ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
*
LÊ MẬU NHIỆM
ĐẢNG LÃNH ĐẠO TỔ CHỨC XÂY DỰNG
KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TỘC
TỪ NĂM 1993 ĐẾN NĂM 2007
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LỊCH SỬ
HÀ NỘI - 2008
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
1
Chương 1: ĐẢNG LÃNH ĐẠO TỔ CHỨC XÂY DỰNG KHỐI
ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TỘC TRONG NHỮNG NĂM
1993-2003
6
Cơ sở tư tưởng của sự nghiệp xây dựng khối đại đoàn kết
toàn dân tộc ......................................................................................................................................................................
6
1.1.1. Tư tưởng của Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản
Việt Nam về đại đoàn kết toàn dân tộc ........................................................................................
6
1.1.2. Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam trong quá trình tập hợp
vận động nhân dân qua các giai đoạn cách mạng (1930-1993) ....................
14
Những chủ trương và biện pháp của Đảng xây dựng khối
đại đoàn kết toàn dân lên tầm cao mới, chiều sâu mới (1993-2003)
20
1.2.1. Chủ trương xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc .............................................................
20
1.1.
1.2.
1.2.2. Tăng cường, mở rộng khối đại đoàn kết dân tộc và phát huy vai trò
Mặt trận Dân tộc Thống nhất ..................................................................................................................
Chương 2: ĐẢNG TĂNG CƯỜNG LÃNH ĐẠO TỔ CHỨC XÂY DỰNG
KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TỘC TRONG NHỮNG NĂM
2003-2007
42
56
2.1.
Chủ trương và biện pháp của Đảng nhằm tăng cường xây dựng khối
đại đoàn kết toàn dân tộc (2003-2007) ........................................................................................
56
2.2.
Bước phát triển mới về đại đoàn kết toàn dân tộc và vai trò của
Mặt trận Dân tộc Thống nhất ..................................................................................................................
67
Chương 3:
MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM LỊCH SỬ
75
3.1.
Một số nhận xét tổng quát về sự lãnh đạo của Đảng ..............................................
3.2.
3.3.
Những ưu điểm và hạn chế .........................................................................................................................
Bài học kinh nghiệm ...........................................................................................................................................
3.4.
Đại đoàn kết toàn dân tộc và vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
trước yêu cầu phát triển mới của đất nước .............................................................................
89
KẾT LUẬN
101
TÀI LIỆU THAM KHẢO
105
75
78
88
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đại đoàn kết dân tộc là một bộ phận cấu thành trong đường lối chiến
lược cách mạng Việt Nam do Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam sáng
lập, lãnh đạo. Nhờ có đường lối đúng đắn, có nguồn sức mạnh vô địch của
khối đại đoàn kết toàn dân tộc, nhân dân Việt Nam đã liên tiếp giành được
những thắng lợi to lớn trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập, thống nhất đất
nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trước đây và trong công
cuộc đổi mới đất nước hiện nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đều nhất quán: Đại
đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp
nông dân và đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng, là đường lối chiến
lược của cách mạng Việt Nam. Đây là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và
là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Hiện nay, Đảng chủ trương phát huy truyền thống yêu nước, lòng tự hào
dân tộc, ý chí tự lực, tự cường, đoàn kết mọi người Việt Nam ở trong và ngoài
nước, không phân biệt thành phần xã hội và dân tộc, quá khứ và ý thức hệ, tôn
giáo và tín ngưỡng, miễn là tán thành công cuộc đổi mới, nhằm mục tiêu giữ
vững độc lập, thống nhất, chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ, thực hiện
thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Đại đoàn kết là sự nghiệp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị mà
hạt nhân là sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, được thực hiện bằng
2
nhiều biện pháp, hình thức, trong đó các chủ trương của Đảng và chính sách,
pháp luật của Nhà nước có ý nghĩa quan trọng hàng đầu.
Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc là trách nhiệm của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam (bao gồm các đoàn thể nhân dân). Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam có vai trò rất quan trọng trong việc củng cố, tăng cường khối đại
đoàn kết toàn dân tộc, thắt chặt mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng và Nhà
nước, góp phần tạo nên sự đồng thuận cao trong xã hội, động viên nhân dân
phát huy quyền làm chủ, tích cực tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính
quyền trong sạch, vững mạnh, gắn bó mật thiết với nhân dân.
