lại âm mưu, hoạt động của các cơ
quan tình báo, mật vụ, cảnh sát đặc biệt, biệt kích và các tổ chức trá hình khác
của Mỹ và chính quyền Sài Gòn, bảo vệ Đảng, bảo vệ nhân dân, bảo vệ các
lực lượng và phong trào cách mạng miền Nam, bảo vệ miền Bắc và tiến tới
thống nhất Tổ quốc.
Thời kỳ chống Mỹ, cứu nước là thời kỳ Đảng tập trung lãnh đạo, chỉ
đạo công tác xây dựng lực lượng An ninh miền Nam. Xác định rõ tầm quan
5
trọng đặc biệt của công tác này, Đảng chủ trương tuyển chọn, đào tạo, xây
dựng cơ sở, chuẩn bị chu đáo cho quá trình thành lập hệ thống tổ chức an ninh
với một đội ngũ cán bộ dày dạn kinh nghiệm, tuyệt đối trung thành với Đảng,
tận tụy với dân, chiến đấu dũng cảm, sáng tạo trong công tác, hoàn thành xuất
sắc những nhiệm vụ nặng nề của cách mạng.
Sự lãnh đạo của Đảng trong công tác xây dựng và phát triển lực lượng
An ninh miền Nam thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước để lại những bài
học kinh nghiệm quý báu trong công tác xây dựng lực lượng an ninh. Nó cũng
có ý nghĩa to lớn trong việc cung cấp những căn cứ thực tiễn sinh động cho sự
hoạch định chủ trương, phương pháp xây dựng lực lượng an ninh nói riêng,
lực lượng Công an nhân dân nói chung.
Hiện nay, công cuộc đổi mới của Đảng và nhân dân Việt Nam đã thu
được những thành tựu hết sức quan trọng, song cũng đứng trước những nguy
cơ, thách thức lớn. Nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đang diễn ra trong
bối cảnh tình hình trong nước và quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp. Các thế
lực thù địch vẫn đang tiếp tục thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”, hòng
xóa bỏ chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Trong khi đó, một bộ phận cán bộ, đảng
viên trong lực lượng công an có biểu hiện phai nhạt lý tưởng, tha hóa biến
chất, làm giảm lòng tin của quần chúng nhân dân. Bên cạnh đó, lĩnh vực xây
dựng lực lượng còn bộc lộ nhiều yếu kém. Vì vậy, đẩy mạnh công tác xây
dựng lực lượng công an nhân dân hiện nay là rất cần thiết và có ý nghĩa quan
trọng. Nhiệm vụ bảo vệ an ninh chính trị, giữ gìn trật tự an toàn xã hội trong
giai đoạn cách mạng hiện tại vẫn hết sức nặng nề, khó khăn, phức tạp. Để
nâng cao sức chiến đấu, phải có sự đổi mới về nhận thức trong công tác từ lý
luận đến thực tiễn, nhằm xây dựng lực lượng công an chính quy, tinh nhuệ,
từng bước hiện đại, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của cách mạng.
6
Xuất phát từ ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn nêu trên, tôi chọn đề
tài “Đảng lãnh đạo xây dựng lực lượng An ninh miền Nam từ năm 1960 đến
năm 1975” làm luận văn thạc sĩ khoa học Lịch sử, chuyên ngành Lịch sử
Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu vấn đề
An ninh miền Nam thời kỳ chống Mỹ, cứu nước là một vấn đề được
nhiều tác giả nghiên cứu. Từ trước đến nay có nhiều công trình viết về vấn đề
này, đó là: các công trình được biên soạn, xuất bản về lịch sử Công an nhân
dân, lịch sử xây dựng lực lượng Công an nhân dân, trong đó đề cập đến lực
lượng An ninh miền Nam, một số công trình có tính chất chuyên đề, công
trình nghiên cứu về các giai đoạn xây dựng phát triển lực lượng an ninh. Đáng
chú ý là:
An ninh miền Nam thời kỳ chống Mỹ 1954-1975, (1995) Nxb Công an
nhân dân, Hà Nội. Cuốn sách trình bày rõ nét về quá trình xây dựng, phát
triển và chủ yếu là hoạt động của lực lượng An ninh miền Nam trong thời kỳ
chống Mỹ. Từ đó khẳng định: dưới sự lãnh đạo của Đảng, lực lượng An ninh
miền Nam vững vàng về chính trị, sắc bén về nghiệp vụ, đoàn kết và phối hợp
chặt chẽ với các lực lượng cách mạng khác, có hệ thống tổ chức thống nhất từ
An ninh Miền đến cơ sở, có đội ngũ cán bộ chiến sĩ trung thành, tận tụy, chiến
đấu dũng cảm, không quản ngại khó khăn, gian khổ, hy sinh tính mạng, đã
hoàn thành nhiệm vụ nặng nề Đảng giao phó. Về vấn đề xây dựng lực lượng
An ninh các tác giả khẳng định: “Các cấp đảng bộ đều quan tâm xây dựng lực
lượng an ninh về mặt tổ chức”[1, tr. 366]. Công trình này tập trung vào hoạt
động của lực lượng An ninh miền Nam nên vấn đề xây dựng lực lượng An
ninh miền Nam có đề cập nhưng chưa rõ nét.
