BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
NGUYỄN THỊ NGỌC ÁNH
ĐẢNG LÃNH ĐẠO LIÊN MINH
CHIẾN ĐẤU VIỆT NAM VỚI LÀO TRONG KHÁNG CHIẾN
CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC (1945 - 1954)
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
HÀ NỘI, NĂM 2014
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
NGUYỄN THỊ NGỌC ÁNH
ĐẢNG LÃNH ĐẠO LIÊN MINH
CHIẾN ĐẤU VIỆT NAM VỚI LÀO TRONG KHÁNG CHIẾN
CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC (1945 - 1954)
Chuyên ngành
Mã sô
: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
: 60 22 03 15
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS Nguyễn Minh Đức
HÀ NỘI, NĂM 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn “Đảng lãnh đạo xây dựng liên minh chiến
đấu Việt Nam với Lào trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược
(1945 – 1954)” là kết quả nghiên cứu khoa học, nghiêm túc của riêng tôi do
PGS. TS. Nguyễn Minh Đức hướng dẫn. Những ý kiến nhận định khoa học
của người khác được ghi chú xuất xứ đầy đủ.
Tôi xin chịu trách nhiệm hoàn toàn về tính trung thực và chuẩn xác của
nội dung luận văn.
Hà Nội, ngày tháng năm
Tác giả
3
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài.............................................................................. 1
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài .................................................. 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .............................................................. 6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu............................................................... 6
5. Cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu ................................................... 7
6. Đóng góp của luận văn ............................................................................... 7
7. Bố cục của luận văn.................................................................................... 7
Chương 1: ĐẢNG LÃNH ĐẠO LIÊN MINH CHIẾN ĐẤU VIỆT NAM
VỚI LÀO TRONG NHỮNG NĂM ĐẦU KHÁNG CHIẾN (1945 – 1950) . 8
1.1. Bối cảnh lịch sử hình thành liên minh chiến đấu Việt Nam – Lào ............ 8
1.2. Những chủ trương, biện pháp và quá trình ............................................. 13
1.2.1. Chủ trương của Đảng...................................................................... 13
1.2.2. Biện pháp ....................................................................................... 20
1.3. Qúa trình chỉ đạo thực hiện.................................................................... 28
1.3.1. Phối hợp chiến đấu chống Pháp chiếm đóng các thành phố, thị xã của
Lào ................................................................................................... 28
1.3.2. Phối hợp xây dựng các khu kháng chiến ......................................... 31
Chương 2: ĐẢNG TĂNG CƯỜNG LÃNH ĐẠO LIÊN MINH CHIẾN
ĐẤU VIỆT NAM VỚI LÀO TỪ NĂM 1951 ĐẾN 1954 ........................... 36
2.1. Yêu cầu tăng cường liên minh chiến đấu Việt Nam – Lào trong tình hình
mới ............................................................................................................... 36
2.2. Chủ trương, biện pháp mới của Đảng .................................................... 38
2.2.1. Chủ trương ..................................................................................... 38
2.2.2. Biện pháp ....................................................................................... 43
2.3. Qúa trình chỉ đạo thực hiện.................................................................... 51
2.3.1. Tiến hành các chiến dịch tiêu hao sinh lực địch ............................. 51
2.3.2. Phối hợp và giúp đỡ xây dựng lực lượng kháng chiến Lào ............ 55
CHƯƠNG 3: NHẬN XÉT VÀ MỘT SỐ KINH NGHIỆM...................... 64
3.1. Nhận xét chung...................................................................................... 64
3.1.1. Thành tựu và nguyên nhân .............................................................. 64
3.1.2. Hạn chế và nguyên nhân ................................................................. 72
3.2. Một số kinh nghiệm .............................................................................. 74
3.2.1. Xác định đúng mục đích, nội dung và nguyên tắc xây dựng liên minh
chiến đấu phù hợp tình hình, nhiệm vụ chiến đấu của hai nước ...... 74
3.2.2. Đảng có chủ trương, biện pháp đúng phù hợp từng giai đoạn kháng
chiến ............................................................................................... 77
3.2.3. Coi trọng giáo dục, tuyên truyền quân và dân hai nước về ý nghĩa,
tầm quan trọng của liên minh chiến đấu ......................................... 80
3.2.4. Huy động mọi lực lượng tham gia vào xây dựng liên minh kháng
chiến Việt - Lào .............................................................................. 84
KẾT LUẬN ................................................................................................. 86
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................... 89
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong lịch sử quan hệ quốc tế từ xưa tới nay, quan hệ Việt Nam - Lào,
Lào - Việt Nam là một điển hình, một tấm gương mẫu mực, hiếm có về sự gắn
kết, bền chặt, thủy chung, trong sáng và đầy hiệu quả giữa hai dân tộc đấu tranh
giành độc lập tự do và tiến bộ xã hội. Mối quan hệ đó được lãnh đạo hai Đảng,
hai Nhà nước khẳng định là mối quan hệ đặc biệt. Với sự ra đời của Đảng Cộng
sản Việt Nam (1930), từ tháng 10/1930 là Đảng Cộng sản Đông Dương, tình
hình cách mạng hai nước chuyển sang một bước ngoặt mới. Thấm nhuần lời dạy
của Chủ tịch Hồ Chí Minh “giúp bạn tức là mình tự giúp mình”, Đảng và nhân
dân Việt Nam đã chung lưng đấu cật với nhân dân Lào trên những chặng đường
đấu tranh giành tự do, độc lập cực kì gian khổ, hi sinh, vượt qua nhiều thử thách
hiểm nghèo. Mỗi bước phát triển của cách mạng Lào tạo hậu thuẫn cho cách
mạng Việt Nam giành thắng lợi và ngược lại thắng lợi của cách mạng Việt Nam
tạo điều kiện cho cách mạng Lào phát triển. Mối quan hệ đó xuất phát từ yêu cầu
khách quan của công cuộc giải phóng mang bản chất quốc tế vô sản, đem lại
hiệu quả rõ rệt. Trong sự nghiệp chung đó, Lào và Việt Nam đã trở thành những
người bạn, những người đồng chí, những người anh em máu thịt, chung một kẻ
thù, chung một chiến hào chống thực dân Pháp.