Với tình hình quốc tế và trong nước hiện nay, chiến lược tăng cường
phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc đang trở thành nhiệm vụ thường
xuyên, quan trọng và cấp bách của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Việc chọn
đề tài Đảng lãnh đạo tổ chức xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc từ
năm 1993 đến năm 2007 làm luận văn thạc sĩ khoa học lịch sử là cần thiết.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Cho đến nay, các công trình lớn, tiêu biểu viết về việc xây dựng khối
đại đoàn kết toàn dân tộc và Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam trong tình
hình mới chủ yếu là: Lịch sử Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam, quyển
III (1975-2004) (Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2007); Đại đoàn kết dân
tộc vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh (Đỗ MườiLê Quang Đạo, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996); Đại đoàn kết dân tộc
phát huy nội lực nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế thực hiện công nghiệp
hoá hiện đại hoá đất nước (Vũ Oanh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998);
Đại đoàn kết dân tộc - động lực chủ yếu đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam, Kỷ yếu Hội thảo khoa học-thực tiễn, Hà Nội, 2002); Phát huy sức
mạnh Đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam theo
3
tư tưởng Hồ Chí Minh (Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Kỷ
yếu Hội thảo khoa học-thực tiễn, Hà Nội, 2005); Tư tưởng Hồ Chí Minh về
Đại đoàn kết dân tộc và Mặt trận Dân tộc thống nhất (Nxb. Chính trị Quốc
gia, Hà Nội, 1996); Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết với vấn đề phát
huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong thời kỳ mới (Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội 2004) ...
Ngoài ra, trên các sách, tạp chí khoa học, báo cũng có một số bài viết,
nghiên cứu về đại đoàn kết dân tộc trong tình hình mới.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trên đã khái quát, đề cập tương
đối rộng và phản ánh được nhiều khía cạnh về xây dựng khối đại đoàn kết,
góp phần làm sáng tỏ nhiều vấn đề lý luận trong thời kỳ mới. Song, chưa có
một công trình chuyên khảo trực tiếp nào về Đảng lãnh đạo tổ chức xây dựng
khối đại đoàn kết trong thời kỳ từ năm 1993 đến năm 2007.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đánh giá, tìm hiểu thực trạng Đảng lãnh đạo tổ chức xây dựng khối đại
đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước,
vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu tư tưởng và quan điểm của Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản
Việt Nam về đại đoàn kết dân tộc và quá trình tập hợp, vận động nhân dân
qua các giai đoạn cách mạng (1930-1993).
- Làm rõ những nội dung cơ bản của Đảng Cộng sản Việt Nam về việc
lãnh đạo, tổ chức xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc từ năm 1993 đến
năm 2007. Trên cơ sở đó, rút ra những kinh nghiệm, ý nghĩa thực tiễn để góp
phần xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong tình hình mới hiện nay.
4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Quá trình xây dựng và thực hiện đường lối, chủ trương đại đoàn kết
toàn dân tộc và phát triển Mặt trận Tổ quốc Việt Nam của Đảng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đảng lãnh đạo tổ chức xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc từ năm
1993 đến năm 2007 là một đề tài rộng, nên luận văn chỉ đề cập, khái quát có
hệ thống đến các chủ trương chính liên quan đến việc xây dựng sự nghiệp đại
đoàn kết toàn dân tộc thông qua các văn kiện, nghị quyết của Đảng Cộng sản
Việt Nam. Luận văn còn đánh giá những thành tựu chính việc đưa các chủ
trương đó vào cuộc sống.
5. Cơ sở lý luận, tư liệu và phương pháp
5.1. Cơ sở lý luận
Tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam về xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Các Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc và Hội nghị Trung ương từ Đại
hội VI (12-1986) đến nay. Các Văn kiện Đại hội Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
toàn quốc và Hội nghị Đoàn Chủ tịch, Hội nghị Uỷ ban Trung ương từ Đại
hội III (11-1988) đến nay.
5.2.Nguồn tư liệu
Nguồn tài liệu chủ yếu: Các văn kiện Đại hội Đảng và một số Nghị
quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam giai đoạn từ
năm 1993 đến năm 2007 liên quan đến đại đoàn kết toàn dân tộc.
Ngoài ra, các bài phát biểu của các vị lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam các thời kỳ; Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
nhiệm kỳ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (khoá III, IV, V, VI); các văn kiện các
Hội nghị Đoàn Chủ tịch, Hội nghị Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt
5
Nam (khoá III, IV, V, VI) và một số công trình nghiên cứu về sự nghiệp đại
đoàn kết toàn dân tộc.
5.3. Phương pháp nghiên cứu
Trong luận văn, sử dụng phương pháp lịch sử kết hợp logíc, tổng hợp,
tiếp cận hệ thống, so sánh, phân tích... để làm nổi bật những quan điểm của
Đảng về lãnh đạo, tổ chức xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
6. Đóng góp khoa học của luận văn
Luận văn góp phần nghiên cứu một cách có hệ thống những nội dung
cơ bản các chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về lãnh đạo, tổ chức xây
dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc từ năm 1993 đến năm 2007.
Khẳng định sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược
của cách mạng Việt Nam; là động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết
định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Bước đầu nêu lên một số kinh nghiệm nhằm thiết thực góp phần nghiên
cứu và phát triển sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc trong thời kỳ mới.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm có 3 chương.