Lịch sử Lực lượng An ninh nhân dân (1954-1965, (2008), Nxb Công an
nhân dân, Hà Nội. Cuốn sách tập trung hoạt động của lực lượng bảo vệ cách
7
mạng sau khi hiệp định Giơnevơ được ký kết. Dưới sự lãnh đạo của Xứ ủy
Nam Bộ, đồng bào miền Nam vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, xây dựng và
củng cố phong trào cách mạng, từng bước làm thất bại âm mưu thâm độc và
kế hoạch chiến tranh của địch. Trong máu lửa, bão táp của cách mạng, các
Ban Địch tình ra đời. Từ năm 1960 cách mạng miền Nam chuyển sang giai
đoạn mới, An ninh miền Nam chính thức được thành lập đáp ứng nhiệm vụ
bảo vệ Đảng, bảo vệ phong trào cách mạng. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, lực
lượng An ninh miền Nam đánh bại chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của
địch. Đây là thời kỳ kế thừa và phát triển đường lối, phương châm đấu tranh
chống phản cách mạng, từ cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Nghị quyết
số 39/NQ-TW ngày 20-1-1962 là kết tinh nhiều chỉ thị, nghị quyết trước đó.
Nghị quyết xác định đường lối, nhiệm vụ, chính sách, sách lược cho cuộc đấu
tranh chống phản cách mạng.
Lịch sử Công an nhân dân Việt Nam (1954-1975), (2000), Nxb Công
an nhân dân, Hà Nội. Nội dung chủ yếu của cuốn sách nói về Công an nhân
dân đấu tranh chống phản cách mạng và các loại tội phạm khác, bảo vệ an
ninh trật tự, phục vụ hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam, hoàn thành cuộc cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, thống nhất Tổ quốc.
Lịch sử Xây dựng lực lượng Công an nhân dân Việt Nam, tập II (19541975) (Sơ thảo), (2010), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. Cuốn sách ghi lại
chặng đường hết sức sôi động nhưng không kém phần gay go, phức tạp trong
công tác xây dựng lực lượng Công an nhân dân trong sự nghiệp kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước. Đây là thời kỳ lực lượng Công an nhân dân không
ngừng xây dựng, tăng cường mọi mặt về chính trị tư tưởng, tổ chức cán bộ,
nghiệp vụ, trang bị vũ khí và phương tiện kỹ thuật. Sự trưởng thành, lớn mạnh
của lực lượng Công an nhân dân góp phần cùng cả nước đánh thắng giặc Mỹ
8
xâm lược. Tuy nhiên do ở mức sơ thảo nên cuốn sách dừng lại khái quát các
mặt xây dựng lực lượng Công an nhân dân nói chung.
Tổng kết lịch sử Xây dựng lực lượng Công an nhân dân (1945-2000)
(2010), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. Cuốn sách chia làm 2 phần: phần thứ
nhất khái quát lịch sử xây dựng lực lượng Công an nhân dân từ năm 1945 đến
năm 2000. Phần này được chia thành các chương tương ứng với các giai đoạn
phát triển của cách mạng. Nội dung chủ yếu trong xây dựng lực lượng các
giai đoạn này là chính trị tư tưởng và công tác cán bộ. Giai đoạn 1965-1968
“giáo dục chính trị, tư tưởng đã giúp cho cán bộ, chiến sĩ công an nhận thức
rõ hơn tính chất gay go, quyết liệt của cuộc chiến tranh, nâng cao thêm ý chí
cách mạng, xây dựng quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ” [65, tr. 81]. Phần thứ
hai, bài học lịch sử về xây dựng lực lượng Công an nhân dân (1945-2000), có
6 bài học kinh nghiệm được rút ra trong quá trình xây dựng lực lượng công an
nhân dân trong cả nước. Các bài học đó là kinh nghiệm quý báu cho xây dựng
lực lượng Công an nhân dân hôm nay và mai sau. Đây là công trình có ý
nghĩa về xây dựng lực lượng Công an nhân dân. Về vấn đề xây dựng lực
lượng an ninh miền Nam từ năm 1960 đến 1975 cũng đã được đề cập. Tuy
nhiên đây là công trình tổng kết lịch sử xây dựng lực lượng Công an nhân dân
nên vấn đề nêu trên chỉ dừng lại ở mức khái quát.
Lịch sử An ninh Khu VI thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
(1962-1975) (2007), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. Khu VI (Cực Nam
Trung Bộ-Nam Tây Nguyên) gồm các tỉnh: Đồng Nai, Lâm Đồng, Bình
Thuận, Ninh Thuận, Khánh Hòa, nơi được Bộ Chính trị xác định là địa bàn
chiến lược. Cuốn lịch sử dựng lại hoạt động của lực lượng An ninh Khu VI từ
khi thành lập (5/1962) đến khi giải thể (2/1976) và khẳng định: dưới sự lãnh
đạo của Đảng, của Bộ Công an, sự hướng dẫn chỉ đạo của Ban An ninh Trung
ương Cục, lực lượng An ninh Khu VI tuy ít và mỏng đã nêu cao tinh thần tự
9
lực, tự cường, vừa sản xuất, vừa chiến đấu, vừa phát triển thực lực tại chỗ,
bảo vệ thực lực cách mạng, tiến lên đánh các đối tượng cảnh sát, thám báo và
bọn tề xã, phục vụ yêu cầu phá kềm, mở rộng vùng giải phóng; tham gia Tổng
tiến công và nổi dậy Xuân 1968; tích cực tham gia đấu tranh đòi thi hành
Hiệp định Pari. Nhanh chóng triển khai lực lượng giữ vững an ninh trật tự,
quản lý vùng mới giải phóng, bảo vệ hành lang chiến lược của các cánh quân
chủ lực tiến về Sài Gòn. Cuốn sách này vấn đề xây dựng lực lượng An ninh
Khu VI được đề cập nhưng ít bởi chủ yếu tập trung vào các hoạt động của lực
lượng An ninh Khu VI từ khi thành lập.
Lịch sử An ninh Khu V thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (19541975) (2008), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. Khu V gồm 9 tỉnh: Quảng
Nam, Quảng Đà, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Kon Tum,
Gia Lai, Đắc Lắc. Công trình tập trung hoạt động của lực lượng An ninh Khu
V thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước. An ninh Khu V là một bộ phận
của An ninh miền Nam. Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của các cấp ủy Đảng, sự
chi viện của công an miền Bắc, sự giúp đỡ, đùm bọc của quần chúng nhân
dân, lực lượng An ninh Khu V ra đời, vượt qua khó khăn, gian khổ, thiếu
thốn, nắm thời cơ, tiến lên giành thắng lợi.
Lịch sử An ninh Khu Đông Nam Bộ thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước (1954-1975) (2010), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. An ninh khu Đông
Nam Bộ được xây dựng, trưởng thành trên địa bàn trọng điểm cửa ngõ thành
phố Sài Gòn-Gia Định. Công trình tập trung dựng lại một cách khách quan
An ninh Đông Nam Bộ từ khi ra đời đến kết thúc cuộc kháng chiến chống
Mỹ. Từ đó khẳng định lực lượng An ninh Đông Nam Bộ dưới sự lãnh đạo
trực tiếp của các cấp ủy Đảng đã phát huy truyền thống kiên cường, anh dũng
của người miền Đông, trực tiếp đối đầu với đội ngũ quân tình báo, gián điệp
nhà nghề của đế quốc Mỹ và các thế lực phản động tay sai góp phần làm nên
10
chiến thắng Tua Hai, Đồng Xoài, Bình Giã... đập tan các cuộc phản công mùa
khô của địch, mở đầu giải phóng Phước Long, Xuân Lộc làm tiền đề cho
chiến dịch Hồ Chí Minh đại thắng, giải phóng miền Nam, thống nhất đất
nước.
Các công trình kể trên là nguồn tư liệu quý giá đối với tác giả luận văn,
song chỉ ở khía cạnh phản ánh hoạt động cụ thể của lực lượng An ninh miền
Nam mà chưa có công trình nào đề cập đầy đủ và có hệ thống đến vấn đề
Đảng lãnh đạo xây dựng lực lượng An ninh miền Nam từ năm 1960 đến năm
1975.