Lịch sử đã chứng minh, từ khi thực dân Pháp xâm lược và thống trị,
quan hệ Việt Nam – Lào trở nên mật thiết hơn. Mối quan hệ này đã được
khẳng định trong lịch sử, in đậm những mốc son sáng chói về tình nghĩa ruột
thịt, thủy chung trong sáng, nương tựa lẫn nhau, sống chết có nhau. Trong khi
giai cấp phong kiến đầu hàng, nhân dân hai nước đã kiên quyết đứng lên tiến
hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Xu hướng liên kết đấu tranh giữa
nhân dân hai nước ngày càng được tăng cường.
1
Hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân hai nước Việt Nam và Lào luôn ra
sức củng cố, tăng cường mối quan hệ đặc biệt trong từng bước đi của cuộc
kháng chiến. Cùng với nỗ lực kháng chiến của nhân dân mỗi nước, quan hệ
đoàn kết, liên minh chiến lược giữa hai nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Đông Dương là những nhân tố cơ bản, góp phần làm nên thắng lợi của
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Vai trò và ý nghĩa của khối liên minh Việt – Lào trong kháng chiến
chống thực dân Pháp xâm lược là không thể phủ nhận. Đến nay, đã có nhiều
công trình nghiên cứu về quan hệ Việt Nam trong các chương trình lịch sử,
tuy nhiên, vẫn chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống quá
trình Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo xây dựng liên minh chiến đấu Việt
Nam – Lào, qua đó rút ra bài học kinh nghiệm để vận dụng trong các giai
đoạn lịch sử tiếp theo.
Vì những lí do trên, em chọn đề tài: “Đảng lãnh đạo liên minh chiến
đấu Việt Nam với Lào trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược
(1945 – 1954)” làm luận văn Thạc sĩ, chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản
Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Mối quan hệ son sắt Việt – Lào là một đề tài được nhiều nhà khoa học
quan tâm. Chính vì vậy, có rất nhiều luận án, luận văn, bài viết, đề tài khoa
học nghiên cứu về quan hệ Việt Nam – Lào. Đáng chú ý là các công trình, bài
viết sau:
Về sách có các công trình nổi bật:
Quan hệ Việt – Lào, Lào – Việt, do Nxb. Chính trị Quốc gia xuất bản
năm 1993. Cuốn sách đã tổng hợp bài viết của những cán bộ cấp cao, những
nhà khoa học, những tư liệu quý giá về quan hệ Việt Nam – Lào. Thông qua
đó giúp người đọc có cách nhìn khái quát về quan hệ Việt Nam – Lào thông
2
qua các chặng đường lịch sử. Từ đó thấy được nguồn sức mạnh to lớn trong
quan hệ Việt Nam – Lào trong các chặng đường lịch sử, trong đó có kháng
chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Lịch sử quân tình nguyện Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp tại Lào (1945 – 1954), của Bộ Quốc phòng – Viện Lịch sử Quân sự
Việt Nam biên soạn năm 2002, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội. Cuốn sách
đã phân tích làm rõ hoạt động của quân tình nguyện Việt Nam trên chiến
trường Lào là một trong những trang lịch sử hào hùng của Quân đội nhân dân
Việt Nam. Với tinh thần quốc tế vô sản, quân đội Việt Nam đã giúp đỡ quân
và nhân dân Lào trên nhiều mặt hoàn thành những nhiệm vụ Đảng và nhân
dân giao phó. Cuốn sách cũng đã nêu lên những bài học kinh nghiệm trong
quá trình phối hợp chiến đấu giữa Việt Nam và Lào, đặc biệt trong xây dựng
đội quân tình nguyện ủng hộ kháng chiến Lào. Công trình giúp người đọc
thấy được thắng lợi to lớn của tình đoàn kết chiến đấu Việt Nam – Lào. Kinh
nghiệm giúp bạn Lào trong kháng chiến chống Pháp là vốn quý cần được giữ
gìn, tiếp tục phát huy với sức mạnh mới trong cuộc kháng chiến chống đế
quốc Mỹ tại Lào.
