Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Đảng lãnh đạo xây dựng khối đoàn kết dân tộc chống Mỹ, cứu nước ở miền Nam Việt ...

Tài liệu Đảng lãnh đạo xây dựng khối đoàn kết dân tộc chống Mỹ, cứu nước ở miền Nam Việt Nam (1960-1975)

.PDF
154
211
114

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN LÊ THỊ HÒA ĐẢNG LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN XÂY DỰNG KHỐI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC Ở MIỀN NAM VIỆT NAM (1960-1975) LUẬN VĂN THẠC SỸ LỊCH SỬ ĐẢNG Mã số: 5 03 16 Người hướng dẫn khoa học: PGS. Lê Mậu Hãn Hà nội - 2004 BẢNG QUY ƢỚC CÁC CHỮ VIẾT TẮT CPCMLTCHMNVN: Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam CNTB: Chủ nghĩa tư bản CNXH: Chủ nghĩa xã hội BCHTƯĐ: Ban Chấp hành Trung ương Đảng DTDCND: Dân tộc dân chủ nhân dân MTTQVN: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam MTDTGPMNVN: Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam UBTƯMTDTGPMN: Uỷ ban Trung ương Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam UBTƯMT: Uỷ ban Trung ương Mặt trận VNDCCH: Việt Nam dân chủ Cộng hoà 1 MỤC LỤC Mở đầu ................................................................................................................ 1 Chƣơng 1: Đảng lãnh đạo xây dựng khối đoàn kết dân tộc ở miền Nam Việt Nam (1954 - 1960) ...................................................................................... 5 1.1. Tập hợp lực lượng đấu tranh đòi thi hành thi hành Hiệp định Giơnevơ (1954 - 1956).................................................................................................................. 5 1.2. Xây dựng khối đoàn kết dân tộc ở miền Nam (1957 - 1960).....................21 Chƣơng 2: Đảng lãnh đạo mở rộng khối đoàn kết dân tộc ở miền Nam Việt Nam (1961 - 1975)..............................................................................................38 2.1. Mở rộng Mặt trận đoàn kết dân tộc ở miền Nam (1961 - 1968)..................38 2.2. Tiếp tục mở rộng Mặt trận đoàn kết dân tộc ở miền Nam (1969 - 1975) 67 Chƣơng 3: Nhận xét và một số kinh nghiệm chủ yếu .................................... 91 3.1. Nhận xét chung ............................................................................................. 91 3.2. Một số kinh nghiệm chủ yếu........................................................................104 Kết luận..............................................................................................................113 Tài liệu tham khảo........................................................................................ 116 Các công trình đã đƣợc công bố................................................................... 123 Phụ lục............................................................................................................ .124 2 Chƣơng 1 ĐẢNG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG KHỐI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC Ở MIỀN NAM VIỆT NAM (1954 - 1960) 1.1. Tập hợp lực lƣợng đấu tranh đòi thi hành Hiệp định Giơnevơ (1954 - 1956) 1.1.1. Khái quát chính sách thống trị của Mỹ - Diệm và tác động của nó đối với xã hội miền Nam Từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, Mỹ nhờ lợi dụng vị trí đặc biệt của mình mà trở thành đế quốc giàu có và hùng mạnh nhất thế giới tư bản. Chính sách cơ bản trong chiến lược toàn cầu của Mỹ là nhằm chống lại các trào lưu cách mạng, đàn áp và phá hoại phong trào độc lập dân tộc, kìm giữ các nước mới trỗi dậy trong quỹ đạo của CNTB, thực hiện chính sách lũng đoạn của tư bản độc quyền Mỹ và ngăn chặn sự phát triển của CNXH, đồng thời tranh giành ảnh hưởng với các đế quốc khác. Mỹ rất coi trọng vị trí chiến lược của Việt Nam trong chiến lược chung của Mỹ, mà trọng điểm lúc đó là phải tập trung chống phá phong trào giải phóng dân tộc đang sục sôi khắp các lục địa. Việt Nam có vị trí chiến lược hết sức quan trọng trong khu vực Đông Nam Á, là chiếc bao lơn nhô ra Thái Bình Dương, điểm giao hội của các đường giao thông quốc tế trên biển, lại có tài nguyên phong phú, được Mỹ đánh giá là một trong những vị trí quan trọng trong tuyến mà họ gọi là để ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản. Ngày 1/10/1949, nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa ra đời; Liên Xô Trung Quốc kết thành đồng minh quân sự và Trung Hoa bắt đầu ủng hộ cuộc kháng chiến chống Pháp của Chính phủ VNDCCH. Tháng 6/1950, chiến tranh Triều Tiên bùng nổ càng làm cho Chính phủ Mỹ tin rằng Liên Xô không ngần ngại dùng vũ lực để mở rộng ảnh hưởng của họ. Từ đó, Mỹ bắt đầu can thiệp vào Đông Dương. Chính sách của Mỹ ở miền Nam Việt Nam gắn với chính sách của Mỹ ở Đông Dương, Đông Nam Á và cũng luôn gắn với chính sách của Mỹ đối với Liên Xô, Trung Quốc và hệ thống XHCN, nhằm bảo vệ lợi ích thực dân mới của mình, ngăn 3 chặn ảnh hưởng của Liên Xô và Trung Quốc, lập phòng tuyến hàng đầu “chống cộng” ở Đông Nam Á. Do