3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tƣợng nghiên cứu
Chủ trương, biện pháp của Đảng trong xây dựng lực lượng An ninh
miền Nam thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, làm rõ vai trò của lực
lượng an ninh trong thời kỳ cách mạng này; từ đó bước đầu rút ra nhận xét,
bài học kinh nghiệm về sự lãnh đạo của Đảng.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Về thời gian: từ năm 1960 đến năm 1975.
Về không gian: miền Nam Việt Nam (từ vĩ tuyến 17 trở vào).
Về nội dung: có liên quan đến đối tượng nghiên cứu là những hoàn
cảnh lịch sử cụ thể, kể cả những thủ đoạn của địch trong từng giai đoạn cách
mạng; yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng miền Nam trong mỗi giai đoạn.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu và trình bày có hệ thống các chủ trương, chính sách, biện
pháp của Đảng trong lãnh đạo xây dựng lực lượng an ninh miền Nam; quá
trình chỉ đạo xây dựng lực lượng An ninh miền Nam.
11
- Trình bày và phân tích quá trình thực thi sự lãnh đạo của Đảng, gắn
với những giai đoạn khác nhau, hoàn cảnh lịch sử cụ thể và những kết quả cụ
thể.
- Đánh giá ưu điểm và hạn chế của Đảng trong quá trình lãnh đạo xây
dựng lực lượng An ninh miền Nam.
5. Nguồn tài liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Nguồn tài liệu
- Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng về công tác công an nói chung và lực
lượng An ninh miền Nam nói riêng từ năm 1960 đến năm 1975.
- Báo cáo của các Khu gửi Trung ương Cục miền Nam.
- Các công trình tổng kết lịch sử của lực lượng An ninh miền Nam
trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975.
- Văn bản các hội nghị công an toàn quốc từ năm 1955 đến năm 1975.
- Các cuốn lịch sử an ninh các khu, lịch sử xây dựng lực lượng Công an
nhân dân.
- Tạp chí Công an nhân dân.
- Hồi ký của các đồng chí nguyên là lãnh đạo Bộ Công an, lãnh đạo
Ban An ninh Trung ương Cục miền Nam.
- Tài liệu lưu trữ tại Bộ Công an.
5.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu chủ yếu là: phương pháp lịch sử và phương
pháp logic. Ngoài ra còn sử dụng một số phương pháp khác như: phân tích,
tổng hợp, thống kê, so sánh.
6. Đóng góp mới của Luận văn
- Dựng lại một cách khách quan, hệ thống sự lãnh đạo, chỉ đạo của
Đảng trong quá trình xây dựng lực lượng An ninh miền Nam từ năm 1960
đến năm 1975, từ đó nêu nhận xét về ưu điểm, hạn chế và rút ra những bài
12
học kinh nghiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng với việc xây dựng lực
lượng công an ngày nay.
- Khai thác và hệ thống hóa một số tư liệu có giá trị, qua chỉ thị, nghị
quyết của Đảng trong chỉ đạo xây dựng lực lượng An ninh miền Nam thời kỳ
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
- Cung cấp tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và giảng dạy lịch sử
Đảng Cộng sản Việt Nam.
7. Bố cục Luận văn
Ngoài các phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn gồm 3 chương:
Chương 1. Đảng lãnh đạo xây dựng lực lượng An ninh miền Nam từ
năm 1960 đến năm 1965.
Chương 2. Đảng lãnh đạo củng cố, kiện toàn lực lượng An ninh miền
Nam từ năm 1965 đến năm 1975
Chương 3. Nhận xét và bài học kinh nghiệm
13
CHƢƠNG 1
ĐẢNG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG LỰC LƢỢNG
AN NINH MIỀN NAM TỪ NĂM 1960 ĐẾN NĂM 1965
1.1. Tình hình miền Nam sau ngày Hiệp định Giơnevơ đƣợc ký kết
và chủ trƣơng của Đảng
1.1.1. Tình hình miền Nam sau ngày Hiệp định Giơnevơ được ký kết
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của nhân dân Việt
Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng mà đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ
giành thắng lợi, ngày 20-7-1954, hiệp định Giơnevơ về Đông Dương được ký
kết, các bên cam kết tôn trọng độc lập, thống nhất, chủ quyền và toàn vẹn
lãnh thổ của Việt Nam, Lào, Campuchia.