Kỷ yếu Hội thảo quốc tế “Tình đoàn kết Việt Nam – Lào trong xây dựng
và phát triển khu kháng chiến Tây Bắc Lào” , tháng 6 năm 2010. Cuốn sách
tập hợp 19 bài viết của các nhà khoa học Việt Nam về chủ đề này, trong đó
chú ý có bài “Vài nét về quan hệ Việt – Lào trong cách mạng dân tộc 1945 –
1975” của Lê Đình Chỉnh. Bài viết đã trình bày quan hệ Việt Nam – Lào
trong giai đoạn 1945 – 1975 tập trung ở những nội dung chính sau: Một là, sự
thống nhất quan điểm chính trị giữa hai chính đảng cách mạng. Hai là, sự phối
hợp chặt chẽ có hiệu quả trong đấu tranh quân sự. Ba là, giúp Lào xây dựng
vùng giải phóng và đẩy mạnh công tác hậu cần. Bốn là, Việt Nam đẩy mạnh
công tác giúp Lào đào tạo, bồi dưỡng cán bộ… Bài viết cũng khẳng định quan
3
hệ Việt Nam – Lào trong kháng chiến chống ngoại xâm đã để lại nhiều bài
học kinh nghiệm quý báu, nhất là bài học về đoàn kết đấu tranh giữa nhân dân
hai nước Việt Nam, Lào.
Lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam (1930 –
2007), do Đảng Cộng sản Việt Nam – Đảng nhân dân cách mạng Lào chỉ đạo
biên soạn năm 2011, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. Cuốn sách là một công
trình đồ sộ, thể hiện rõ quan hệ Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam thủy chung,
son sắt là tài sản vô giá, là nguồn sức mạnh, nhân tố bảo đảm thắng lợi sự
nghiệp cách mạng của mỗi nước; đồng thời khẳng định quan điểm, đường lối,
chủ trương của hai Đảng, hai Nhà nước trong việc duy trì, củng cố, tăng cường
mối quan hệ đặc biệt của hai dân tộc trong suốt chặng đường dài của lịch sử
(1930 – 2007). Trong cuốn sách này có hai chương (từ trang 3 đến trang 294)
nói về quan hệ Việt Nam – Lào kể từ khi thành lập Đảng đến kháng chiến
chống thực dân Pháp thắng lợi, đã khái quát tình hình quan hệ Việt Nam trong
cuộc kháng chiến trường kì chống thực dân Pháp xâm lược. Tuy nhiên, cả hai
chương này đều không đi sâu giới thiệu, phân tích sự lãnh đạo của Đảng trong
xây dựng liên minh chiến đấu chống thực dân Pháp xâm lược.
Về tạp chí có các công trình, bài viết:
“Liên minh chiến lược Việt Nam – Lào – Campuchia trong cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp” của tác giả Trần Văn Thức (1987) in trong Tạp
chí Lịch sử Quân sự, số 15. Trong bài viết, tác giả đã khẳng định liên minh
chiến lược và chiến đấu Việt Nam – Lào – Campuchia được hình thành trong
kháng chiến và chính nó là nhân tố thắng lợi của cuộc kháng chiến chống
Pháp, là thành quả vĩ đại của nhân dân ba nước Đông Dương. Liên minh đó
tạo nên một sức mạnh không gì phá vỡ nổi, là “một tất yếu khách quan” .
“Liên minh chiến đấu Việt Nam – Lào – Campuchia trong kháng chiến
chống thực dân Pháp (1945 – 1954)”, của PGS, TS. Nguyễn Thanh Tâm
4
(2007), in trong Tạp chí Lịch sử Đảng. Bài viết đã cho thấy, Liên minh chiến
đấu Việt Nam – Lào – Campuchia là một vấn đề chiến lược của cách mạng
giải phóng dân tộc Đông Dương và chủ trương của Đảng nhằm xây dựng khối
liên minh này.
Về luận văn, luận án có công trình tiêu biểu:
Quan hệ Việt Nam – Lào – Campuchia trong thời kì kháng chiến chống
Pháp 1945 – 1954, của Đỗ Đình Hãng (1993), Luận án Phó Tiến sĩ khoa học
Lịch sử, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Trong công trình nghiên cứu, tác
giả đã đưa ra những dẫn chứng trong việc hình thành liên minh chiến đấu giữa
Việt Nam – Lào – Campuchia trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
xâm lược. Từ đó khẳng định vai trò của liên minh chiến đấu ba nước Đông
Dương - một trong những nguyên nhân cơ bản làm nên thắng lợi của nhân
dân Đông Dương trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Tuy
nhiên công trình này chưa đi sâu phân tích chủ trương của Đảng trong xây
dựng liên minh chiến đấu giữa ba nước Đông Dương, đặc biệt trong quan hệ
Việt Nam – Lào.