6
Chương 1
ĐẢNG LÃNH ĐẠO TỔ CHỨC XÂY DỰNG
KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TỘC
TRONG NHỮNG NĂM 1993-2003
1.1. Cơ sở tư tưởng của sự nghiệp xây dựng khối đại đoàn kết toàn
dân tộc
1.1.1. Tư tưởng của Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản
Việt Nam về đại đoàn kết toàn dân tộc
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết và thực hiện đại đoàn kết toàn
dân tộc là tư tưởng lớn ở tầm chiến lược, thể hiện nhuần nhuyễn và tinh tế sự
thống nhất giữa tư tưởng, phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh luôn có
tính thời sự. Người là nhà thiết kế và thực hành kiểu mẫu của đoàn kết và đại
đoàn kết toàn dân tộc, là biểu tượng nổi bật nhất và là linh hồn của khối đại
đoàn kết toàn dân tộc.
Cơ sở tạo thành tư tưởng đại đoàn kết toàn dân tộc Hồ Chí Minh là chủ
nghĩa nhân văn, là truyền thống yêu nước thương dân. Nhìn từ góc độ cá
nhân, tư tưởng đại đoàn kết dân tộc Hồ Chí Minh mang đậm tính vị tha, lòng
nhân ái và đức tin mãnh liệt vào con người, vào nhân dân. Hồ Chí Minh
không chỉ kêu gọi, vận động mọi người đoàn kết, đại đoàn kết, mà chính
Người còn cảm hoá, cuốn hút, tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân bằng tấm
lòng “trung với nước, hiếu với dân”, bằng cuộc đời “cần, kiệm, liêm, chính,
chí công, vô tư”, bằng phẩm chất “phú quí bất năng dâm, bần tiện bất năng di,
uy vũ bất năng khuất” (tạm dịch: Giàu sang không thể cám dỗ, nghèo khó
không thể chuyển lay, quyền uy không thể khuất phục)... Với Hồ Chí Minh,
suốt cả cuộc đời “chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho
7
nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai
cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành” [17, tr. 161].
Sự thống nhất hài hoà giữa tư tưởng, hành động, đạo đức, nhân cách Hồ
Chí Minh đã làm cho đại đoàn kết toàn dân tộc không chỉ và không còn là
khẩu hiệu tư tưởng mà thật sự đã trở thành động lực, sức mạnh quy tụ toàn
dân tộc vào sự nghiệp bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đoàn kết dân tộc là một chiến lược của
cách mạng. Đây là nội dung cơ bản nhất, chung nhất, vì có đại đoàn kết thì
mới chiến thắng được kẻ thù của dân tộc và mới chiến thắng được nghèo nàn,
lạc hậu. Theo Người, đoàn kết dân tộc là đoàn kết rộng rãi, không phân biệt
bất cứ một ai, miễn là người Việt Nam yêu nước, chống đế quốc, tán thành
xây dựng cuộc sống ấm no hạnh phúc. Đại đoàn kết toàn dân tộc với Hồ Chí
Minh không phải là một thủ đoạn chính trị nhất thời, mang tính chất sách lược
mà là một vấn đề chiến lược, có ý nghĩa sống còn, lâu dài, quyết định sự
thành bại của cách mạng. Ở những giai đoạn cách mạng khác nhau, phương
pháp cách mạng, bố trí lực lượng, tổ chức...có thể thay đổi, điều chỉnh cho
phù hợp, còn đại đoàn kết toàn dân tộc là một chiến lược không thể thay đổi.
Đối với Người, đại đoàn kết toàn dân tộc không chỉ là phương pháp tập hợp,
tổ chức lực lượng cách mạng mà nó có ý nghĩa cao hơn, nó trở thành một bộ
phận hữu cơ, một tư tưởng xuyên suốt trong đường lối chiến lược của cách
mạng. Bởi vì, đường lối chiến lược đúng đắn thì phải đề ra được mục tiêu,
nhiệm vụ, phương pháp phù hợp với nguyện vọng của đa số nhân dân lao
động, từ đó mới có thể huy động được sức mạnh to lớn của họ vào sự nghiệp
chung.
Hồ Chí Minh luôn khẳng định, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng,
đại đoàn kết phải dựa trên sự đồng tâm nhất trí của mọi người, mọi tầng lớp
nhân dân. Đoàn kết dựa trên sự giác ngộ về mục đích chung, cùng tranh đấu
8
cho độc lập tự do của dân tộc, ở đó có sự thống nhất của lợi ích chung và lợi
ích riêng, cuộc sống và số phận của mỗi người, mỗi gia đình, mỗi tập thể nằm
trong cuộc sống và số phận chung của cả cộng đồng dân tộc. Lý tưởng và mục
đích chung đó được giác ngộ sẽ làm cho mỗi người tự nguyện, tự giác gắn bó
với nhân dân và dân tộc mình, chung sức, chung lòng, phấn đấu hy sinh cho
thắng lợi của sự nghiệp mà mình theo đuổi và vì vậy, đoàn kết toàn dân tộc
phải trở thành nhu cầu, trở thành một đòi hỏi khách quan của bản thân quần
chúng trong cuộc đấu tranh để tự giải phóng. Đoàn kết là thắng lợi. Người
nói: “Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”
[21, tr. 276]. Đoàn kết toàn dân tộc theo Hồ Chí Minh, không chỉ có ý nghĩa
trong cách mạng giải phóng dân tộc mà còn có ý nghĩa rất to lớn trong cách
mạng xã hội chủ nghĩa. Người nêu rõ: Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa là
một cuộc biến đổi khó khăn nhất và sâu sắc nhất. Chúng ta phải xây dựng một
xã hội hoàn toàn mới xưa nay chưa từng có trong lịch sử dân tộc ta. Để thực
hiện điều đó, Người nhắc luôn nhắc nhở phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà
đại đa số nhân dân ta là công nhân, nông dân và tầng lớp nhân dân lao động
khác. Ngay cả với giai cấp tư sản dân tộc, chiến lược đại đoàn kết dân tộc Hồ
Chí Minh vẫn xem họ là một thành viên của dân tộc, cần được cải tạo hoà
bình và vì mục đích bảo vệ, xây dựng đất nước.