vậy, sau khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết (7/1954), đế quốc Mỹ đã hất cẳng Pháp, nhảy vào Việt Nam, từng bước độc chiếm quyền thống trị Nam Việt Nam, can thiệp vào Lào và Campuchia. Mục tiêu chiến lược của Mỹ ở Việt Nam là: Tiêu diệt bằng được phong trào yêu nước của nhân dân ta, thôn tính miền Nam Việt Nam, chia cắt lâu dài đất nước ta, biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ, lập phòng tuyến ngăn chặn chủ nghĩa xã hội lan xuống Đông Nam Á, đồng thời lấy miền Nam Việt Nam làm căn cứ để tiến công miền Bắc, tiền đồn của hệ thống chủ nghĩa xã hội thế giới ở Đông Nam châu Á, hòng đè bẹp và đẩy lùi chủ nghĩa xã hội ở vùng này, bao vây và uy hiếp các nước xã hội chủ nghĩa khác [36;15]. Nhằm thực hiện hiện mục tiêu trên, Mỹ đã đưa Ngô Đình Diệm – một viên quan lại trong triều Nguyễn, lại là tín đồ Thiên Chúa giáo, chống cộng khét tiếng, được đào tạo ở Mỹ về cầm đầu bộ máy Chính quyền Sài Gòn. Đế quốc Mỹ ra sức xây dựng và củng cố Chính quyền Ngô Đình Diệm bằng biện pháp tăng cường cố vấn và viện trợ Mỹ, đặt Việt Nam dưới quyền bảo trợ của khối SEATO, đàn áp phong trào cách mạng. Bởi vì, để áp đặt chủ nghĩa thực dân kiểu mới ở Việt Nam và Đông Dương, thì lực lượng ngụy quân, ngụy quyền và Chính quyền Ngô Đình Diệm chính là lực lượng xung kích và là chỗ dựa chủ yếu của đế quốc Mỹ. Để nhanh chóng bình định miền Nam Việt Nam, tháng 11/1954, Tổng thống Mỹ Aixenhao đã phái tướng Côlin (J.L.Collins) nguyên Tổng Tham mưu trưởng Lục quân Mỹ sang Sài Gòn làm Đại sứ với một kế hoạch nô dịch và xâm lược gồm 6 điểm: 1. Bảo trợ Chính quyền Diệm, viện trợ thẳng cho Chính phủ Sài Gòn không qua tay Pháp. 2. Xây dựng một “quân đội quốc gia” cho Diệm do Mỹ huấn luyện và cung cấp vũ khí. 3. Lập Quốc hội bù nhìn, thực hiện “độc lập” giả hiệu. 4 4. Thi hành “cải cách điền địa” lừa bịp. 5. Thay đổi chế độ thuế khoá, dành ưu tiên cho hàng hoá Mỹ xâm nhập vào miền Nam Việt Nam và dọn đường cho tư bản Mỹ đầu tư, bóc lột. 6. Đào tạo cán bộ tay sai cho Mỹ. Kế hoạch Côlin là kế hoạch đầu tiên của chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam Việt Nam. Với kế hoạch này và một loạt các biện pháp thâm độc, tàn bạo khác, đế quốc Mỹ muốn dựng lên ở miền Nam Việt Nam một hình thức thống trị điển hình của chủ nghĩa thực dân mới, mà đặc điểm của chủ nghĩa thực dân mới là “nó được thực hiện không phải bằng hệ thống cai trị trực tiếp của bọn đế quốc mà thông qua một chính quyền tay sai đại biểu quyền lợi cho giai cấp địa chủ phong kiến và tư sản mại bản khoác áo “dân tộc dân chủ” giả hiệu” [15;18]. Để thực hiện được những mục tiêu mà kế hoạch Côlin đề ra, đế quốc Mỹ đã thực hiện hàng loạt các chính sách thâm độc trong lĩnh vực chính trị, quân sự, kinh tế văn hoá giáo dục… Về chính trị Trong quá trình xâm lược và nô dịch miền Nam, đế quốc Mỹ đặt lên hàng đầu việc xây dựng Chính quyền Sài Gòn. Để tạo dựng một bộ mặt “độc lập” giả hiệu cho Ngô Đình Diệm, Mỹ - Diệm từng bước loại bỏ ảnh hưởng của Pháp và Chính quyền Bảo Đại; dùng lực lượng quân sự để tiêu diệt lực lượng giáo phái đối lập, các lực lượng thân Pháp. Tháng 3/1955, sau khi củng cố được quyền lực, Ngô Đình Diệm chủ trương tiêu diệt các giáo phái thân Pháp để loại trừ khả năng chống đối, xoá bỏ mọi quyền lợi ở các địa phương của Pháp, thống nhất quân đội dưới quyền chỉ huy của Diệm. Trước áp lực của Mỹ – Diệm, “Mặt trận thống nhất toàn lực quốc gia” bị phân hoá, nhóm Cao Đài liên minh Trịnh Minh Thế quay về hàng Diệm. Sau đó, bằng các chiến dịch “Hoàng Diệu”, “Đinh Tiên Hoàng”, Mỹ – Diệm đã tấn công vào các phái Bình Xuyên, Hoà Hảo. Khi Diệm tấn công Bình Xuyên và Hoà Hảo, phái Cao Đài chủ trương án binh bất động để chờ thời. Tháng 10/1955, Mỹ - Diệm dùng thủ đoạn chia rẽ nội bộ phái này để phá bỏ bộ máy hành chính của 5 Cao Đài, uy hiếp Toà thánh Tây Ninh và đến tháng 6/1956, đại bộ phận lực lượng Cao Đài bị tiêu diệt và ra đầu hàng Diệm. Chỉ trong vòng hơn 1 năm, nhờ sự ủng hộ của Mỹ, Diệm đã diệt xong các giáo phái. Các lực lượng thân Pháp ở miền Nam Việt Nam căn bản bị xoá sổ và cơ quan hành chính do người thân tín của Diệm cầm đầu được xây dựng rộng khắp. Mỹ - Diệm tiến hành thanh lọc ngụy quyền nhằm xây dựng một chế độ độc tài phát xít thân Mỹ khoác áo “độc lập”, “dân chủ”, “hợp hiến” giả hiệu. Ngày 17/7/1955, Diệm tuyên bố không có hiệp thương Tổng tuyển cử. Ngày 23/10/1955, Diệm tổ chức cuộc “trưng cầu dân ý” dưới lưỡi lê của quân đội để phế truất Bảo Đại và tự xưng Tổng thống Việt Nam Cộng hoà. Sau khi lên nắm quyền, Ngô Đình Diệm đã xây dựng miền Nam thành một “quốc gia mạnh” của “thế giới tự do”, có một “đạo quân cảnh sát” và “đạo quân sen đầm” lớn mạnh chống cộng sản, đàn áp phong trào đấu tranh của nhân dân miền Nam. Để tạo chỗ dựa, tháng 8/1954, Diệm tổ chức Đảng Cần lao Nhân vị do Ngô Đình Nhu làm lãnh tụ. Đảng này được coi là nòng cốt của chế độ Diệm, với học thuyết “Duy linh” duy tâm phản động làm hệ tư tưởng. Ở các đơn vị