Các công trình nghiên cứu trên đã phản ánh khá toàn diện mối quan hệ
Việt Nam – Lào trong các giai đoạn lịch sử. Đảng và nhân dân hai nước Việt
– Lào anh em đã trải qua các chặng đường lịch sử đấu tranh chống kẻ thù
chung. Và sau này là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, mở cửa hội nhập quốc
tế. Một số công trình đã đề cập đến các thành tựu, hạn chế, bài học kinh
nghiệm trong quan hệ hợp tác, đoàn kết giữa hai đất nước qua các chặng
đường lịch sử.
Như vậy, cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn
diện, có hệ thống quá trình lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam nhằm xây
dựng liên minh chiến đấu giữa hai nước Việt – Lào trong kháng chiến chống
thực dân Pháp xâm lược. Tuy nhiên từ nhiều cấp độ khác nhau, những công
5
trình trên là nguồn tài liệu tham khảo bổ ích, gợi mở ra nhiều vấn đề và cách
giải quyết khác nhau về nội dung, về phương pháp nghiên cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Góp phần làm rõ sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng đối với quá trình xây
dựng liên minh chiến đấu chống thực dân Pháp xâm lược, qua đó rút ra nhận
xét, kinh nghiệm để vận dụng vào việc củng cố, phát triển quan hệ hợp tác
Việt Nam – Lào hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Luận giải những nhân tố tác động đến quá trình lãnh đạo liên minh
chiến đấu Việt Nam – Lào của Đảng.
- Phân tích những chủ trương, biện pháp của Đảng trong lãnh đạo, chỉ
đạo xây dựng liên minh chiến đấu Việt Nam – Lào trong kháng chiến chống
thực dân Pháp xâm lược.
- Đánh giá những thành tựu và hạn chế của quá trình Đảng lãnh đạo
xây dựng liên minh chiến đấu Việt Nam – Lào trong kháng chiến chống thực
dân Pháp.
- Rút ra một số kinh nghiệm lãnh đạo xây dựng quan hệ đoàn kết, liên minh
chiến đấu Việt Nam – Lào trong kháng chiến chống thực dân Pháp của Đảng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đường lối, chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng liên
minh chiến đấu giữa Việt Nam với Lào trong kháng chiến chống thực dân
Pháp (1945 – 1954).
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Liên minh chiến đấu Việt Nam – Lào trong kháng chiến chống thực
dân Pháp xâm lược (1945 – 1954).
6
5. Cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lí luận
Luận văn được tiến hành dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam về đoàn kết quốc tế, về chiến tranh nhân dân làm cơ sở lí luận trong việc
thực hiện đề tài.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp lịch sử và phương pháp logic kết hợp
các phương pháp tổng hợp, đánh giá nhằm luận giải quá trình Đảng Cộng sản
Việt Nam lãnh đạo xây dựng liên minh chiến đấu giữa Việt Nam – Lào trong
kháng chiến chống thực dân Pháp.
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn phân tích, luận giải làm rõ những chủ trương, đường lối của
Đảng về xây dựng liên minh chiến đấu giữa Việt Nam – Lào trong kháng
chiến chống thực dâp Pháp. Từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm lịch sử
để vận dụng vào việc tăng cường, phát triển quan hệ Việt Nam – Lào trong
giai đoạn hiện nay.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn
được chia 3 chương như sau:
Chương 1. Đảng lãnh đạo liên minh chiến đấu Việt Nam với Lào
trong những năm đầu kháng chiến (1945 – 1950)
Chương 2: Đảng tăng cường lãnh đạo liên minh chiến đấu Việt
Nam với Lào từ năm 1951 đến 1954
Chương 3. Một số nhận xét và kinh nghiệm lịch sử
7
Chương 1: ĐẢNG LÃNH ĐẠO LIÊN MINH CHIẾN ĐẤU
VIỆT NAM VỚI LÀO TRONG NHỮNG NĂM ĐẦU
KHÁNG CHIẾN (1945 – 1950)
1.1. Bối cảnh lịch sử hình thành liên minh chiến đấu Việt Nam – Lào
Việt Nam và Lào có vị trí địa chiến lược quan trọng ở vùng Đông Nam
Á do nằm kề con đường giao thông hàng hải hàng đầu thế giới, nối liền Đông
Bắc Á, Nam Á qua Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, nơi có trữ lượng dầu
khí và tiềm năng khoáng sản dồi dào, một tiêu điểm tranh giành lợi ích của
các nước lớn. Dãy Trường Sơn – biên giới tự nhiên giữa Việt Nam và Lào là
bức tường thành hiểm yếu, tạo điều kiện cho hai nước tựa lưng vào nhau, phối
hợp giúp đỡ nhau trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc của mỗi nước. Tại đây có
nhiều vị trí chiến lược khống chế những địa bàn then chốt về kinh tế, quốc
phòng rộng lớn của hai nước, có thể trở thành điểm tựa vững chắc cho Việt
Nam và Lào trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.