Như vậy, tư tưởng đại đoàn kết toàn dân tộc Hồ Chí Minh có nội dung
phong phú và có ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Chiến lược đại đoàn kết dân tộc
Hồ Chí Minh là hệ thống những luận điểm, nguyên tắc, phương pháp và biện
pháp giáo dục, tổ chức, hướng dẫn hành động của các lực lượng cách mạng
nhằm phát huy tới mức cao nhất sức mạnh của toàn thể dân tộc trong sự
nghiệp đấu tranh vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Trong hệ thống nội dung phong phú của tư tưởng Hồ Chí Minh trên các
lĩnh vực, vấn đề dân tộc và giải phóng dân tộc là sự thể hiện tư duy độc lập, tự
9
chủ của Người trong việc kế thừa truyền thống cố kết dân tộc của tổ tiên, tiếp
thu và phát triển biện chứng tư tưởng tập hợp quần chúng của các nhà tư
tưởng cách mạng phương Đông và phương Tây, của học thuyết cách mạng
thời đại của Mác-Lênin vào hoàn cảnh Việt Nam. Đó là, nếu không giải
phóng dân tộc thì cũng không giải phóng được giai cấp. Người chỉ rõ: Muốn
giải phóng các dân tộc chỉ có thể trông vào mình. Đối với cách mạng Việt
Nam muốn giành được thắng lợi phải dựa trên lực lượng cách mạng to lớn
của cả dân tộc, trong đó có sự tham gia đông đảo của các lực lượng công nhân,
nông dân, trí thức và các tầng lớp nhân dân khác.
Ngay sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập, các tổ chức
cách mạng như: Thanh niên, Phụ nữ, Công đoàn... trong đó tổ chức Mặt trận
Thống nhất dân tộc được nêu ra trong Chỉ thị ngày 18-11-1930 của Ban
Thường vụ Trung ương Đảng về vấn đề thành lập Hội Phản đế đồng minh là
một minh chứng về đường lối tập hợp rộng rãi lực lượng của các tầng lớp
nhân dân vào cuộc đấu tranh giải phóng và phát triển dân tộc Việt Nam.
Luôn luôn theo dõi, chỉ đạo mỗi bước đi của cách mạng Việt Nam, tháng
2-1941, Hồ Chí Minh về nước, trực tiếp lãnh đạo cuộc đấu tranh chống PhápNhật, giành độc lập tự do cho dân tộc. Bối cảnh trong nước và thế giới có
những chuyển biến hết sức mau lẹ mà nếu không nắm chắc thời cơ vận hội
đánh Tây, đuổi Nhật thì dân tộc Việt Nam mãi mãi chịu kiếp ngựa trâu. Người
đã sáng lập Mặt trận Việt Minh, kêu gọi các giai cấp, tầng lớp, thanh niên phụ
nữ, thiếu nhi, binh lính, sĩ phu, điền chủ... tập hợp dưới ngọn cờ độc lập tự do
của Việt Minh để chuẩn bị lực lượng, tiến lên Tổng khởi nghĩa để giành chính
quyền Tháng Tám năm 1945, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, nhà
nước chung của cả dân tộc.
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, trong tình thế nước Việt Nam
dân chủ cộng hoà đang bị các thế lực đế quốc, phản động bao vây, tấn công từ
10
nhiều phía, Đảng Cộng sản Việt Nam mà đứng đầu là Hồ Chí Minh đã lãnh
đạo hướng mọi nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân vào việc vận động nhân dân
diệt giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm nhằm giữ vững chính quyền. Khẩu hiệu
chiến lược của chúng ta lúc này là: "Dân tộc trên hết", "Tổ quốc trên hết". Hội
Liên hiệp Quốc dân được thành lập. Thống nhất dân tộc là một vũ khí sắc bén
để nhìn thẳng quân thù.