quân đội lớn, ở các Bộ, Đảng Cần lao Nhân vị đều có thành lập “Đảng Đoàn”. Có thể nói, không có cơ quan nào mà không có đảng viên Đảng Cần lao Nhân vị làm nòng cốt. Linh mục Cao Văn Luận đã thừa nhận rằng : “Trong hầu hết các trường hợp, viên chức cao cấp nhất của chính quyền, tại một số địa phương hay một cơ quan nào đồng thời cũng là lãnh tụ địa phương của đảng (Cần lao Nhân vị)” [53; 264] Tháng 10/1954, Phong trào cách mạng quốc gia của Trần Chánh Thành, tay chân của Diệm được thành lập. Tổ chức này lấy giới công chức làm nòng cốt, nêu cao khẩu hiệu “chống cộng sản, chống phong kiến, chống thực dân”. Để tập hợp lực lượng quần chúng, Phong trào cách mạng quốc gia tổ chức ra nhiều liên đoàn: Liên đoàn công chức cách mạng quốc gia, Liên đoàn phụ nữ cách mạng quốc gia, Liên đoàn thanh niên cách mạng quốc gia... Các tổ chức này phần lớn đều có hệ thống từ tỉnh, quận và đến nhiều xã, cơ sở trong các cơ quan nhà nước và tư nhân. Đảng Cần lao Nhân vị và Phong trào cách mạng quốc gia chỉ khác về hình thức hoạt động, còn mục đích đều nhằm tập hợp bọn phản động trong giai cấp tư 6 sản, địa chủ, Thiên Chúa giáo và những tên có hận thù với cách mạng làm hậu thuẫn cho Chính quyền Diệm. Ngày 4/3/1956, được Mỹ đạo diễn, Ngô Đình Diệm tổ chức tuyển cử bầu ra Quốc hội. Tháng 10/1956, Ngô đình Diệm ban hành Hiến pháp của “nền đệ nhất cộng hoà”. Một số nước đồng minh của Mỹ lập tức công nhận Chính quyền Diệm là “hợp hiến, hợp pháp” và được khối SEATO bảo trợ. Cùng với những thủ đoạn chính trị “bài phong “, “đả thực”, Mỹ - Diệm thực hiện chính sách “tố cộng, diệt cộng”, đàn áp phong trào quần chúng, trả thù những người kháng chiến cũ, tiêu diệt cơ sở cách mạng ở miền Nam. Chúng lấy “tố cộng” làm quốc sách. Chính sách “tố cộng, diệt cộng” của Mỹ - Diệm chủ trương đánh phá cơ sở cách mạng, tiêu diệt Đảng Cộng sản, tước đoạt những quyền lợi mà Đảng ta mang lại cho quần chúng, qua đó xây dựng củng cố chính quyền ấp, xã, tạo lập một cơ sở xã hội hạ tầng cho chế độ thực dân mới. Phương châm “tố cộng, diệt cộng” của chúng là “lâu dài”, “từng bước”, “triệt để” với khẩu hiệu “giết nhầm còn hơn bỏ sót” và yêu cầu “tiêu diệt những phần tử cộng sản, những tổ chức cộng sản và cả tư tưởng cộng sản”. Lực lượng tiến hành “tố cộng, diệt cộng” của Mỹ - Diệm là lực lượng tổng hợp các cấp, các ngành quân sự, hành chính, công an, tình báo, thông tin, công dân vụ. Kế hoạch “tố cộng, diệt cộng” của chúng chia thành từng giai đoạn, mỗi giai đoạn thành nhiều đợt; mỗi đợt có thí điểm, trọng điểm, bắt đầu từ diện rộng chuyển sang chiều sâu, kết hợp nhiều thủ đoạn quân sự, kinh tế, chính trị, tâm lý rất thâm độc, tàn bạo, xảo quyệt. Từ cuối năm 1954 -1956, song song với việc hất cẳng Pháp, đàn áp giáo phái, tiếp quản những vùng kháng chiến sau khi quân đội ta tập kết và chuyển quân ra Bắc vĩ tuyến 17 theo hiệp định Giơnevơ, Mỹ - Diệm thực hiện giai đoạn một “tố cộng” trên diện rộng, trong quân đội, cơ quan các ngành và cả trong nhân dân. Mỹ - Diệm tổ chức ra bộ máy “tố cộng”, từ trung ương xuống địa phương, lấy ấp, xã làm đơn vị cơ sở, chia nhỏ địa bàn (Nam Bộ được chia thành 6 phân khu, 23 tiểu khu và đặc khu), phân loại các tỉnh theo mức độ an ninh khác nhau, tăng cường chỉ đạo triển khai nhiều đợt học tập “tố cộng” kéo dài với khẩu hiệu thâm 7 độc “tố cộng là yêu nước”, gây tâm lý sợ cộng sản, coi cộng sản là “kẻ thù dân tộc”. Thông qua bộ máy kìm kẹp, Mỹ - Diệm tiến hành bao vây có trọng điểm, thực hiện “nội bất xuất, ngoại bất nhập”, phân loại đối tượng, bắt buộc tố giác lẫn nhau, mua chuộc, dụ dỗ, phân hoá, đàn áp bắt bớ, truy lùng buộc đầu thú, ly khai. Mỹ - Diệm tiến hành nhiều cuộc tàn sát đẫm máu ở Ngân Sơn, Chí Thạnh (Phú Yên), Chợ Được (Quảng Nam), Kim Đôi (Thừa Thiên), Mỏ Cày (Bến Tre)… Chúng ban hành Đạo dụ số 6 (11/1/1956) giao quyền cho cảnh sát và an ninh bắt bất cứ ai xét ra nguy hiểm cho quốc phòng và an ninh công cộng, không cần xét xử trước toà án. Một hệ thống trại giam với những cái tên “trung tâm cải huấn” được thiết lập và phát triển ở các ấp, xã. Chỉ trong vòng hai năm (1955 - 1956), chúng đã bắt bớ giam cầm, sát hại hàng chục vạn cán bộ, đảng viên. Như vậy, đế quốc Mỹ đã dùng bạo lực phản cách mạng tàn bạo để xây dựng một chính quyền tay say có bộ mặt quốc gia giả hiệu, “hợp hiến, hợp pháp” tạm thời ổn định để đánh phá phong trào cách mạng miền Nam. Nhưng Chính quyền Diệm là một sản phẩm ngoại lai, được xây dựng trên một cơ sở xã hội hết sức mỏng manh, chủ yếu dựa vào hệ thống cố vấn và viện trợ Mỹ. Lầu Năm góc thú nhận: “Không có sự giúp đỡ của Mỹ hầu như chắc chắn là Diệm không thể củng cố được chỗ đứng của mình ở Việt Nam trong thời gian từ 1955-1956... không có viện trợ của Mỹ trong những năm sau đó, chế độ của Diệm và hầu như chắc chắn là một Nam Việt Nam không thể nào sống sót được… Nam Việt Nam cơ bản là sản phẩm của Mỹ” [87;35]. Cho tới năm 1956, về cơ bản, Mỹ - Diệm đã tổ chức được một cơ cấu chính quyền từ trung ương xuống các tỉnh, làm công cụ thống trị nhân dân ta ở miền Nam. Về quân sự Ngô Đình Diệm lên cầm quyền không được sự ủng hộ của nhân dân mà bằng Đôla và các thủ đoạn chính trị, bằng bạo lực phản cách mạng, cho nên Mỹ - Diệm hết sức coi trọng vệc xây dựng quân đội tay sai, coi đó là xương sống của bộ máy chính quyền thực dân mới. 8 Ngay từ đầu tháng 8/1955, Mỹ đã có kế hoạch cải tổ quân ngụy do Pháp nắm thành một quân đội quốc gia do Mỹ trang bị và huấn luyện, trước mắt làm chỗ dựa cho Chính quyền Ngô Đình Diệm, về lâu dài nhằm đáp ứng yêu cầu “chiến lược vành đai” của Mỹ ở Đông Nam Á. Để nắm được quân ngụy, đồng thời tạo ra những cơ sở pháp lý cho các hoạt động can thiệp trực tiếp, toàn diện của đế quốc Mỹ vào miền Nam và biến ngụy quyền miền Nam thành công cụ nô dịch của chủ nghĩa thực dân mới, Mỹ vừa tăng cường viện trợ, vừa buộc Ngô Đình Diệm phải ký với chúng một số hiệp định bất bình đẳng như Hiệp định tay đôi ngày 21/2 và ngày 7/3/1955, Hiệp định ký ngày 22 và 23/4/1955, dưới danh nghĩa “viện trợ bổ sung”, nhưng thực chất là để cho đế quốc Mỹ trực tiếp nắm giữ “hoàn toàn trách nhiệm về tổ chức, huấn luyện quân đội miền Nam” (101;97]. Bộ phận chuyên lo việc huấn luyện, tác chiến, trang bị và chỉ huy cho quân ngụy Sài Gòn là hệ thống cố vấn quân sự Mỹ đã được thiết lập, cắm chốt từ Bộ Quốc phòng, Bộ Tham mưu, Bộ Tư lệnh quân khu, các sư đoàn, trung đoàn và tiểu đoàn quân đội Sài Gòn. Bằng viện trợ và hệ thống cố vấn quân sự Mỹ, Mỹ - Diệm đã xây dựng quân đội tay sai thành lực lượng quân sự mạnh mang tên Quân đội Việt Nam Cộng hoà. Từ 1955-1957, Mỹ đã viện trợ cho Diệm 1,1 tỉ đôla (trong đó 60% chi dùng vào mục đích quân sự). Cho đến cuối năm 1955, Quân đội Việt Nam Cộng hoà đã có toàn bộ “10 sư đoàn, 1 liên đoàn nhảy dù, 4 trung đoàn kỵ binh thiết giáp, 11 tiểu đoàn pháo binh, 13 trung đoàn địa phương, 6 trung đoàn bộ binh giáo phái và một số đơn vị thuộc quân chủng hải quân và không quân. Quân số quân đội Sài Gòn gồm khoảng 20 vạn người” [96;60] Nhằm xây dựng quân đội Sài Gòn thành một quân đội hiện đại, trung thành với Mỹ, đủ sức đối phó với phong trào yêu nước của nhân dân miền Nam, Mỹ Diệm đã đặt lên hàng đầu việc đào tạo một lớp sĩ quan miền Nam thông thạo chiến thuật, kỹ thuật quân sự Mỹ và gắn bó với chế độ thực dân mới của Mỹ. Ngay khi lên cầm quyền, Diệm đã từng bước gạt bỏ những sĩ quan thân Pháp, cải tổ và cho thành lập một số trường sĩ quan mới như Trường Võ bị Đà Lạt, Trung tâm huấn luyện Quang Trung... Cùng với việc xây dựng quân đội đánh thuê của chủ nghĩa 9 thực dân mới ở miền Nam, Mỹ - Diệm còn xây dựng cả một hệ thống sân bay quân cảng, đường giao thông chiến lược... phục vụ cho các mục đích quân sự của Mỹ - Diệm. Với chính sách viện trợ về quân sự, coi viện trợ là công cụ để xâm lược và thống trị, Mỹ - Diệm đã biến miền Nam thành căn cứ quân sự, thành pháo đài xâm lược “mạnh nhất Đông Nam Á”. Chính sách kinh tế của Mỹ - Diệm Cùng với viện trợ quân sự là viện trợ kinh tế. Mỹ đã thông qua các hình thức viện trợ để đẩy mạnh xâm nhập trên phương diện kinh tế vào miền Nam. Mỹ thực hiện “viện trợ thương mại hoá” để đưa hàng hoá ế thừa vào miền Nam, chủ yếu là hàng tạp hoá, nông phẩm thừa, làm cho nền kinh tế bị lũng đoạn và phụ thuộc vào Mỹ. Bên cạnh viện trợ thương mại hoá, Mỹ - Diệm cũng ra sức tạo điều kiện, mở đường cho tư bản Mỹ xâm nhập vào miền Nam. Đặc biệt, để phát triển ảnh hưởng của Mỹ và tư bản hoá hình thức bóc lột ở nông thôn, từ năm 1955 - 1956, Mỹ Diệm ban hành Đạo dụ số 2 ( 8/1/1955) và Đạo dụ số 7, lập “khế ước ruộng đất”, thi hành chính sách “cải cách điền địa”, “định cư, di cư”. Mỹ dùng viện trợ kinh tế cấp các ngân khoản, thành lập Ngân hàng phát triển nông thôn cho nông dân vay tiền sản xuất, tổ chức nông hội, hợp tác xã mua bán nông phẩm, phân bón, nông cụ... Đó là những tổ chức trá hình của ngụy quyền liên hệ chặt chẽ với Phong trào cách mạng quốc gia về chính trị, để ràng buộc nông dân vào chính quyền cơ sở, thông qua đó mua chuộc, lừa bịp, mị dân, san bằng cách biệt giữa giai cấp địa chủ và nông dân, trong việc chiếm hữu ruộng đất. Đây đồng thời cũng là những biện pháp bám giữ lấy trận địa nông thôn, giành giật nhân vật lực với cách mạng, phát triển ảnh hưởng của chính sách thực dân mới, tạo điều kiện thuận lợi bình định nông thôn miền Nam. Song song với việc thực hiện chính sách cải cách điền địa, tháng 4/1957, Mỹ - Diệm đề ra chính sách “tái định cư và cứu tế dân di cư” trong các dinh điền, nhằm mục đích an ninh nhiều hơn là kinh tế, tạo nên những “vành đai sống” để ngăn cách các trung tâm đông dân cư với những vùng căn cứ miền núi của ta. Chúng đặc biệt chú trọng vùng Tây Nguyên và Trung Bộ. Diệm và Nhu đều cho rằng: khu dinh 10 điền là biện pháp xẻ đường đưa dân vào chiến khu, mật khu Việt cộng, dùng dân để đẩy Cộng sản ra khỏi vùng đó và dinh điền là nơi cung cấp tin tình báo, nơi xuất phát để hành quân ngăn chặn sự xâm nhập của Cộng sản. Chính