Việt Nam và Lào là những quốc gia đa dân tộc, có lịch sử phát triển lâu
đời trên bán đảo Đông Dương. Quá trình cộng cư, sinh sống đan xen của cư
dân Việt Nam và cư dân Lào trên biên giới đã phản ánh sinh động, liên tục
mối quan hệ cội nguồn và quan hệ tiếp xúc từ xưa của nhân dân hai nước.
Quá trình cộng cư và sống đan xen giữa hai dân tộc xuất phát từ nhiều lí do,
liên quan đến việc cùng khai thác và chia sẻ nguồn lợi tự nhiên, đặc biệt là
nguồn lợi sinh thủy, có thể do tập quán du canh, du cư, có thể do xung đột
cộng đồng, tranh giành quyền lực, cũng có thể do tránh dịch bệnh, thiên tai…
Như vậy những quan hệ cội nguồn và quan hệ tiếp xúc đã là những điều kiện
lịch sử và xã hội đầu tiên tạo ra những mối liên hệ khó phai mờ và sự giao
thoa nhiều tầng nấc dân cư hai nước. Điều này được phản ánh khá sâu đậm
trong những kí ức và tâm thức dân gian, cũng như được lưu giữ trong các
nguồn tài liệu bia kí và sử sách của cả Việt Nam và Lào.
8
Nửa cuối thế kỉ 19, thực dân Pháp đem quân sang xâm lược Đông Dương,
một lần nữa nhân dân Đông Dương nói chung, nhân dân hai nước Việt Nam –
Lào nói riêng, tiếp tục đoàn kết lại chống thực dân Pháp xâm lược.
Truyền thống lịch sử cùng với điều kiện có kẻ thù chung là cơ sở quan
trọng để Việt Nam xây dựng liên minh chiến đấu chống thực dân Pháp xâm
lược sau này.
Sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (02/1930), sau đổi tên thành
Đảng Cộng sản Đông Dương, đã lãnh đạo quân và dân hai nước đoàn kết
chống thực dân Pháp xâm lược và tay sai. Ở Việt Nam, với thắng lợi của Cách
mạng Tháng Tám 1945, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tuyên bố thành
lập (2/9/1945) đánh dấu sự kết thúc chế độ thực dân phong kiến, mở đầu thời
đại vẻ vang, huy hoàng trong lịch sử dân tộc Việt Nam – thời đại Hồ Chí
Minh. Về phương diện quốc tế, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời,
đánh dấu bước đột phá vào dinh lũy, hệ thống của chủ nghĩa đế quốc, thực
dân, mở đầu cuộc tấn công mạnh mẽ của phong trào đấu tranh giải phóng dân
tộc trên toàn thế giới. Về phía Lào, thắng lợi của khởi nghĩa tháng Tám năm
1945 ở Lào và việc nước Lào tuyên bố độc lập (12/10/1945) là những sự kiện
lịch sử to lớn, đánh dấu bước ngoặt cơ bản trong quá trình phát triển của cách
mạng Lào.
Sau khi nước Việt Nam ra đời và nước Lào tuyên bố độc lập, hai nước lại
đối đầu với nguy cơ quay trở lại xâm lược của thực dân Pháp.
Cuối tháng 8/1945, gần 20 vạn quân Trung Hoa dân quốc lấy tư cách là
quân Đồng minh, tiến vào Bắc vĩ tuyến 16 của Việt Nam, Lào. Sau khi đưa
quân chiếm đóng các thành phố, thị xã và các địa bàn trọng yếu, những kẻ
cầm đầu Trung Hoa dân quốc tuyên bố thời gian có mặt của chúng tại bắc vĩ
tuyến 16 là không hạn định và ráo riết thực hiện âm mưu tiêu diệt Đảng Cộng
sản Đông Dương, giúp bọn tay sai chống phá cách mạng Việt Nam và Lào.
9
Theo Nghị quyết của Hội nghị Pốtxđam, Pháp bị gạt ra ngoài lề trong
vấn đề Đông Dương, nhưng thực tế việc để quân Anh vào giải giáp quân Nhật
tại Nam vĩ tuyến 16, vô hình chung đã tạo điều kiện cho Pháp quay trở lại
xâm lược khu vực này. Mặt khác, lợi dụng tình thế bấy giờ, số quân Pháp dạt
khỏi Đông Dương trong cuộc đảo chính của quân Nhật (9/3/1945), cũng bí
mật trở lại bắc vĩ tuyến 16 Việt Nam, Lào.
Ngày 2/9/1945 giữa lúc 50 vạn nhân dân Sài Gòn mít tinh chào mừng
ngày độc lập, một số lính Pháp núp trong nhà thờ Đức Bà xả súng làm 47
người chết và nhiều người bị thương. Sau hàng loạt các hành động gây hấn,
đêm 22 rạng sáng ngày 23 tháng 9 năm 1945, được sự đồng lõa của quân Anh,
quân Pháp nổ súng đánh chiếm một số công sở trong thành phố Sài Gòn, mở
đầu cuộc chiến tranh xâm lược lần hai. Tiếp đó, chúng mở rộng chiến tranh ra
toàn Nam Bộ và Nam Trung Bộ, sang Campuchia. Đầu tháng 9/1945, Pháp
đưa quân vào nam vĩ tuyến 16 của Lào, thành lập Bộ Tham mưu quân Pháp ở
Lào.