Trong báo cáo về “Tình hình mới và nhiệm vụ mới” của Chủ tịch Hồ
Chí Minh đọc tại Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa II
(7/1954) chỉ rõ: “Hiện nay đế quốc Mỹ là kẻ thù chính của nhân dân thế giới,
và nó đang trở thành kẻ thù chính và trực tiếp của nhân dân Đông Dương cho
nên mọi việc của ta đều nhằm chống đế quốc Mỹ” [9, tr. 589]. Chỉ thị của Bộ
Chính trị ngày 6/9/1954 xác định nhiệm vụ trước mắt của nhân dân miền Nam
là: Thi hành triệt để hiệp định đình chiến. Chuyển hướng công tác cho thích
hợp với điều kiện hòa bình: học tập nhiệm vụ, phương châm, chính sách mới
của Trung ương, sắp xếp cán bộ, bố trí lực lượng, đảm bảo vừa che giấu lực
lượng, vừa vận dụng được thuận lợi mới mà hoạt động để thực hiện chủ
trương, chính sách và khẩu hiệu mới của Đảng [19, tr. 276].
Xuất phát từ chiến lược toàn cầu, đế quốc Mỹ âm mưu thay chân Pháp,
phá hoại Hiệp định Giơnevơ, tiêu diệt cơ sở Đảng và phong trào cách mạng
14
miền Nam, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của
Mỹ, lấy đó làm bàn đạp uy hiếp, tấn công miền Bắc Việt Nam hòng bao vây,
ngăn chặn và đẩy lùi làn sóng chủ nghĩa xã hội tràn xuống Đông Nam Á.
Được sự trợ giúp của Mỹ, ở miền Nam, chính quyền Ngô Đình Diệm
càng điên cuồng phá hoại Hiệp định Giơvevơ, cự tuyệt tổng tuyển cử, bày ra
chiến dịch “đả thực”, “bài phong”, “diệt cách mạng” nhằm xóa bỏ bộ máy cai
trị của Pháp và đàn áp dã man những người yêu nước trong đó có cán bộ,
chiến sỹ công an. Cách mạng miền Nam trải qua những năm tháng cực kỳ khó
khăn. Một trong những công cụ đắc lực, nguy hiểm mà Mỹ và chính quyền
Ngô Đình Diệm sử dụng để chống phá cách mạng là hoạt động tình báo, gián
điệp. Ngay sau khi nhậm chức, Ngô Đình Diệm ra nghị định thành lập phủ
Tổng ủy di cư do CIA điều khiển, dụ dỗ đồng bào theo đạo Thiên chúa di cư
vào Nam nhằm phá rối trật tự trị an miền Bắc. Mỹ và chính quyền Ngô Đình
Diệm sử dụng những phần tử phản động cầm đầu chống cộng làm nòng cốt
trong chính quyền, quân đội, trong các đoàn thể, đảng phái chính trị, hình
thành một lực lượng để chống phá cách mạng. Chính quyền Sài Gòn tổ chức
dồn dân vào các khu dinh điền, khu trù mật, những nơi hiểm yếu hoặc đan
xen với các vùng giải phóng trước đây có vị trí chiến lược khắp miền Nam để
làm hậu thuẫn cho chính sách chống cộng. Bộ máy ngụy quyền và các công
cụ đàn áp cách mạng được dựng lên ở miền Nam. Một số tổ chức mật vụ ra
đời như “Sở Nghiên cứu chính trị xã hội” do Trần Kim Tuyến làm giám đốc,
“Nha Kỹ thuật”, “Sở Phòng vệ duyên hải”, “Đoàn Công tác đặc biệt”… Bất
chấp làn sóng phản đối mạnh mẽ của nhân dân miền Nam chống Mỹ, đòi thi
hành hiệp định Giơnevơ, ngày 10/10/1955, Mỹ đạo diễn cho Diệm bày trò
“trưng cầu dân ý” phế truất Bảo Đại, suy tôn Ngô Đình Diệm làm Tổng
thống. Ngày 26/10/1955, Ngô Đình Diệm tuyên bố thành lập nước Việt Nam
cộng hòa.