Với mục tiêu chiến lược và phương châm trên, Hồ Chí Minh đã đặt nền
móng vững chắc về lý luận và thực tiễn cho việc đa dạng hoá các hình thức
tập hợp nhân dân, trong đó phát huy vai trò của từng tổ chức chính trị-xã hội,
dân tộc, tôn giáo và cá nhân tiêu biểu là hiện thân tinh thần đoàn kết trong
cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện và công cuộc xây dựng đất nước sau
này. Theo Người, hễ ai là người Việt Nam thì ít nhiều đều có lòng yêu nước
hướng về cội nguồn dân tộc. Từ đó, Người phát hiện, động viên, uốn nắn,
chia sẻ, hướng họ về với chính nghĩa, phát huy những mặt tốt, hạn chế những
bất đồng lầm lạc. Vì vậy, cùng với lực lượng tổ chức chính trị-xã hội to lớn,
từ các nhân sĩ tiêu biểu như Huỳnh Thúc Kháng, Phan Kế Toại, Bùi Bằng
Đoàn, Phạm Khắc Hoè,... đến các thủ lĩnh, tù trưởng Vi Văn Định, Vương
Chí Sình, các chức sắc tôn giáo và hàng trăm trí thức tài giỏi đều theo Người
tham gia vào kháng chiến.
Cách mạng Tháng Tám thắng lợi, chính quyền nhân dân được thiết lập,
Hồ Chí Minh đã chỉ rõ bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân
và vì dân. Đó là điểm xuất phát, là cơ sở nền tảng của công tác dân vận và
Mặt trận của Hồ Chí Minh: "Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều
vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là
trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân"
[18, tr .698]. Người đề cập đến Đảng và các đoàn thể quần chúng, hệ thống
chính trị (theo cách mới hôm nay) đều có bản chất chung là của dân, do dân
11
và vì dân. Người căn dặn đội ngũ cán bộ phải gần dân, phải xuất phát từ lợi
ích của nhân dân, đồng thời chỉ ra những biểu hiện tham nhũng, sa đoạ của số
ít cán bộ lúc bấy giờ. Người xem đó là thứ giặc "nội xâm" mà giặc nội xâm
cũng nguy hiểm không kém gì giặc ngoại xâm.
Riêng đối với công tác dân vận không phải bao giờ cũng được các cấp,
các ngành quan tâm. Trước tình hình nhiều địa phương một số cán bộ chưa
hiểu thấu đáo công tác dân vận, ngày 15-10-1949 trong bài báo Dân vận, Hồ
Chí Minh phê phán thái độ coi thường công tác dân vận, Người chỉ rõ: "Dân
vận là vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân không để sót một
người dân nào, góp thành lực lượng toàn dân, để thực hành những công việc
nên làm, những công việc Chính phủ và Đoàn thể đã giao cho" [18, tr .698].
Tất cả chủ đề, đối tượng, nội dung, mục tiêu và phương pháp hoạt động được
chứa đựng trong khái niệm trên. Ở đây, Hồ Chí Minh quan tâm nhiều đến nội
dung vận động là xây dựng từ mỗi người dân cho đến toàn dân để thực hiện
mục tiêu cách mạng trong từng thời kỳ. Tuy nhiên, để tập hợp vận động có
hiệu quả, vấn đề lợi ích của nhân dân phải được thể hiện ở đường lối, chủ
trương, chính sách pháp luật của Nhà nước thì mới tập hợp được nhân dân và
tạo thành các phong trào cách mạng của quần chúng. Người luôn dạy các cán
bộ đảng viên: "Việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến
dân, ta phải hết sức tránh" [16, tr.56-57].
Quan tâm, chăm lo lợi ích cho nhân dân, phải đi đôi với chống quan
liêu, tham nhũng, lãng phí. Đây là những vấn đề được Hồ Chí Minh luôn trăn
trở, đồng thời cảnh báo nguy cơ sa đoạ của một số cán bộ đảng viên, do đó
Người luôn quan tâm giáo dục cán bộ, đảng viên phải gương mẫu nâng cao
đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh luôn quan
tâm củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chăm lo củng cố và nâng cao vai
12
trò, vị trí của Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam: "Chính sách mặt trận là
một chính sách rất quan trọng. Công tác mặt trận là một công tác rất quan
trọng trong toàn bộ công tác cách mạng" [23, tr 605]. Dù trong bất kỳ giai
đoạn cách mạng nào, công tác mặt trận đều đóng vai trò quan trọng. Do đó,
người cán bộ làm công tác dân vận, mặt trận phải rèn luyện phẩm chất và
năng lực, phải có quan điểm quần chúng, hiểu dân và thương dân, phải có tác
phong: Óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm chứ không
phải chỉ nói suông, có như vậy mới hoàn thành được nhiệm vụ mặt trận trong
thời kỳ mới.