Trước âm mưu từng bước mở rộng chiến tranh, dùng lãnh thổ nước này
để xâm chiếm nước kia, biến Đông Dương thành thuộc địa kiểu cũ của thực
dân Pháp đòi hỏi Việt Nam, Lào, Campuchia phải liên minh, đoàn kết với
nhau, tạo nên sức mạnh tổng hợp nhằm đánh bại âm mưu, thủ đoạn của kẻ
thù, thực hiện mục tiêu giải phóng dân tộc. Nhu cầu hợp tác, giúp đỡ nhau
kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược xuất phát từ hai phía. Lào cần có
sự giúp đỡ, hỗ trợ của Việt Nam và ngược lại Việt Nam cũng vậy. Đó là sự
hợp tác, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau, vì mục tiêu chung và riêng, đôi bên cùng
có lợi, nhằm đưa sự nghiệp cách mạng vững bước tiến lên.
Ngày 14/10/1945, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chính thức công nhận
Chính phủ độc lập Lào. Tiếp đó, đại diện chính phủ hai nước kí Hiệp ước
tương trợ Lào – Việt (14/10/1945) và Hiệp định về tổ chức liên quân Lào –
10
Việt (30/10/1945) nhằm giúp đỡ nhau về mọi mặt trong kháng chiến chống
thực dân Pháp, bảo vệ nền độc lập vừa mới giành được. Đó là những văn kiện
chính thức đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Chính phủ độc
lập Lào, tạo cơ sở pháp lý để hai dân tộc hợp tác, liên minh chống thực dân
Pháp xâm lược.
Thấy rõ tầm quan trọng của liên minh Việt Nam – Lào, tháng 10 năm
1945, Hoàng thân Xuvanuvông tuyên bố: “Lào và Việt Nam cùng chung một
nguyện vọng duy nhất là nền độc lập dân tộc và quyền dân chủ thực sự, cùng
chung kẻ thù là thực dân Pháp xâm lược muốn trở lại thống trị hai nước chúng
ta. Do đó, nhân dân Lào và nhân dân Việt Nam anh em phải đoàn kết lại tiếp
tục chiến đấu. Nền độc lập của Lào muôn năm! Tình đoàn kết Lào – Việt
muôn năm!” [38, tr. 21- 22].
Ngày 15 tháng 11 năm 1945, Hoàng thân Xuvanuvông thay mặt Chính
phủ độc lập Lào gửi điện đến Chủ tịch Hồ Chí Minh bày tỏ tinh thần đoàn kết
gắn bó của nhân dân Lào với nhân dân Việt Nam, khẳng định quân và dân hai
nước sát cánh chiến đấu chống kẻ thù chung đến thắng lợi hoàn toàn.
Bước sang năm 1946, tình hình Đông Dương ngày càng trở nên căng
thẳng, quân Pháp dựa vào ưu thế quân sự đã từng bước đánh chiếm, mở rộng
chiến tranh ra toàn vùng nam vĩ tuyến 16.
Cuối tháng 2/1946, Anh bắt đầu rút quân khỏi nam vĩ tuyến 16, tàn
quân Nhật bị tước vũ khí, lần lượt hồi hương. Pháp thỏa thuận với Trung Hoa
dân quốc kí bản Hiệp ước Pháp – Hoa (28/2/1946), tạo điều kiện cho Pháp
thực hiện âm mưu chiếm lại toàn bộ Đông Dương. Trước tình hình đó, Trung
ương Đảng Cộng sản Đông Dương đã đề ra chủ trương Hòa để tiến
(5/3/1946) quyết định tạm thời hòa hoãn với thực dân Pháp, nhằm đẩy nhanh
quân Trung Hoa dân quốc về nước, tránh nguy cơ cùng một lúc phải đối phó
với nhiều kẻ thù. Thực hiện chủ trương của Đảng Cộng sản Đông Dương, với
11
thiện chí hòa bình, Việt Nam đã tiến hành các cuộc đàm phán với Pháp. Chủ
tịch Hồ Chí Minh ký với đại diện Chính phủ Pháp bản Hiệp định sơ bộ
(6/3/1946) nhằm tăng thêm thời gian hòa hoãn, tiếp tục chuẩn bị thêm lực
lượng về mọi mặt, sẵn sàng bước vào cuộc kháng chiến.
Đến giữa tháng 12 năm 1946, với dã tâm quyết xâm chiếm Việt Nam
lần thứ 2, thực dân Pháp ra sức gây ra những vụ tàn sát ở Hà Nội và gửi tối
hậu thư đòi phía Việt Nam phải đầu hàng. Nhận thấy khả năng hòa hoãn
không còn, nguy cơ chiến tranh phát triển tới đỉnh điểm, Thường vụ Trung
ương Đảng Cộng sản Đông Dương ra chỉ thị Toàn dân kháng chiến
(12/12/1946). Theo đó, đêm 19/12/1946, quân ta đồng loạt tiến công địch, mở
đầu cuộc kháng chiến trên quy mô toàn lãnh thổ Việt Nam.