15
Sau khi gạt Pháp ra khỏi guồng máy cai trị và độc chiếm miền Nam, đế
quốc Mỹ tiếp sức cho anh em Ngô Đình Diệm, một mặt tìm cách tiêu diệt các
giáo phái thân Pháp, mặt khác ráo riết thực hiện quốc sách “tố cộng, diệt
cộng”, tăng cường chiến tranh tâm lý, kết hợp với các biện pháp khủng bố,
đàn áp man rợ, chia rẽ nhân dân với cán bộ, làm lung lay ý chí đấu tranh của
quần chúng. Đảng viên và cán bộ công an hoạt động công khai trong kháng
chiến chống Pháp trở thành đối tượng hàng đầu trong chính sách đàn áp, tiêu
diệt của chúng. Với khẩu hiệu: “tiêu diệt cộng sản nằm vùng”, “thà giết nhầm
còn hơn bỏ sót”, Mỹ và chính quyền Ngô Đình Diệm gây ra những vụ thảm
sát đẫm máu ở nhiều nơi. Tính riêng từ tháng 7/1955 đến tháng 2/1956, các
tỉnh ở Nam Bộ có 93.362 cán bộ, đảng viên và những người yêu nước bị giam
cầm, giết hại [43, tr. 69]. Ở nhiều địa phương, tình thế cách mạng vô cùng
khó khăn. Do địch tập trung đánh phá, cấp ủy bị phân tán, tổ chức cơ sở bị
xáo trộn, nhiều nơi trở thành vùng trắng, đường dây liên lạc bị đứt, nhiều
đảng viên ở lại hy sinh, bật đất, có huyện chỉ còn 5 đến 10 đồng chí, có huyện
không còn đảng viên nào, nhiều chi bộ đảng tan rã.
Trước sự khủng bố tàn bạo của kẻ thù, dưới sự lãnh đạo của Đảng, từ
giữa năm 1955, phong trào đấu tranh của quần chúng ở thành thị và nông thôn
miền Nam diễn ra liên tục, sôi nổi dưới nhiều hình thức hợp pháp, bất hợp
pháp đòi hiệp thương, đòi các quyền dân sinh, dân chủ, chống khủng bố gây
cho địch nhiều khó khăn, lúng túng.
Thực hiện chủ trương của Bộ Chính trị, Xứ ủy Nam Bộ, Liên khu ủy V
và tổ chức Đảng các cấp kịp thời lãnh đạo, tuyên truyền giáo dục quần chúng
chuyển hướng từ đấu tranh vũ trang sang đấu tranh chính trị. Các tổ chức cách
mạng ở miền Nam rút vào hoạt động bí mật. Một bộ phận cán bộ, đảng viên
thực hiện kế hoạch chuyển quân tập kết, một bộ phận ở lại tạo thế hoạt động
hợp pháp, kiên cường đấu tranh với địch trước mắt và lâu dài.
16
Sau khi tiến hành “tố cộng giai đoạn 1”, từ tháng 7/1956 Mỹ và chính
quyền Ngô Đình Diệm bắt đầu tổ chức chiến dịch “tố cộng, diệt cộng giai
đoạn 2”. Bằng việc tăng cường lực lượng quân sự, mở các chiến dịch: Trương
Tấn Bửu ở miền Đông Nam Bộ, Thoại Ngọc Hầu ở miền Tây Nam Bộ, càn
quét đàn áp phong trào cách mạng kết hợp với các hoạt động tình báo, gián
điệp nhằm phát hiện, bắt bớ cán bộ cách mạng. Ở các vùng trọng điểm như
Sài Gòn-Gia Định, Thủ Dầu Một, Tây Ninh, Bến Tre, Thừa Thiên Huế,
Quảng Trị… Mỹ và tay sai tổ chức các cuộc hành quân càn quét trà đi xát lại
nhiều lần với quốc sách “tố cộng, diệt cộng” “đặt cộng sản ngoài vòng pháp
luật”, không từ một thủ đoạn nào, từ việc gài bọn gián điệp vào các tổ chức
quần chúng đến sử dụng những phần tử đầu hàng, đầu thú chỉ điểm, nhận
diện, truy lùng, bắt bớ, giam cầm, thủ tiêu người yêu nước. Bên cạnh đó
chúng còn sử dụng số phản động cầm đầu các tôn giáo, đảng phái và các tổ
chức “Phong trào cách mạng quốc gia”, “Thanh niên cộng hòa”, “Phụ nữ liên
đới” vào các hoạt động tình báo gián điệp do CIA chỉ đạo để chống phá cách
mạng miền Nam. Các khu dinh điền, khu trù mật lập ra ở khắp các vùng căn
cứ cũ của cách mạng trước đây để dồn dân hòng “tát nước bắt cá”. Cán bộ
kháng chiến, những người yêu nước buộc phải ra trình diện, tập trung cải tạo,
bị tra khảo đánh đập, bị mua chuộc bắt li khai cộng sản. Ở miền Nam từ thành
thị đến nông thôn, từ đồng bằng đến miền núi không ngày nào là không có đầu
rơi máu chảy, lực lượng cách mạng bị tổn thất nặng nề.
Trước tình hình trên, lực lượng công an nhân dân ở miền Nam nhanh
chóng chuyển hướng tư tưởng, tổ chức cho phù hợp với tình hình mới, phục
vụ nhiệm vụ chính trị của Đảng.
Từ tháng 8/1954 đến tháng 5/1955, lực lượng công an được Đảng giao
nhiệm vụ thực hiện kế hoạch đảm bảo an toàn chuyển quân tập kết. Thực tế ở
miền Nam sau năm 1954, tất cả các lực lượng công an đều giải tán. Dưới sự
17
lãnh đạo của Đảng và sự chỉ đạo của Sở Công an Nam Bộ, các Ty Công an
hướng dẫn việc giữ gìn bí mật kế hoạch tập kết, tăng cường công tác bảo vệ
các cơ quan đầu não của Đảng, nhắc nhở các cấp công an tăng cường công tác
cần thiết để đấu tranh đánh bại âm mưu hoạt động của địch, củng cố lực
lượng, sẵn sàng đối phó với mọi tình huống. Công an ở nhiều địa phương tiến
hành chôn giấu vũ khí, thanh lý trại giam, bảo vệ các khu tập kết và tuyến
hành lang chuyển quân. Số máy móc, vũ khí của công an xưởng được di
chuyển và phân tán cho cơ sở cất giữ. Cán bộ công an đi tập kết bao gồm:
quốc vệ đội, công an xung phong, công an xã. Số chiến sĩ ở lại bao gồm: lực
lượng trinh sát, một số cán bộ lãnh đạo, chỉ huy chưa bị lộ được chọn lọc giao
nhiệm vụ bảo vệ cán bộ lãnh đạo của Đảng, xây dựng căn cứ, thành lập ban
địch tình các cấp giúp Đảng nắm tình hình địch, làm công tác binh vận, giao
liên hoặc trở về nguyên quán ban đầu bí mật xây dựng cơ sở. Những cán bộ
có khả năng hợp pháp đưa vào làm nội tuyến trong các tổ chức địch.
Sau 7 tháng thi hành hiệp định Giơnevơ, việc bàn giao các khu vực cơ
bản hoàn thành. Công an Nam Bộ và Công an Liên khu V phục vụ tốt việc
chuyển quân tập kết theo đúng yêu cầu và kế hoạch của Trung ương Đảng.
Trước âm mưu phá hoại Hiệp định Giơnevơ và khủng bố phong trào
cách mạng ngày càng trắng trợn của địch, nhân dân miền Nam bước vào cuộc
đấu tranh mới đầy gian nan, thử thách. So sánh lực lượng ngày càng bất lợi
cho cách mạng. Cách mạng miền Nam tạm thời ở thế giữ gìn lực lượng. Các
tổ chức phải rút vào hoạt động bí mật, hoạt động không hợp pháp, chuyển từ
đấu tranh vũ trang sang đấu tranh chính trị. Song thắng lợi to lớn trong cuộc
kháng chiến chống Pháp đã tạo cho nhân dân miền Nam vững tin vào Đảng,
vào cách mạng; đồng bào miền Nam tuy chỉ sống trong những ngày hòa bình
ngắn ngủi nhưng luôn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí
Minh; cán bộ và nhân dân miền Nam dày dạn trong kháng chiến chống Pháp,
18
có nhiều kinh nghiệm và giàu quyết tâm đấu tranh; cơ sở Đảng và quần chúng
phát triển, trưởng thành trong kháng chiến; cuộc đấu tranh của đồng bào miền
Nam có chỗ dựa vững chắc là miền Bắc đã được giải phóng.