Dựa trên cơ sở tư tưởng đại đoàn kết dân tộc, kế thừa phát huy truyền
thống cố kết dân tộc của tổ tiên, qua các giai đoạn của cuộc đấu tranh trường
kỳ gian khổ chống ách áp bức bóc lột của thực dân và phong kiến, Đảng đã
xác định và đánh giá đúng vai trò, sức mạnh to lớn của nhân dân. Thực tiễn
hơn 78 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Việt Nam đã thể hiện
rõ vai trò quyết định của mình trong đấu tranh cách mạng, và ngày nay, trong
sự nghiệp đổi mới nhằm thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Từ ngày thành lập Đảng đến nay, trải qua mười lần đại hội, không có
đại hội nào, Đảng Cộng sản Việt Nam không đề cập đến vị trí, vai trò, nội
dung của công tác vận động nhân dân và xác định trách nhiệm của các tổ chức
đảng, của cán bộ, đảng viên tiến hành công tác vận động nhân dân theo nhiệm
vụ và vai trò của mình. Sự đóng góp to lớn của Đảng Cộng sản Việt Nam cho sự
nghiệp đại đoàn kết dân tộc đã được Hồ Chí Minh nêu rõ: "Đảng ta có chính sách
mặt trận dân tộc đúng đắn, cho nên đã phát huy được truyền thống đoàn kết rất vẻ
vang của dân tộc ta" [23, tr.605].
Đánh giá những thành tích của công tác mặt trận, Đảng cũng nghiêm khắc
uốn nắn sai lầm thiếu sót về nhận thức và bố trí cán bộ, đồng thời đề ra yêu cầu
13
gấp rút chỉnh đốn về công tác này, ngay từ trong kháng chiến chống Pháp, các cấp
uỷ cần đưa những đồng chí có uy tín và năng lực vào các cấp mặt trận và các
ngành dân vận để vận động toàn dân thi hành chính sách của Đảng.
Trong quá trình vận động nhân dân, đại đoàn kết là tư tưởng bao trùm
khi xác định vị trí, tính chất hoạt động của các đoàn thể, các tổ chức chính trị
trong xã hội ta. Đoàn kết, tương trợ, thương yêu đùm bọc lẫn nhau là một
trong những nét nổi bật trong đời sống tinh thần người Việt Nam. Truyền
thống đại đoàn kết toàn dân tộc được bắt nguồn từ trong cuộc sống dựng xây
và bảo vệ Tổ quốc đã trở thành một trong những truyền thống nổi bật trong
đời sống tinh thần người Việt Nam. Tầm sâu văn hoá đó đã được soi sáng
nâng cao và mở rộng khi tư tưởng Hồ Chí Minh về: "Đoàn kết, đoàn kết, đại
đoàn kết; thành công, thành công, đại thành công" [23, tr.605] truyền bá vào
nước ta trên một bình diện mới, chất lượng mới được tiếp tục thực hiện.
Tinh thần đó được Đảng Cộng sản Việt Nam thấm nhuần, vận dụng và
nâng cao trong điều kiện mới, đặc biệt là trong sự nghiệp đổi mới toàn diện
đất nước hiện nay. Những quan điểm tư tưởng của Đảng và của Hồ Chí Minh
được tiếp tục khẳng định trong các Đại hội Đảng.
Đại hội đại biểu toàn quốc VI của Đảng (12-1986) đã tổng kết bài học
số một của cách mạng nước ta là: "Trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng
phải quán triệt tư tưởng lấy dân làm gốc, xây dựng và phát huy quyền làm chủ
của nhân dân lao động" [47, tr.188], phê phán tệ quan liêu, đi ngược lại lợi ích
nhân dân, làm suy yếu sức mạnh của Đảng.
Nghị quyết số 8B/NQ-TW của Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành
Trung ương Đảng (khoá VI) Về đổi mới công tác quần chúng của Đảng, tăng
cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân ngày 27-3-1990, là nghị quyết
vừa có tính chiến lược cơ bản vừa cấp bách thể hiện trên bốn quan điểm:
Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Động lực
14
thúc đẩy phong trào quần chúng là đáp ứng lợi ích thiết thực của nhân dân và
kết hợp hài hoà các lợi ích, thống nhất giữa quyền lợi và nghĩa vụ công dân.
Các hình thức tập hợp nhân dân phải đa dạng. Công tác dân vận là trách
nhiệm của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể nhân dân.
Đề cập về đổi mới tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam, Nghị quyết số 8B có nêu:
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giữ vai trò to lớn trong việc củng cố
và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Các cấp uỷ đảng từ Trung ương đến cơ sở
phải thực hiện tốt vai trò của Đảng vừa là thành viên, vừa là người lãnh
đạo của Mặt trận, trình bày các chủ trương, chính sách của Đảng, lắng
nghe ý kiến và cùng bàn bạc, hiệp thương dân chủ, phối hợp và thống
nhất hành động giữa các thành viên của Mặt trận, động viên phong trào
hành động cách mạng rộng lớn của nhân dân. Công tác Mặt trận cần đi
sâu vận động các cụ phụ lão, các nhân sĩ, công thương gia, những
người tiêu biểu của các dân tộc thiểu số, các chức sắc tôn giáo và của
người Việt ở nước ngoài [47, tr.312].
Đại hội đại biểu toàn quốc lẩn thứ VII của Đảng (6-1991) và Hội nghị
toàn quốc giữa nhiệm kỳ (01-1994) đều nhấn mạnh tầm quan trọng của công
tác vận động nhân dân, mở rộng khối đại đoàn kết, hoàn chỉnh các chính sách
đảm bảo lợi ích và phát huy vai trò của công nhân, nông dân, trí thức, thanh
niên, phụ nữ, dân tộc, tôn giáo, nhà công thương, cộng đồng người Việt Nam
định cư ở nước ngoài.
1.1.2. Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam trong quá trình tập
hợp vận động nhân dân qua các giai đoạn cách mạng (1930-1993)
Ngày 18-11-1930, Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông
Dương đã ra Chỉ thị Về vấn đề thành lập "Hội Phản đế đồng minh". Chỉ thị
15
nêu rõ: "Giai cấp vô sản lãnh đạo cuộc cách mạng tư sản dân quyền ở Đông
Dương mà không tổ chức được toàn dân lại thành một lực lượng thật đông,
thật kín thì cuộc cách mạng cũng khó thành công" [2, tr. 227].
Chỉ thị ra đời giữa lúc cao trào cách mạng trong toàn quốc đã diễn ra
sôi nỗi, mà đỉnh cao là Xô Viết Nghệ Tĩnh. Qua thực tiễn phong trào, ý thức
phản đế trong nhân dân thể hiện mạnh mẽ, trong đó có cả trí thức, sĩ phu, phú
nông, tiểu địa chủ,... Vì vậy, tổ chức Hội Phản đế Đồng Minh là một công tác
khẩn cấp của Đảng. Đây là một chỉ thị đặc biệt quan trọng thể hiện quan
điểm, chủ trương thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất của Đảng. Là một văn
kiện lịch sử quan trọng về Mặt trận của Đảng, của dân tộc Việt Nam. Chính
với tầm quan trọng lịch sử đó, ngày 18-11-1930 trở thành ngày truyền thống
lịch sử của Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam.
Thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam và các tổ chức chính
trị xã hội là một yêu cầu khách quan của cách mạng giải phóng dân tộc ở một
nước thuộc địa như ở Việt Nam. Đây là sự nhận thức đúng đắn của Hồ Chí
Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về chủ trương huy động sức mạnh của cả
dân tộc trong cuộc đấu tranh giải phóng khỏi ách áp bức bóc lột và xây dựng
xã hội mới.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, căn cứ vào bối cảnh cụ
thể của cách mạng mà các hình thức tập hợp, vận động nhân dân được thể
hiện dưới hình thức, tên gọi khác nhau. Tuy nhiên, dù dưới hình thức, tên gọi
nào vấn đề dân tộc và giải phóng dân tộc được đặt lên hàng đầu. Thời kỳ vận
động dân chủ (1936-1939), Đảng đề ra chủ trương mới, tập hợp lực lượng
quần chúng rộng rãi, chống phản động thuộc địa, chống chiến tranh, đòi hoà
bình, quyền dân chủ, dân sinh, v.v... Để thực hiện nhiệm vụ đó, Đảng chủ
trương thành lập Mặt trận nhân dân phản đế rộng rãi, sau đổi thành Mặt trận
dân chủ thống nhất là một nhiệm vụ trọng tâm của Đảng trong thời kỳ này.
16
Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nỗ, phát xít Nhật nhảy vào Đông
Dương, nhân dân các nước ở Đông Dương lại bị hai tròng áp bức của Pháp và
Nhật. Vận mệnh của các dân tộc ở Đông Dương nguy vong không lúc nào
bằng. Trước hoàn cảnh mới đó, Hội nghị lần thứ tám của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng (5-1941) do Hồ Chí Minh chủ trì đã quyết định thay đổi
chiến lược, coi cách mạng ở Đông Dương lúc này là cách mạng giải phóng
dân tộc nên phải thống nhất lực lượng toàn dân tộc, không phân biệt thợ
thuyền, dân cày, phú nông, tiểu tư sản, tư sản bản xứ... ai có lòng yêu nước
thương nòi vào Mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi là Việt Nam Độc lập
đồng minh (Việt Minh) nhằm đánh Pháp, đuổi Nhật giành quyền độc lập tự
do cho các dân tộc Đông Dương... Đảng và Hồ Chí Minh đã kêu gọi, thu hút,
hiệu triệu tất cả các lực lượng nhân dân đông đảo, không phân biệt các thành
phần, giai cấp, dân tộc, ý thức hệ... đứng về phía cách mạng giành lấy chính
quyền khi thời cơ đến. Nhờ chính sách đoàn kết rộng rãi, dưới sự lãnh đạo của
Đảng và Hồ Chí Minh, Cách mạng Tháng Tám đã thành công, lập nên nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Trong thời kỳ kháng chiến 1946-1954, Hội
Liên Việt đã được thành lập và đến năm 1951, Việt Minh và Hội Liên Việt
hợp nhất thành một Mặt trận chung là Mặt trận Liên Việt. Tại Đại hội thống
nhất Mặt trận Việt Minh và Hội Liên Việt thành Mặt trận Liên Việt (3-1951)
Hồ Chí Minh khẳng định và nêu rõ kết quả tiềm năng to lớn của sức mạnh đại
đoàn kết: "Hôm nay, trông thấy rừng cây đại đoàn kết ấy đã nở hoa kết quả và
gốc rễ nó đang ăn sâu lan rộng khắp toàn dân, và nó có một cái tương lai:
"trường xuân bất lão". Vì vậy cho nên lòng tôi sung sướng vô cùng" [19,
tr.181]. Lời khẳng định của Hồ Chí Minh trên đây không chỉ nói lên niềm vui
trước sự lớn mạnh của Mặt trận dân tộc thống nhất mà còn là sự cần thiết phải
mở rộng mặt trận trong tương lai với vai trò to lớn trong việc cổ vũ động viên
17
nhân dân trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc với một sức sống
"trường xuân bất lão".