Tại Lào, sau Hiệp định Hoa - Pháp (28/2/1946) quân Trung Hoa dân
quốc lần lượt rút khỏi bắc vĩ tuyến 16, quân Pháp vào thay thế, thực chất là để
thực dân Pháp xâm chiếm Lào. Từ giữa năm 1946, sau khi căn bản chiếm
được toàn bộ lãnh thổ Lào, thực dân Pháp ra sức củng cố chính quyền tay sai
các cấp, tăng cường bắt lính đôn quân, xây dựng phát triển lực lượng dân vệ,
thiết lập đồn bốt ở những vị trí quan trọng nhằm kiểm soát tình hình. Đi đôi
với việc kìm kẹp, khống chế về quân sự, thực dân Pháp còn dùng thủ đoạn
mua chuộc, lừa bịp về chính trị. Bằng sức mạnh quân sự và thủ đoạn chính trị
thâm độc, thực dân Pháp từng bước ổn định tình hình, thiết lập bộ máy chính
trị các cấp ở Lào, gây cho phong trào kháng chiến ở Lào gặp nhiều khó khăn,
phức tạp.
Có thể thấy, đến cuối năm 1946, chiến tranh đã lan rộng trên khắp bán
đảo Đông Dương, cuộc kháng chiến của nhân dân Lào và nhân dân Việt Nam
đang gặp muôn vàn khó khăn trên nhiều phương diện, trong đó, nổi lên khó
khăn lớn nhất là phải “chiến đấu trong vòng vây” bốn bề của chủ nghĩa đế
quốc, thực dân và thiếu sự ủng hộ, giúp đỡ của quốc tế. Hơn bao giờ hết, nhân
12
dân ba nước Đông Dương nói chung, Việt Nam và Lào nói riêng cần đoàn kết
lại nhằm tạo nên sức mạnh to lớn để chống kẻ thù chung.
1.2. Những chủ trương, biện pháp và quá trình
1.2.1. Chủ trương của Đảng
1.2.1.1. Đảng xác định xây dựng liên minh chiến đấu Việt Nam – Lào là
một tất yếu khách quan
Trước âm mưu quay trở lại xâm lược Việt Nam và cả Đông Dương,
chia rẽ Đông Dương để dễ bề cai trị, thực dân Pháp trở thành kẻ thù chung
của cả ba dân tộc Việt Nam – Lào – Campuchia. Đồng thời, cuộc kháng chiến
của nhân dân ba nước Đông Dương diễn ra trong hoàn cảnh vô vàn khó khăn:
vừa mới giành được chính quyền, lực lượng vũ trang cách mạng còn non trẻ,
nhất là ở Lào lực lượng cách mạng còn quá nhỏ bé, lại chiến đấu trong vòng
vây tứ phía. Hoàn cảnh này đặt ra yêu cầu phải phát huy sức mạnh nội lực của
từng nước và đoàn kết chiến đấu giữa ba nước.
Phân tích một cách toàn diện và sâu sắc tình hình quốc tế và Đông
Dương, ngay từ đầu Đảng đã chỉ rõ tính chất của cuộc chiến đấu ở Đông
Dương lúc này vẫn là cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. “Chỉ thị kháng
chiến kiến quốc” (2/11/1945) của Đảng nêu rõ: “nhiệm vụ cứu
nước của giai cấp vô sản chưa xong, kẻ thù chính của nhân dân Đông Dương
là thực dân Pháp xâm lược, phải tập trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng, cần
phải lập Mặt trận dân tộc thống nhất chống thực dân Pháp; thống nhất mặt
trận Việt – Miên – Lào” [30, tr.26]. Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc thực sự là
cương lĩnh hành động của Đảng Cộng sản Đông Dương trước tình hình mới.
Chỉ thị đã chỉ rõ kẻ thù chung của các nước Đông Dương là thực dân Pháp
xâm lược, cần tập trung mũi nhọn đấu tranh vào chúng. Đồng thời, chỉ thị
cũng nhận định rõ tầm quan trọng của xây dựng liên minh chiến đấu nhằm tạo
nên sức mạnh tổng hợp chống xâm lược, là dấu mốc xác lập liên minh chiến
đấu giữa nhân dân ba nước Việt Nam – Lào – Campuchia.
13
Thực hiện chủ trương của Đảng, với ý chí sắt đá về độc lập, tự do,
thống nhất Tổ quốc, nhân dân Nam Bộ và Nam Trung Bộ đã dũng cảm đứng
lên chiến đấu ngăn chặn bước tiến quân của kẻ thù, nhưng do lực lượng chênh
lệch nên đầu năm 1946, quân Pháp từng bước đánh chiếm, mở rộng chiến
tranh ra toàn vùng nam vĩ tuyến 16.