sách “khu dinh điền” dần dần được thay thế bằng chính sách “khu trù mật”, “thị trấn nông thôn”, nhằm tách những gia đình có quan hệ với cách mạng ra khỏi nhân dân để tăng cường kìm kẹp, khống chế và bình định vùng nông thôn miền Nam. Kết quả của “cải cách điền địa”, Chính quyền Diệm đã cướp từ 80 - 90% ruộng đất mà Chính quyền cách mạng đã mang lại cho nông dân Nam Bộ. Ở khu V, tất cả ruộng công điền chúng đem bán đấu giá hoặc phát canh thu tô. Thuế ruộng đất chúng tăng gấp đôi, thuế đảm phụ tăng gấp rưỡi... Không những cướp ruộng đất, địch còn dùng xe bọc thép phá nhà, phá làng, dồn dân lấy đất xây dựng căn cứ quân sự. Chính sách “cải cách điền địa”, “định cư di cư” của Mỹ - Diệm chỉ là một trò hề bịp bợm, mị dân, một sự thay đổi về cách bóc lột bằng những cuộc đấu giá cạnh tranh. Nó không những không mang lại quyền lợi gì cho nông dân ít đất hoặc không có đất, mà còn làm đời sống của họ thêm bấp bênh. Hơn thế nữa, “Chương trình cải cách điền địa của Diệm đã không phân lại ruộng đất cho người nghèo mà rút cục chỉ lấy lại những thứ mà Việt Minh đã chia cho họ, rồi trả về cho địa chủ” [52;43] Về văn hoá, giáo dục Trên mặt trận văn hoá, tư tưởng, Mỹ - Diệm hạ thấp văn hoá truyền thống của dân tộc Việt Nam và khuyến khích văn hoá phản động, đồi trụy. Đây là hai mặt của chính sách nô dịch văn hoá của chủ nghĩa thực dân mới. Để thực hiện những chính sách này, một mặt, Chính quyền Diệm đã cho nhập nhiều loại văn hoá đồi trụy, phản động của Mỹ vào miền Nam (Mỹ đã viện trợ cho Diệm 70 vạn tấn sách báo, tranh ảnh phản động, trả tiền cho 20 tờ báo tay sai để chống lại cách mạng). Những loại sách kiếm hiệp, khiêu dâm, những bản nhạc giật gân, những phim đồi trụy sa đoạ... lan tràn, nhằm phá hoại truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta. Mặt khác, 11 chúng nuôi dưỡng bọn bồi bút, xây dựng bộ máy tâm lý chiến, thông tin, tuyên truyền. Chúng ra sức tuyên truyền cho sức mạnh của Mỹ, văn minh Mỹ, lối sống Mỹ; tuyên truyền tư tưởng chống Cộng sản; tuyên truyền, đề cao học thuyết “Duy linh - Nhân vị”, một thứ “học thuyết” duy tâm phản động, nhằm đánh vào sức mạnh đoàn kết, thống nhất, tình cảm của nhân dân ta, gây tâm lý tự ti dân tộc, phục Mỹ, sợ Mỹ, muốn sống theo lối sống của Mỹ, đồng thời củng cố nền thống trị độc tài, phản động của tập đoàn tay sai bán nước. Cùng với những thủ đoạn đó, Mỹ – Diệm tiến hành đàn áp, khủng bố, giam cầm hàng trăm trí thức, ký giả, văn nghệ sĩ.... Tự do báo chí, tự do ngôn luận và tự do sáng tác bị bóp nghẹt. Hàng chục tác phẩm có giá trị hiện thực phê phán của một số nhà văn tiến bộ có tinh thần yêu nước bị cấm hay bị cắt xén… Trên lĩnh vực giáo dục, Diệm “huấn từ” về tính Á Đông, tính dân tộc, nhưng chương trình giáo dục “cải tổ”của Chính quyền Diệm lại cắt xén, bóp méo, xuyên tạc lịch sử, văn học của dân tộc, đề cao những khía cạnh phản động. “Giáo dục quốc gia” của Mỹ - Diệm cũng chỉ nhằm phục vụ cho con cái giai cấp trung lưu, thượng lưu nhiều hơn là đông đảo con em các gia đình lao động nghèo ở thành thị và nông thôn. Chế độ thực dân mới của Mỹ - Diệm ở miền Nam cũng coi trọng các lực lượng của tôn giáo. Vì vậy, ngay sau khi lên cầm quyền, Mỹ – Diệm đã cho phát triển tất cả các tôn giáo, nhằm lôi kéo các tôn giáo vào vòng ảnh hưởng của mình. Song, Chính quyền Diệm đặc biệt có chính sách ưu đãi đối với Thiên Chúa giáo. Diệm hết sức tạo điều kiện cả về vật chất lẫn tinh thần cho giáo hội Thiên Chúa giáo Việt Nam hoạt động và phát triển. Những tín đồ Thiên Chúa giáo được chú ý sử dụng, cất nhắc, đề bạt vào những cương vị chủ chốt ở mọi cấp chính quyền, ở cả khu vực các cơ quan giáo dục, văn hoá, xã hội. Linh mục Cao Văn Luận đã thừa nhận: “Mọi chức vụ lãnh đạo quốc gia đều trong tay người công giáo” [53;315]. Mặc dù có sự kỳ thị với các tôn giáo, chỉ ưu đãi Thiên Chúa giáo, nhưng Chính quyền Mỹ - Diệm vẫn chủ động thực hiện chính sách bành trướng các tôn giáo khác ở miền Nam như Phật giáo, Cao Đài, Hoà Hảo... nhằm mục tiêu ru ngủ 12 quần chúng nhân dân trong các hoạt động tôn giáo, làm họ xa lánh với con đường đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc và thống nhất Tổ quốc. Những chính sách thực dân mới của Mỹ và chế độ độc tài phát xít Ngô Đình Diệm đã chà đạp lên quyền tự do dân chủ, xâm phạm nghiêm trọng đến tính mạng và tài sản của người dân. Miền Nam trở thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ. Đặc biệt, những chính sách đó đã gây nên một thảm trạng ở miền Nam, uy hiếp nghiêm trọng đời sống của tất cả các giai cấp, tầng lớp, dân tộc và tôn giáo ở miền Nam. Hậu quả của nó làm cho “mâu thuẫn giữa một bên là nhân dân miền Nam bao gồm giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, giai cấp tiểu tư sản, giai cấp tư sản dân tộc, các tầng lớp và cá nhân yêu nước khác và một bên là đế quốc Mỹ và bè lũ Ngô Đình Diệm, đại biểu cho bọn thân Mỹ và phản động nhất trong giai cấp địa chủ và giai cấp tư sản mại bản ở miền Nam sẽ ngày