1.1.2. Chủ trương của Đảng
Trước diễn biến mới của tình hình, Bộ Chính trị quyết định giải thể
Trung ương Cục miền Nam, thành lập Xứ ủy Nam Bộ. Tháng 10/1954, tại căn
cứ Chắc Băng (Cà Mau) Hội nghị thành lập Xứ ủy Nam Bộ được tổ chức,
đồng chí Lê Duẩn được cử làm Bí thư. Hội nghị nhận định tình hình cách
mạng miền Nam diễn biến theo hai khả năng: hoặc là Diệm phải thi hành
Hiệp định Giơnevơ, hoặc là chúng tìm cách phá hoại hiệp định. Do vậy nhân
dân miền Nam vừa đấu tranh đòi phải thi hành Hiệp định và tổ chức tổng
tuyển cử thống nhất nước nhà, vừa chuẩn bị đối phó với khả năng xấu nhất có
thể xảy ra. Thực hiện sự chỉ đạo của Bộ Chính trị, Xứ ủy đề ra phương châm
công tác của cách mạng miền Nam là: “Kết hợp công tác bí mật với công tác
công khai và nửa công khai, tổ chức và hoạt động của Đảng phải hết sức bí
mật; tổ chức và hoạt động phong trào quần chúng thì cần lợi dụng các hình thức
công khai” [46, tr. 41]. Xứ ủy chỉ đạo các tỉnh ủy gấp rút mở lớp tập huấn
ngắn ngày để chuyển hướng nhiệm vụ cho các cán bộ, đảng viên ở lại, đào tạo
thêm cán bộ đưa về tăng cường cho thành phố lớn, các vùng dân tộc, tôn giáo;
đồng thời bố trí cán bộ vào hoạt động trong bộ máy của địch với tên họ và
ngành nghề mới theo khả năng của từng người; tổ chức chôn giấu vũ khí, đạn
dược…
Về công tác tổ chức, Hội nghị chủ trương điều chỉnh tổ chức chi bộ
theo hướng chuyển vào hoạt động bí mật, trong đó các đảng viên trung kiên là
nòng cốt, những đảng viên thiếu tích cực sinh hoạt riêng, cắt sinh hoạt Đảng
đối với những đảng viên yếu kém, tổ chức thêm chi bộ mới ở thành thị.
19
Tháng 9/1954, Bộ Công an cử đồng chí Trần Viễn Chi, phái viên của
Bộ trưởng vào khu tập kết 200 ngày ở Cà Mau phổ biến cho lãnh đạo Sở
Công an Nam Bộ về nội dung công tác phái khiển (công tác tình báo gián
điệp), xây dựng cơ sở nội tuyến trong lòng địch để nắm tình hình.
Trước âm mưu phá hoại của địch, công tác bảo vệ Đảng, bảo vệ lực
lượng cách mạng đặt ra cấp thiết hơn bao giờ hết. Tháng 10/1954, Xứ ủy Nam
Bộ thành lập Ban Bảo vệ Xứ ủy gồm 3 bộ phận: bộ phận địch tình, bộ phận
bảo vệ, bộ phận thông tin liên lạc và chỉ thị các cấp ủy Đảng thành lập Ban
bảo vệ do bí thư hoặc phó bí thư phụ trách, ban Bảo vệ Xứ ủy; một bộ phận
cán bộ công an ở lại được bố trí làm công tác chuyên trách. Nhiệm vụ bảo vệ
được xác định là: Vận động quần chúng phòng gian bảo mật, chống địch
khủng bố, giải thoát cho cán bộ bị bắt. Tổ chức nắm tình hình địch, xây dựng,
bảo vệ hệ thống giao thông liên lạc, chuẩn bị căn cứ dự bị, đảm bảo an toàn
cho cơ quan lãnh đạo. Ở các tỉnh thành lập Ban bảo vệ, nhiệm vụ và tổ chức
tương ứng như Ban Bảo vệ Xứ uỷ.
Được Ban bảo vệ các cấp hướng dẫn, quần chúng đứng lên đấu tranh
quyết liệt với công an, mật vụ địch, tiêu diệt bọn ác ôn để bảo vệ Đảng, bảo
vệ lực lượng cách mạng.
Để phù hợp với đặc điểm hoạt động trong vùng địch, đầu năm 1955,
Xứ ủy quyết định thành lập Ban Địch tình Xứ ủy. Đồng chí Lê Duẩn, Phạm
Hùng thay mặt Xứ ủy triệu tập cuộc họp thông báo quyết định thành lập Ban
Địch tình (lấy mật danh là Ban Nghiên cứu) Xứ ủy Nam Bộ. Thành phần lãnh
đạo Ban Địch tình Xứ ủy: Bí thư Xứ ủy trực tiếp phụ trách ban nhưng không
làm trưởng ban. Đồng chí Văn Viên được cử làm Trưởng ban. Đồng chí Mai
Chí Thọ, Cao Đăng Chiếm (nguyên là Phó Giám đốc Sở Công an Nam Bộ),
Hoàng Minh Đạo (nguyên trưởng phòng quân báo Bộ Tư lệnh quân sự Nam
Bộ) làm Phó trưởng ban [1, tr.21]. Sau đó Xứ ủy bổ sung đồng chí Trần Quốc
Hương là Phó trưởng ban. Ban Địch tình Xứ ủy chịu trách nhiệm trước Trung
20
- Xem thêm -