Cuối tháng 2/1946, Anh bắt đầu rút quân khỏi nam vĩ tuyến 16, tàn
quân Nhật bị tước vũ khí, lần lượt hồi hương. Pháp thỏa thuận với Trung Hoa
dân quốc ký bản Hiệp ước Pháp – Hoa, tạo điều kiện cho Pháp chiếm toàn bộ
Đông Dương. Trước tình hình đó, Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản
Đông Dương ra Chỉ thị Tình hình và chủ trương (3/3/1946), chỉ rõ: “muốn
cứu vãn quyền lợi chung của đế quốc, chống phong trào vô sản và cách mạng
thuộc địa, Anh, Pháp, Mỹ - Tàu đã tạm dẹp mâu thuẫn bộ phận ở Đông
Dương. Coi đó thì Hiệp ước Hoa – Pháp không phải là chuyện riêng của Tàu,
Pháp. Nó là chuyện chung của phe đế quốc và bọn tay sai của chúng ở thuộc
địa… nhưng chúng vẫn gờm cách mạng Đông Dương và dư luận quốc tế về
việc quân Pháp kéo vào nước ta” [30, tr.41 – 42]. Thường vụ Trung ương
Đảng cho rằng hòa với Pháp có thể phá tan âm mưu của chủ nghĩa đế quốc và
bọn phản động, bảo toàn lực lượng, có thêm thời gian chuẩn bị cho cuộc chiến
đấu mới, tiến tới giành độc lập hoàn toàn.
Về phía cách mạng Lào, bằng sức mạnh quân sự và thủ đoạn chính trị
thâm độc, thực dân Pháp từng bước ổn định tình hình, thiết lập bộ máy chính
trị các cấp ở Lào, gây cho phong trào kháng chiến ở Lào nhiều khó khăn,
phức tạp. Trong khi đó phong trào đấu tranh Lào còn yếu, cơ sở chính trị,
nhất là ở vùng nông thôn, miền núi hầu như là chưa có gì. Lực lượng vũ trang
của cách mạng Lào còn nhỏ bé, vũ khí thô sơ, hoạt động phân tán, thiếu sự
chỉ huy, chỉ đạo thống nhất, Lào tiến hành kháng chiến trong điều kiện khó
khăn hơn Việt Nam rất nhiều. Chính phủ độc lập Lào, sau hơn tám tháng hoạt
động đã phải lánh sang Thái Lan (6/1946).
14
Như vậy, đến cưối năm 1946, chiến tranh đã lan rộng toàn cõi Đông
Dương, cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam và nhân dân Lào ngày càng
trở nên khó khăn trên mọi phương diện, chiến đấu trong vòng vây của chủ
nghĩa đế quốc, thực dân, thiếu sự ủng hộ của quốc tế. Trước những khó khăn
này, Đảng đã nhận định tầm quan trọng trong xây dựng liên minh chống thực
dân Pháp xâm lược do “Đối với Lào, Mên cùng với ta có chung kẻ địch, ta đòi
Pháp phải thừa nhận quyền tự chủ hay ít nhất quyền tự chủ rộng rãi về chính
trị cho họ” [30, tr. 47]. Cuộc xâm lược Đông Dương lần thứ hai của thực dân
Pháp đã làm cho Đông Dương trở thành chiến trường chung, nhân dân ba
nước Việt Nam, Lào, Campuchia cùng có một kẻ thù chung là quân xâm lược
Pháp. Cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung cũng như giải quyết vấn đề nội bộ
của phong trào đấu tranh ở mỗi nước đặt ra yêu cầu liên minh chiến đấu giữa
ba nước Đông Dương nói chung và Việt Nam với Lào nói riêng. Cách mạng
Lào cần có sự giúp đỡ, hỗ trợ của Việt Nam và ngược lại cuộc kháng chiến
của Việt Nam cần có sự hỗ trợ, giúp đỡ ủng hộ của Lào. Do đó, xây dựng liên
minh chiến đấu Việt Nam với Lào là một tất yếu khách quan.
1.2.1.2. Đảng xác định xây dựng liên minh Việt Nam với Lào phải trên
cơ sở tôn trọng, giúp đỡ lẫn nhau
Nhu cầu hợp tác, giúp đỡ nhau kháng chiến chống thực dân Pháp xuất
phát từ hai phía. Lào cần có sự giúp đỡ, hỗ trợ của Việt Nam và ngược lại Việt
Nam cũng vậy. Đó là sự hợp tác tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau, vì mục tiêu
chung và riêng, đôi bên cùng có lợi nhằm đưa sự nghiệp cách mạng vững
bước tiến lên. Chính vì vậy, xây dựng liên minh chiến đấu Việt Nam với Lào
phải trên cơ sở tôn trọng, giúp đỡ lẫn nhau.
Trước diễn biến tình hình mới của cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp xâm lược, Đảng Cộng sản Đông Dương và lãnh tụ hai nước tiếp tục đề
ra các chủ trương lãnh đạo các lực lượng vũ trang và nhân dân hai nước đoàn
kết liên minh chiến đấu chống thực dân Pháp xâm lược.
15
- Xem thêm -