càng sâu sắc thêm” [25;520]. Trước sự tàn bạo của kẻ thù, nhân dân miền Nam đã đoàn kết, đấu tranh kiên cường bất khuất chống lại ách thống trị của Mỹ - Diệm, giành lấy quyền sống, quyền tự do. 1.1.2. Tập hợp lực lượng đấu tranh đòi thi hành Hiệp định Giơnevơ Ngay từ tháng 7/1954, Hội nghị Trung ương lần thứ 6 (mở rộng) đã vạch ra chủ trương chuyển hướng công tác ở miền Nam. Hội nghị chỉ rõ: “Đế quốc Mỹ là kẻ thù chính của nhân dân yêu chuộng hoà bình thế giới, và hiện đang trở thành kẻ thù chính trực tiếp của nhân dân Đông Dương” [19;225]. Để triệt để phân hoá, cô lập kẻ thù và tập hợp lực lượng các mạng, Hội nghị đã đề ra khẩu hiệu “hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ”, nhằm củng cố khối liên minh công nông, đoàn kết các tầng lớp nhân dân khác, tranh thủ những nhân sĩ yêu nước, yêu hoà bình và dân chủ, thành lập mặt trận rộng rãi chống đế quốc Mỹ và tay sai. Trong tình hình mới, cùng với việc đề ra phương châm, sách lược cho cách mạng cả nước, Hội nghị đã đề ra phương châm công tác ở miền Nam là: kết hợp chặt chẽ công tác hợp pháp và công tác không hợp pháp, nhưng lấy công tác không hợp pháp làm chính, đồng thời hết sức lợi dụng mọi khả năng hợp pháp và nửa hợp pháp mà tuyên truyền, giáo dục quần chúng đông đảo, tổ chức và lãnh đạo quần chúng đấu tranh. Tuyệt đối không nên để bộc lộ lực lượng, nhưng cũng không được vì lý do bí mật mà thủ tiêu công tác. Tổ chức công khai phải thật rộng rãi, tổ chức bí mật phải thật trong sạch và vững chắc. 13 Ngày 5/9/1954, Bộ Chính trị đã họp và ra Chỉ thị “Về tình hình mới và nhiệm vụ công tác mới của miền Nam”. Sau khi phân tích đặc điểm tình hình miền Nam, Chỉ thị xác định kẻ thù cụ thể trước mắt của nhân dân miền Nam là “Đế quốc Mỹ, hiếu chiến Pháp và tay sai của chúng” [19;273]. Từ đó, Bộ Chính trị đề ra nhiệm vụ chung cho miền Nam là: “Củng cố hoà bình, đòi tự do dân chủ và cải thiện dân sinh, tiến tới thực hiện thống nhất và hoàn thành độc lập, dân chủ trong toàn quốc” [19;273]. Chỉ thị cũng chỉ rõ nhiệm vụ trước mắt cho cách mạng miền Nam là: Thi hành triệt để Hiệp định đình chiến (tập kết quân đội, rút quân ra bắc... Đấu tranh đòi Pháp phải thi hành đúng Hiệp định (...) Đoàn kết rộng rãi, tập hợp mọi lực lượng dân tộc, dân chủ và hoà bình, đấu tranh để đánh đổ Chính phủ Ngô Đình Diệm thân Mỹ, vận động lập nên một chính phủ không thân Mỹ, phản đối khối xâm lược Đông Nam Á của Mỹ; tán thành đình chiến và hoà bình; thừa nhận quyền tự do dân chủ của nhân dân; tán thành thống nhất bằng tổng tuyển cử; cải thiện dân sinh; tán thành thương lượng với Chính phủ ta [19; 274] Để hoàn thành những nhiệm vụ trên, Chỉ thị nêu rõ: Đảng chủ trương thành lập một Mặt trận chung cho toàn quốc, lấy tên thích hợp với thời kỳ mới, nhằm thu hút tất cả những ai tán thành hoà bình, thống nhất, độc lập và dân chủ. Về công tác quần chúng, Chỉ thị khẳng định, cần phải thay đổi hình thức tổ chức và đấu tranh của công đoàn, nông hội, thanh niên, phụ nữ cho thích hợp cuộc đấu tranh hợp pháp và nửa hợp pháp. Chỉ thị cũng chỉ ra phải thực hiện tuyên truyền vận động đồng bào thiểu số, đồng bào tôn giáo, đồng bào miền Bắc đã di cư vào Nam; tiến hành vận động cả trong bộ máy ngụy quyền và hàng ngũ ngụy quân. Đặc biệt, Bộ Chính trị chú ý đến việc xây dựng phong trào bảo vệ hoà bình ở miền Nam, nhằm tập hợp các tầng lớp nhân dân đấu tranh thực hiện đình chiến, củng cố hoà bình, chống đế quốc Mỹ, chống khối Đông Nam Á của Mỹ. Những chủ trương của Hội nghị BCHTƯ Đảng lần thứ 6 và Hội nghị Bộ Chính trị đã vạch ra được những phương hướng đầu tiên cho giai đoạn mới của các 14 mạng miền Nam; từ việc xác định rõ kẻ thù chủ yếu, đến việc chỉ rõ phương châm đấu tranh cách mạng và phương châm công tác ở miền Nam trước bước ngoặt của lịch sử. Đây là những vấn đề hết sức quan trọng, đặt cơ sở cho việc xác định đường lối cách mạng miền Nam sau này. Đường lối đó phù hợp với thực tiễn cách mạng miền Nam, tạo ra một lực lượng to lớn, đoàn kết được toàn dân trong một mặt trận dân tộc thống nhất, để phục vụ cho mục đích trước mắt của cách mạng. Trên cơ sở chủ trương của Trung ương về tình hình và nhiệm vụ mới của cách mạng miền Nam, tháng 10/1954, Hội nghị thành lập Xứ uỷ Nam bộ được triệu tập, Hội nghị đã nhận định tình hình của địa phương, đề ra nhiệm vụ và biện pháp cụ thể cho các cấp Đảng bộ ở Nam bộ. Hội nghị khẳng định nhiệm vụ cụ thể của cách mạng miền Nam là giữ gìn và củng cố hoà bình, tranh thủ thực hiện tự do dân chủ, cải thiện dân sinh, tiến tới thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước. Phương châm và sách lược của cách mạng miền Nam là đoàn kết mọi lực lượng dân tộc dân chủ và hoà bình trong mặt trận dân tộc thống nhất, chống âm mưu, chính sách của đế quốc Mỹ và tay sai. Để tập hợp được đông đảo các tầng lớp nhân dân vào mặt trận cần chú ý khẩu hiệu dân sinh, dân chủ. Phương châm công tác của cách mạng miền Nam là kết hợp công tác bí mật với công tác công khai và