Đoàn kết trong Mặt trận Liên Việt, nhân dân ta đã kháng chiến thắng
lợi, lập lại hoà bình ở Đông Dương, hoàn toàn giải phóng miền Bắc. Năm
1955, dưới yêu cầu mới của cách mạng, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được
thành lập thay cho Mặt trận Liên Việt.
Đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam, Hồ Chí Minh khẳng định:
Một mặt trận của nhân dân đoàn kết chặt chẽ và rộng rãi là một lực lượng tất
thắng. Hiện nay đồng bào ta ở miền Nam cũng có Mặt trận Dân tộc giải
phóng với chương trình hành động thiết thực và phù hợp với nguyện vọng
chính đáng của nhân dân. Do đó, có thể đoán rằng đồng bào miền Nam nhất
định thắng lợi, nước nhà nhất định sẽ thống nhất, Nam Bắc sẽ sum họp một
nhà. Ở miền Bắc đoàn kết trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và ở miền Nam
đoàn kết trong Mặt trận dân tộc giải phóng, nhân dân ta thực hiện lời di chúc
của Hồ Chí Minh, đánh cho Mỹ cút, đánh cho nguỵ nhào, giang sơn thu về
một mối. Sau khi Tổ quốc được thống nhất, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã
đoàn kết toàn dân bước vào thời kỳ cả nước tiến lên thực hiện cách mạng xã
hội chủ nghĩa.
Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vị trí, vai trò trách nhiệm
của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được thể chế hoá tập trung ở Điều 9 Hiến
pháp năm 1992:
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên là cơ sở
chính trị của chính quyền nhân dân. Mặt trận phát huy truyền thống
đoàn kết toàn dân, tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong
nhân dân, tham gia xây dựng củng cố chính quyền nhân dân, cùng Nhà
nước chăm lo và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân, động viên
nhân dân thực hiện quyền làm chủ, nghiêm chỉnh thi hành Hiến pháp và
18
Pháp luật, giám sát hoạt động của cơ quan Nhà nước, đại biểu dân cử
và cán bộ viên chức Nhà nước [28, tr.66].
Quán triệt các quan điểm, Nghị quyết và đặc biệt thực hiện những quy
định của Hiến pháp, đối với công tác mặt trận trong thời kỳ đổi mới, Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam đã và đang là hiện thân của khối đại đoàn kết, không
ngừng lớn mạnh đã có những đóng góp quan trọng trong sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá. Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ I Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam (1977), Đại hội II (1983), Đại hội III (1988), Đại hội IV
(1994) đã đánh dấu những bước trưởng thành của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tiếp tục phát huy truyền thống đại đoàn kết
toàn dân, tích cực đổi mới phương thức tổ chức hoạt động, phát huy tinh thần
yêu nước, tích cực sáng tạo của các tầng lớp nhân dân, góp phần xây dựng,
củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thông qua các cuộc vận động, các
phong trào thi đua yêu nước.
Trong điều kiện nước ta, Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng duy nhất
cầm quyền đã lãnh đạo dân tộc giành những thắng lợi vẻ vang được toàn thể
nhân dân ủng hộ, được quy định ở Điều 4 của Hiến pháp. Đồng thời, trong
điều kiện không có các đảng chính trị làm đối trọng như các thể chế chính trị
khác, Đảng phải tự đổi mới mình: nâng cao năng lực, sức chiến đấu của Đảng,
không ngừng phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, chống quan liêu,
tham nhũng, thoái hoá, biến chất đánh mất lòng tin của nhân dân. Hồ Chí
Minh đã khẳng định mối quan hệ khăng khít giữa Đảng với nhân dân và Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam: Đảng không hề đòi hỏi Mặt trận phải thừa nhận
quyền lãnh đạo của mình mà phải tỏ ra là bộ phận trung thành nhất và trung
thực nhất. Chỉ trong đấu tranh và công tác hằng ngày, khi quần chúng rộng rãi
thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng thì Đảng mới
giành được vị trí lãnh đạo.
19
- Xem thêm -