nửa công khai; tổ chức và hoạt động của Đảng phải hết sức giữ bí mật, tổ chức và hoạt động của quần chúng thì cần lợi dụng các hình thức công khai… Sau hội nghị, các chủ trương của Đảng được phổ biến, quán triệt trong toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ở miền Nam, tạo nên sự đoàn kết, thống nhất cao trong Đảng, trong dân. Trên toàn miền Nam, cùng với việc chuyển hướng các tổ chức của Đảng, các tổ chức quần chúng trung kiên được xây dựng, thực hiện chuyển đổi vùng hoạt động của cán bộ, bố trí cán bộ để lãnh đạo phong trào. Chính vì vậy mà phong trào đấu tranh của nhân dân miền Nam từ đấu tranh vũ trang đã chuyển sang đấu tranh chính trị, đòi thi hành Hiệp định Giơnevơ, đòi hoà bình, đòi dân sinh, dân chủ... ngày càng phát triển mạnh mẽ. 15 Ngay khi Hội nghị Giơnevơ thành công, trong tháng 8 và 9 năm 1954, ta đã tổ chức vận động cho hàng triệu quần chúng mít tinh, hội thảo, mừng hoà bình. Ở các thành phố lớn như Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng... hàng vạn người lao động, trí thức, học sinh sinh viên đã tập hợp trên các đường phố lớn hoan nghênh Hiệp định Giơnevơ, chào đón hoà bình. Đi đầu và làm nòng cốt trong phong trào này là giai cấp công nhân. Ngày 8/1/1954, hơn 5.000 công nhân và nhân dân Sài gòn; 15.000 công nhân và nhân dân Huế; 25.000 công nhân và nhân dân Đà Nẵng… đã biểu tình đòi thi hành Hiệp nghị Giơnevơ, đòi trả tự do cho tù chính trị, đòi trao trả hết tù binh. Ngày 2/8/1954, 5.000 công nhân ở đồn điền cao su An Lộc bãi công liên tiếp 3 ngày, để chào mừng Hiệp định Giơnevơ, đòi tăng lương 20% và đòi bãi bỏ thuế đảm phụ chiến tranh. Phong trào đấu tranh chính trị cũng bắt đầu lan rộng khắp các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà, Phan Rang, Phan Thiết. Tiêu biểu nhất cho phong trào đấu tranh chính trị lúc này là Phong trào Hoà Bình Sài Gòn – Chợ Lớn. Ngày 1/8/1954, thực hiện chủ trương của Thành uỷ, một số đồng chí thuộc Đảng bộ Sài Gòn – Chợ Lớn, trong đó có luật sư Nguyễn Hữu Thọ, đã vận động tổ chức phong trào này. Đây là một hình thức mặt trận đấu tranh đòi thi hành Hiệp định Giơnevơ. Mục đích của Phong trào là muốn hòa bình ở Đông Dương, quyền tự do dân chủ được bảo đảm, nước Việt Nam tiến hành tổng tuyển cử, thống nhất đất nước. Phong trào Hoà Bình đã thu hút nhiều nhân sĩ trí thức tôn giáo tiêu biểu và đông đảo quần chúng đô thị tham gia, chứng tỏ được sức mạnh đoàn kết của nhân dân miền Nam chống lại chế độ Mỹ - Diệm. Phong trào đã hoạt động sôi nổi và nhanh chóng lan ra khắp các thành thị, các tỉnh của miền Nam. Tuy nhiên, Phong trào hoà bình nhanh chóng bị đàn áp. Nhiều người tham gia phong trào bị địch bắt, tra tấn dã man. Tháng 8/1955, Hội nghị BCHTƯĐ lần thứ 8 nhận định: phong trào đấu tranh đòi hiệp thương tổng tuyển cử sau Hiệp định Giơnevơ đang lan rộng khắp toàn quốc. Ở miền Nam, cuộc vận động đó đã biết kết hợp đấu tranh kinh tế với đấu tranh chính trị, biết lợi dụng những hình thức hợp pháp và nửa hợp pháp, nhưng vì sự lãnh đạo chưa được vững chắc, cho nên có nơi bộc lộ lực lượng, và nhìn chung, 16 cả miền Nam thì cuộc vận động phát triển chưa đều, chưa tận dụng được các điều kiện khách quan thuận lợi để thành lập mặt trận đấu tranh rộng rãi chống Mỹ – Diệm. Hội nghị chủ trương: phải ra sức tập hợp mọi lực lượng dân tộc, dân chủ và hoà bình vào một Mặt trận rộng rãi có một cương lĩnh chung thích hợp để đấu tranh chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai của chúng, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập, dân chủ và bằng phương pháp hoà bình. Chủ trương của Đảng đã đáp ứng được nguyện vọng của nhân dân miền Nam, thúc đẩy phong trào đấu tranh tiếp tục dâng cao. Cùng với phong trào dấu tranh đòi hiệp thương tổng tuyển cử, các phong trào đấu tranh đòi tự do dân chủ, cải thiện đời sống cũng diễn ra sôi nổi, như Phong trào cứu đói ở Thừa Thiên, Quảng Trị (1955), Phong trào cứu tế nạn nhân ở Sài Gòn - Chợ Lớn (1955), Phong trào chống lệnh giải toả đô thành và đòi cải thiện sinh hoạt (1955 - 1956)... Phong trào diễn ra quyết liệt là phong trào đấu tranh của công nhân miền Nam, điển hình là cuộc đấu tranh công khai hợp pháp ngày 1/5/1956 của 20 vạn công nhân Sài Gòn - Chợ Lớn, gồm công nhân thuộc ba tổ chức nghiệp đoàn hợp pháp ở miền Nam, những người lao động công chức trí thức, học sinh, nhà công thương và cả một số binh sĩ, cảnh sát của ngụy quyền Sài Gòn do đảng viên và quần chúng trung kiên làm nòng cốt. Phong trào đấu tranh đã hô vang các khẩu hiệu: tự do nghiệp đoàn, giải quyết nạn thất nghiệp, trả phụ cấp gia đình cho cả công nhân ở các sở tư, cải cách điền địa triệt để có lợi cho nông dân, thống nhất nước nhà bằng phương pháp hoà bình. Ngày 6/6/1955, Chính phủ VNDCCH tuyên bố sẵn sàng mở hội nghị hiệp thương với những nhà đương cục miền Nam (bắt đầu từ 20/7/1955), để bàn việc tổ chức tuyển cử tự do, nhằm thống nhất đất nước vào tháng 7/1956. Để ủng hộ tuyên bố trên, phong trào đòi hiệp thương tổng tuyển cử cũng diễn ra mạnh mẽ, liên tục và thống nhất toàn Nam Bộ, hoặc từng miền, từng tỉnh và rất sâu rộng từ Quảng Trị đến Cà Mau. Phong trào thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân, các tín đồ tôn giáo, đồng bào dân tộc ít người, đồng bào miền Bắc bị cưỡng ép di cư vào Nam... hình thành sự phối hợp giữa nhân dân thành thị và nông thôn với nhiều hình thức đấu tranh phong phú: mạn đàm, mít tinh, đình công, bãi thị, ký kiến nghị. Ở nông 17 thôn, chỉ tính trong hai năm 1955 – 1956, đã có trên 7 triệu lượt người tham gia. Riêng đợt 20/7/1955, ở Nam Bộ đã có trên 500.000 lượt người tham gia [70;17]. Ở đô thị, phong trào cũng diễn ra sôi nổi. Ngày 10/7/1955, hưởng ứng lời kêu gọi của Mặt trận Liên Việt, 80% dân chúng Sài Gòn - Chợ Lớn đã đình công, bãi thị để biểu dương ý chí thống nhất của toàn dân. “Đợt tháng 7/1955, ở khắp các thành thị miền Nam đã có hàng triệu đồng bào rầm rộ tổ chức biểu tình, mít tinh, kết hợp với bãi công bãi thị, đòi hiệp thương tổng tuyển cử, hoà bình thống nhất đất nước” [70;17]. Có thể nói, phong trào đấu tranh của nhân dân miền Nam với nội dung đòi Mỹ - Diệm phải thực hiện nghiêm chỉnh Hiệp định Giơnevơ, đòi hiệp thương tổng tuyển cử, thống nhất đất nước trong những năm 1955 - 1956 đã diễn ra mạnh mẽ, liên tục, lôi cuốn đông đảo mọi tầng lớp nhân dân tham gia. Phong trào cho thấy, trong thực tiễn đã hình thành lực lượng đấu tranh dân tộc rộng lớn dưới sự lãnh đạo của Đảng với những hình thức đấu tranh hợp pháp và bất hợp pháp như mít tinh, biểu tình, đình công, bãi công… tổ chức theo nghiệp đoàn, ngành nghề, theo giới… làm phân hoá hàng ngũ kẻ thù, làm cho Mỹ - Diệm phải lúng túng đối phó. 1.2. Xây dựng khối đoàn kết dân tộc (1957 - 1960) 1.2.1. Tập hợp lực lượng, đưa cách mạng miền Nam từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công Giữa năm 1956, Mỹ - Diệm công khai từ chối hiệp thương tổng tuyển cử thống nhất đất nước. Chúng triển khai thực hiện giai đoạn 2 “tố cộng, diệt cộng”, đánh phá có chiều sâu, hòng quét sạch cơ sở Đảng với những khẩu hiệu: “tiêu diệt nội tuyến, diệt trừ nội tâm”, “đạp lên oán thù để thực thi dân chủ, nhân vị quốc gia”. Với sắc lệnh “đặt Đảng Cộng sản ra ngoài vòng pháp luật” (5/1957), nhiều biện pháp quyết liệt được áp dụng: tổ chức học tập “tố cộng” rộng rãi trong nhân dân, trong chính quyền, phân loại quần chúng để phát hiện cơ sở Đảng, tận dụng bọn đầu hàng, đầu thú, bọn gián điệp nằm vùng để chỉ điểm truy lùng cán bộ. Chúng cưỡng bức nhân dân “tố giác tội ác của Cộng sản”, gây căm thù đối với Cộng sản, cô lập cán bộ, chia rẽ Đảng với quần chúng nhân dân. Mỹ - Diệm còn tập trung lực lượng mở nhiều đợt càn quét, khủng bố tàn sát đẫm máu nhân dân. Nhiều chiến dịch dài ngày diễn ra trên diện rộng, có trọng 18 điểm, nhất là các chiến khu cũ của ta như chiến dịch “Thoại Ngọc Hầu” (6/1956 10/1956) ở 18 tỉnh miền Tây Nam Bộ, Chiến dịch “Trương Tấn Bửu” (7/1956 12/1956) ở miền Đông Nam Bộ và giáp biên giới Campuchia. Ở vùng miền núi thuộc cực Nam Trung Bộ, chúng thi hành chính sách “lấy người dân tộc trị người dân tộc” với những trận càn quét kéo dài liên miên. Sự khủng bố điên cuồng của Mỹ - Diệm đã làm cho tình hình miền Nam luôn luôn căng thẳng, nhiều cơ sở đảng bị phá vỡ, hàng vạn quần chúng, đảng viên bị giết hại, bị bắt giam. Cách mạng miền Nam chịu tổn thất nặng nề. Tình hình trên cho thấy rằng, khả năng thực hiện điều khoản chính trị Hiệp định Giơnevơ không còn tồn tại nữa. Nhân dân miền Nam không thể chỉ sử dụng đấu tranh chính trị, trong khi Mỹ - Diệm đã dùng bạo lực phản cách mạng để đàn áp phong trào cách mạng, mà phải vũ trang để chống lại kẻ thù. Trước tình hình đó, tháng 6/1956, Bộ Chính trị đã họp và ra Nghị quyết “Về tình hình, nhiệm vụ và công tác miền Nam”. Nghị quyết nêu rõ: cách mạng miền Nam có nhiệm vụ đấu tranh nhằm thành lập một mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi chống Mỹ - Diệm. Mặt trận đó phải có sách lược: Luôn luôn nhằm đúng kẻ thù trước mắt; cô lập, phân hoá chúng đến cao độ; đoàn kết bất cứ người nào đoàn kết được, trung lập bất cứ người nào có thể trung lập được, lập mặt trận chống Mỹ - Diệm rộng rãi, bao gồm cả những người thuộc các tầng lớp trên thân Pháp và chống Mỹ - Diệm, bao gồm cả nhân dân trong nước và kiều bào ở ngoài nước. Mặt trận ấy cố nhiên phải dựa trên cơ sở công nông liên minh và do Đảng ta lãnh đạo [21;226]. Nghị quyết cũng chỉ ra rằng, hình thức đấu tranh trong toàn quốc hiện nay là đấu tranh chính trị, không phải là đấu tranh vũ trang. Tuy vậy, Nghị quyết cũng lưu ý rằng, đấu tranh chính trị không có nghĩa là tuyệt đối không dùng hình thức tự vệ trong những hoàn cảnh nhất định, hoặc không tận dụng những lực lượng vũ trang của các giáo phái chống Diệm. Trong trường hợp này, phải tổ chức tự vệ trong quần chúng nhằm đấu tranh chống địch và giải thoát cán bộ khi cần thiết; phải củng 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan