Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Đảng lãnh đạo kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh quân sự ở miền Nam từ nă...

Tài liệu Đảng lãnh đạo kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh quân sự ở miền Nam từ năm 1961 đến năm 1968

.PDF
125
603
111

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN BÙI THỊ TRANG ĐẢNG LÃNH ĐẠO KẾT HỢP ĐẤU TRANH CHÍNH TRỊ VỚI ĐẤU TRANH QUÂN SỰ Ở MIỀN NAM TỪ NĂM 1961 ĐẾN NĂM 1968 LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ HÀ NỘI - 2014 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN BÙI THỊ TRANG ĐẢNG LÃNH ĐẠO KẾT HỢP ĐẤU TRANH CHÍNH TRỊ VỚI ĐẤU TRANH QUÂN SỰ Ở MIỀN NAM TỪ NĂM 1961 ĐẾN NĂM 1968 Chuyên ngành:Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam Mã số : 60 22 56 LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ Cán bộ hướng dẫn khoa học:PGS.TS. NGUYỄN XUÂN TÚ HÀ NỘI - 2014 2 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS Nguyễn Xuân Tú. Các số liệu trong luận văn là trung thực, chính xác, đảm bảo tính khách quan, khoa học và có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng. Hà Nội, ngày ..... tháng .... năm 2014 Tác giả luận văn BÙI THỊ TRANG 3 MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 5 Chương 1 ĐẢNG LÃNH ĐẠO KẾT HỢP ĐẤU TRANH CHÍNH 12 TRỊ VỚI ĐẤU TRANH QUÂN SỰ CHỐNG CHIẾN LƯỢC “CHIẾN TRANH ĐẶC BIỆT” CỦA ĐẾ QUỐC MỸ Ở MIỀN NAM (1961-1965) 1.1. Chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ và chủ trương của 12 Đảng về kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh quân sự ở miền Nam 1.2 Đảng chỉ đạo kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh quân 34 sự chống chiến lược "chiến tranh đặc biệt" Chương 2 ĐẨY MẠNH KẾT HỢP ĐẤU TRANH CHÍNH TRỊ VỚI ĐẤU 50 TRANH QUÂN SỰ CHỐNG CHIẾN LƯỢC "CHIẾN TRANH CỤC BỘ" CỦAĐẾ QUỐC MỸ (1965 - 1968) 2.1 Bước phát triển mới của cuộc kháng chiến và chủ trương đẩy 50 mạnh kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh quân sự của Đảng (1965 - 1968) 2.2. Đảng chỉ đạo đẩy mạnh kết hợp đấu tranh chính trị với đấu 65 tranh quân sự chống chiến lược "chiến tranh cục bộ" Chương 3 MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM 83 3.1. Một số nhận xét 83 3.2. Kinh nghiệm lịch sử 94 KẾT LUẬN 109 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 111 PHỤ LỤC 117 4 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Cách đây gần 40 năm, với cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, quân và dân ta đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Thắng lợi oanh liệt đó đã mở ra bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử đấu tranh của dân tộc, đưa cả nước bước vào kỷ nguyên của độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Tổng kết về cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đại hội lần thứ IV của Đảng (12/1976) đã khẳng định: “Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là thành quả tổng hợp của một loạt nhân tố tạo nên sức mạnh vô địch của cách mạng Việt Nam. Nguồn gốc của mọi nhân tố ấy chính là sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng ta” [54, tr.73] mà “trước hết là thắng lợi của đường lối chính trị, đường lối quân sự độc lập, tự chủ, đúng đắn và sáng tạo của Đảng ta” [54, tr.472]. Đó là đường lối giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tiến hành đồng thời và kết hợp chặt chẽ hai chiến lược cách mạng ở hai miền: Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc nhằm mục tiêu chung là hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Có thể thấy rằng thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là một trong những chiến công chói lọi nhất của quân và dân ta trong nửa cuối thế kỷ XX, đồng thời đã để lại cho chúng ta những bài học quý báu trên nhiều phương diện. Bài học quyết định mang tính bao trùm ấy chính là sự nhận thức và lãnh đạo đúng đắn của Đảng trong chiến tranh cách mạng. Đặc biệt, từ năm 1961, khi đế quốc Mỹ tiến hành chiến lược “chiến tranh đặc biệt” (1961 – 1965), tiếp đó áp dụng chiến lược “chiến tranh cục bộ” (1965 – 1968) ở miền Nam nhằm đàn áp phong trào đấu tranh của quân và dân ta. Trong bối cảnh đó, Đảng đã phân tích tình hình, đưa ra chủ trương mới về kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh quân sự ở chiến trường 5 miền Nam, nhằm từng bước khắc phục khó khăn, đối phó với âm mưu, thủ đoạn của Mỹ và đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước từng bước giành thắng lợi. Đi sâu vào nghiên cứu quá trình Đảng lãnh đạo kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh quân sự ở miền Nam trong những năm 1961 - 1968 để làm rõ những nguyên nhân dẫn đến thắng lợi vĩ đại của nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Từ đó khẳng định sự đúng đắn trong nhận thức và sự lãnh đạo của Đảng với cuộc đấu tranh kiên cường đầy sáng tạo của quân và dân miền Nam. Trong giai đoạn hiện nay, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược của thời kỳ quá độ. Bên cạnh sự chuyển mình, đổi mới và phát triển thì Việt Nam vẫn luôn phải đối phó với những âm mưu chống phá của các thế lực thù địch trong và ngoài nước. Vì vậy, những bài học kinh nghiệm rút ra từ quá trình Đảng lãnh đạo kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh quân sự ở miền Nam trong những năm 1961 – 1968 không chỉ có ý nghĩa lịch sử mà còn có giá trị thực tiễn to lớn. Những bài học kinh nghiệm mà Đảng để lại trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước sẽ gợi mở cho việc hoạch định các giải pháp để chỉ đạo có hiệu quả việc kết hợp hai nhiệm vụ củng cố quốc phòng an ninh và phát triển kinh tế. Nhận thức được tầm quan trọng đã nêu ở trên, tác giả lựa chọn vấn đề “Đảng lãnh đạo kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh quân sự ở miền Nam từ năm 1961 đến năm 1968” làm đề tài luận văn thạc sỹ, chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam. 2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài Cho đến nay, đã có rất nhiều những cuốn sách, những tác phẩm, những bài viết của các tác giả trong và ngoài nước nghiên cứu về lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ hào hùng, vang dội của quân và dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nhiều công trình nghiên cứu đã được công bố ở các thể loại khác nhau đề cập đến quá trình lãnh đạo của Đảng kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh quân sự ở 6 miền Nam Việt Nam. Bộ sách Lịch sử quân sự Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia – Sự thật đã xuất bản tập 12 với tên đề Những nhân tố hợp thành sức mạnh Việt Nam thắng Mỹ do Viện Lịch sử quân sự Việt Nam – Bộ Quốc phòng biên soạn, chính là những nghiên cứu, đánh giá, luận giải về những nguyên nhân thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975). Tập 12 đi sâu phân tích và chứng minh những thắng lợi vĩ đại của quân và dân ta ở cả hai miền Nam, Bắc. Với nghệ thuật tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, đánh địch bằng hai lực lượng, ba thứ quân trên cả ba vùng chiến lược, kết hợp khởi nghĩa và chiến tranh cách mạng, đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị và ngoại giao, kết hợp tiến công và nổi dậy…giành thắng lợi. Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân miền Nam được đề cập một cách chi tiết, cụ thể trong bộ sách Lịch sử Nam Bộ kháng chiến 1945 – 1975 (Tập II: Lịch sử Nam Bộ kháng chiến 1954 – 1975) với nhiều tài liệu lần đầu được giải mã và công bố cùng với những nhân chứng lịch sử vẫn còn sống đã tổng kết cuộc kháng chiến. Bộ sách do Nxb Chính trị quốc gia ấn hành, là công trình khoa học có giá trị cao được thực hiện theo ý kiến chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng, đã nghiên cứu và phân tích cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân miền Nam chống Mỹ dưới sự lãnh đạo của Đảng. Qua đó chỉ ra những kinh nghiệm quý báu của cuộc kháng chiến. Ở công trình này, kinh nghiệm lãnh đạo kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh quân sự của Đảng được đề cập đến một cách tổng quát. Bên cạnh những bộ sách đồ sộ, những tác phẩm đã được ấn hành, công bố với nhiều thể loại khác nhau, nhiều luận án Tiến sĩ Lịch sử về cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước cũng đã đề cập đến sự kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh quân sự dưới sự lãnh đạo của Đảng. Luận án Phó tiến sĩ của Hồ Khang về Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 ở miền Nam Việt Nam đã phân tích những nguyên nhân khách quan, chủ quan của sự hình 7 thành chiến lược của Đảng trong Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1968. Luận án nêu rõ thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1968 đã tạo nên bước ngoặt quyết định của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, khẳng định đường lối đúng đắn của Đảng trong việc kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh quân sự. Luận án Tiến sĩ Lịch sử của Hồ Thị Liêm về Phong trào đấu tranh chống, phá ấp chiến lược ở miền Đông Nam Bộ (1961 – 1965) đã nghiên cứu về phong trào đấu tranh chống, phá ấp chiến lược ở miền Đông Nam Bộ trong giai đoạn 1961-1965, nhằm dựng lại bức tranh toàn cảnh về cuộc đấu tranh anh dũng ngoan cường và mưu trí của quân và dân các tỉnh miền Đông Nam bộ trong thời kỳ chống chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ, góp phần làm sáng tỏ và sâu sắc hơn lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước; qua đó cung cấp những luận cứ khoa học cho quá trình xây dựng lực lượng cách mạng phục vụ nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Ngoài ra còn có nhiều công trình, bài viết của các nhà khoa học, tập thể các nhà khoa học, các vị lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, các tướng lĩnh trong quân đội trực tiếp tham gia chỉ đạo cuộc kháng chiến được đăng tải lên Tạp chí Lịch sử Đảng, Tạp chí Lịch sử Quân sự, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử. Mặc dù dựa trên sự tiếp cận ở nhiều góc độ khác nhau của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước nhưng đều đề cập đến thời kỳ 1961 – 1968 với những chỉ đạo của Đảng trong việc kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh quân sự ở miền Nam Việt Nam. Nhiều nhà nghiên cứu nước ngoài viết về cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam có liên quan đến sự lãnh đạo kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh quân sự của Đảng ta. Ấn phẩm Chiến tranh Việt Nam là thế đó của tập thể tác giả do E.P. Gladunốp, Phó tiến sĩ kinh tế, Chủ tịch Hội Hữu nghị Nga - Việt, Chủ tịch Hội đồng biên soạn. Cuốn sách ra đời năm 2005 nhân kỷ niệm 60 năm chiến thắng chủ nghĩa phát xít, Nhà xuất bản "ЄKЗAMEH" 8 Mátxcơva (Liên bang Nga) do Đào Tấn Anh và Nguyễn Đăng Nguyên dịch và được Nxb Chính trị quốc gia xuất bản năm 2007. Đây là một tập hồi ký chân thực, tập hợp 29 bài viết mà mỗi bài viết, từ những góc nhìn của mỗi sỹ quan, mỗi chuyên gia là một hồi ức, một trải nghiệm rất sâu sắc, rất sống động và cũng rất bổ ích về bối cảnh và tình thế của cuộc chiến đấu chống trả cuộc tấn công bằng đường không của Mỹ dưới sự lãnh đạo của Đảng. Cùng với đó là các tác giả như tướng U.Oétmolen – người trực tiếp chỉ huy quân đội Mỹ ở miền Nam Việt Nam viết cuốn Tường trình của một quân nhân, Nxb Trẻ Thành phố Hồ Chí Minh xuất bản năm 1988. G.Côncô viết cuốn Giải phẫu một cuộc chiến tranh do Nxb Quân đội nhân dân xuất bản năm 1989 và 1991. Trong 2 tập sách, tác giả đã lý giải về nguồn gốc của chiến tranh; sự can thiệp của Mỹ vào Việt Nam và khẳng định một kết cục tất yếu là Mỹ sẽ thất bại ở Việt Nam. Ph.B.Đavítsơn viết cuốn Những bí mật của chiến tranh Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia xuất bản năm 1985. J.Pimlott viết Việt Nam – những trận đánh quyết định, Trung tâm thông tin khoa học công nghệ môi trường, Bộ Quốc phòng phát hành năm 1997. Nhìn chung, những công trình ở trên đã đề cập ở những góc độ và mức độ khác nhau liên quan đến quá trình Đảng lãnh đạo kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ở miền Nam. Kết quả nghiên cứu và những tư liệu quý báu của các công trình này là cơ sở để tác giả kế thừa, vận dụng trong quá trình xây dựng và hoàn thiện luận văn. Tuy nhiên, chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu về vấn đề Đảng lãnh đạo kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh quân sự ở miền Nam Việt Nam trong giai đoạn từ năm 1961 đến năm 1968. 3.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu * Mục đích: 9 Làm rõ sự lãnh đạo của Đảng về kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh quân sự ở miền Nam từ năm 1961 đến năm 1968. Qua đó rút ra những kinh nghiệm trong quá trình lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực này. * Nhiệm vụ - Phân tích bối cảnh lịch sử và những yêu cầu đặt ra đối với cách mạng miền Nam Việt Nam trong những năm 1961-1968. - Làm rõ quá trình lãnh đạolinh hoạt, sáng tạo của Đảng trong việc kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh quân sự chống đế quốc Mỹ ở miền Nam Việt Nam từ năm 1961 đến năm 1968. - Rút ra những nhận xét và kinh nghiệm chủ yếu từ quá trình lãnh đạo của Đảng, luận giải, vận dụng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu * Đối tượng nghiên cứu - Nghiên cứu hoạt động lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam về kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh quân sự chống đế quốc Mỹ ở miền Nam từ năm 1961 đến năm 1968. * Phạm vi nghiên cứu - Về nội dung: Tập trung nghiên cứu chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam về kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh quân sự. - Về không gian: Nghiên cứu sự kết hợp giữa đấu tranh chính trị với đấu tranh quân sự ở miền Nam Việt Nam. - Về thời gian: Nghiên cứu trong thời gian từ năm 1961 đến năm 1968. Tuy nhiên, để đạt được mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu, tác giả có mở rộng tìm hiểu quá trình lãnh đạo của Đảng từ trước năm 1961. 5. Cơ sởlý luận và phương pháp nghiên cứu * Cơ sở lý luận Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về chiến 10 tranh cách mạng, bạo lực cách mạng,… đồng thời dựa trên quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng và tư tưởng Hồ Chí Minh về việc kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ở miền Nam. * Phương pháp nghiên cứu Đề tài nghiên cứu thông qua phương pháp lịch sử, phương pháp lôgic và sự kết hợp hai phương pháp này là chủ yếu.Đồng thời có sử dụng các phương pháp khác như: phân tích, tổng hợp, hệ thống - cấu trúc, so sánh,...để phù hợp với từng nội dung của luận văn. 6. Ý nghĩa của luận văn - Kết quả nghiên cứu góp phần làm sáng tỏ tính đúng đắn, sáng tạo của Đảng trong lãnh đạo, chỉ đạo kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh quân sự ở miền Nam – yếu tố quan trọng, quyết định đánh bại lần lượt các chiến lược “chiến tranh đặc biệt”, “chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ trong những năm 1961 – 1968. - Luận văn góp phần tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vĩ đại của dân tộc ta, là tài liệu tham khảo phục vụ cho công tác nghiên cứu, giảng dạy môn Lịch sử Đảng và môn Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong các học viện, trường đại học và cao đẳng. 7. Bố cục của luận văn Gồm phần mở đầu, 3 chương (6 tiết), kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục. 11 Chương 1 ĐẢNG LÃNH ĐẠO KẾT HỢP ĐẤU TRANH CHÍNH TRỊ VỚI ĐẤU TRANH QUÂN SỰ CHỐNG CHIẾN LƯỢC “CHIẾN TRANH ĐẶC BIỆT” CỦA ĐẾ QUỐC MỸ Ở MIỀN NAM (1961-1965) 1.1. Chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ và chủ trương của Đảng về kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh quân sự ở miền Nam 1.1.1. Tình hình thế giới và âm mưu của đế quốc Mỹ ở Việt Nam trong những năm đầu thập kỷ 60 * Tình hình thế giới: Sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai, tình hình thế giới có nhiều thay đổi, diễn biến phức tạp, tác động mạnh mẽ tới cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam. Ba trào lưu cách mạng thế giới ( sự lớn mạnh của hệ thống xã hội chủ nghĩa, phong trào giải phóng dân tộc và phong trào đấu tranh của công nhân và nhân dân lao động ở các nước tư bản) luôn phát triển ở thế tiến công toàn diện, đẩy chủ nghĩa đế quốc vào thế bị động và thất bại liên tiếp. Thắng lợi của Liên Xô trong Chiến tranh thế giới thứ hai đã mở ra một thời kỳ mới, mà đặc điểm nổi bật của nó là: Chủ nghĩa xã hội đã vượt khỏi phạm vi một nước, trở thành một hệ thống thế giới lớn mạnh nhanh chóng làm chỗ dựa vững chắc cho cuộc đấu tranh chung của nhân dân các nước vì hòa bình, độc lập, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Với bản chất tốt đẹp của mình, chủ nghĩa xã hội trở thành đích đến, trụ cột của nhiều quốc gia. Đồng thời, sự phát triển vượt bậc của các nước xã hội chủ nghĩa trên nhiều lĩnh vực đã làm thay đổi tương quan lực lượng cách mạng thế giới, góp phần to lớn vào việc bảo vệ nền hòa bình, dân chủ. "Đến đầu năm 1960 nền kinh tế của các nước xã hội chủ nghĩa đã chiếm vị trí đáng kể trong nền kinh tế thế giới (38%)" [60, tr.152]. Khoa học kỹ thuật phát triển và giành được những thành tựu quan trọng, đặc biệt là về quân sự. Không chỉ dừng ở việc chế tạo thành công bom 12 nguyên tử (1949), đến năm 1961, Liên Xô đã phóng vệ tinh nhân tạo và phóng tàu vũ trụ có người lái vào quỹ đạo trái đất. Do đó, không những nâng cao uy tín của Liên Xô và phe xã hội chủ nghĩa trên trường quốc tế, mà quan trọng hơn là đã tạo thêm thế mới cho sự nghiệp bảo vệ hòa bình thế giới. Đồng thời, cũng buộc chủ nghĩa đế quốc, mà trước hết là Mỹ phải thay đổi chiến lược toàn cầu của mình. Đây cũng là thời kỳ mà nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức vùng lên đấu tranh mạnh mẽ cho những mục tiêu cao cả. Các nước thuộc địa ở Á, Phi, Mỹ La tinh lần lượt đứng lên giành độc lập, phá vỡ và thu hẹp hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc. Năm 1960, đã có 17 nước châu Phi (Camarun, Xenegan, Conggo, Xomali, ...) giành được thắng lợi to lớn trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. "Cho đến cuối năm 1964, trên 1.5 tỷ người của ba lục địa này đã được giải phóng khỏi ách thống trị của thực dân. Trên 60 nước độc lập trẻ tuổi đã bước lên vũ đài chính trị quốc tế, với tư cách là những quốc gia có chủ quyền"[60 , tr.153]. Mặt khác, các nước thuộc địa cũng đoàn kết với nhau trong phong trào Không liên kết để chống kẻ thù chung. Với những hoạt động tích cực, nó đã tạo thành một lực lượng chính trị vô cùng rộng rãi trên trường quốc tế, vừa tăng sức cổ vũ cho cách mạng miền Nam, vừa làm suy yếu và phân tán lực lượng của chủ nghĩa đế quốc. Vì vậy, dòng thác cách mạng giải phóng dân tộc trong những năm 1960 thực sự trở thành đồng minh, hỗ trợ cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta. Cùng với hệ thống xã hội chủ nghĩa, phong trào giải phóng dân tộc còn có phong trào đấu tranh đòi cải thiện dân sinh, dân chủ, hòa bình và tiến bộ xã hội của công nhân và nhân dân lao động ở các nước tư bản cũng phát triển mạnh mẽ. Điều đó, làm cho đế quốc không thể tùy ý quyết định có hay không có chiến tranh như trước. Do đó, nó trở thành một dòng thác cách mạng đánh vào chính sách phản động của chủ nghĩa đế quốc và đẩy chủ nghĩa tư bản rơi vào khủng hoảng trầm trọng. Ngoài ra, vào những năm đầu của thập kỷ 60, đế quốc Mỹ cũng phải đối mặt với cuộc khủng hoảng kinh tế (1960 -1961). Hậu quả của nó là làm "5,5 triệu người 13 thất nghiệp, dự trữ vàng giảm xuống 15.8 triệu USD năm 1963"[60, tr.154). Tổng thống Mỹ G. Kennodi, cũng khẳng định: "Mỹ là nước tài nguyên giàu có nhất thế giới, nhưng lại là một trong những nước tư bản có tốc độ phát triển kinh tế thấp nhất" [60, tr.155]. Khó khăn này đã làm đau đầu nhiều đời tổng thống, và nó cũng chi phối nhất định tới các chính sách quân sự của Mỹ. Phong trào chống Mỹ cũng ngày càng lên mạnh ở các châu lục. Do đó, trong chiến tranh ở Việt Nam, Mỹ sẽ gặp phải sự phản kháng mạnh mẽ của nhân dân lao động. Bên cạnh những thuận lợi, tình hình thế giới cũng đưa đến những khó khăn đối với cách mạng Việt Nam. Trước hết, nhờ Chiến tranh thế giới lần thứ hai, Mỹ vượt lên về sức mạnh vật chất - kỹ thuật và quân sự, đã nhảy ra đóng vai trò “sen đầm” quốc tế, hòng cứu vãn chủ nghĩa đế quốc. Tính đến năm 1960, Mỹ đã có "đội quân gồm 2.5 triệu người, 104 liên đội máy bay, ném bom hạng trung, gần 40 liên đội máy bay ném bom hạng nặng, 400 máy bay B52, 1.400 máy bay B57, 110 tàu ngầm trong đó có 32 chiếc được trang bị tên lửa chiến lược thế hệ mới" [52, tr.14]. Vì vậy, trong cuộc chiến ở Việt Nam, đế quốc Mỹ luôn sử dụng các vũ khí hiện đại, tối tân và tăng cường viện trợ cho quân đội và chính quyền Sài Gòn. Trong khi chưa có tiềm lực để thực hiện một cuộc chiến tranh nóng nhằm tiêu diệt chủ nghĩa xã hội, thì chủ nghĩa đế quốc, đứng đầu là Mỹ đã phát động một cuộc chiến tranh lạnh. Để trở thành bá chủ thế giới, Mỹ đã tiến hành chiến lược toàn cầu, với những phương tiện khổng lồ và thủ đoạn tàn bạo, quỷ quyệt. Từ chỗ chuẩn bị chiến tranh bằng vũ khí hạt nhân nhằm đánh thẳng vào phe xã hội chủ nghĩa là chủ yếu, Mỹ chuyển sang dùng chiến tranh hạn chế bằng vũ khí thông thường. Do đó, Mỹ tiến công trực tiếp vào phong trào giải phóng dân tộc và áp đặt chủ nghĩa thực dân mới đối với các nước thuộc địa. Mỹ lựa chọn Việt Nam là nơi thử nghiệm chiến lược này, bởi đây là nơi diễn ra cuộc cách mạng giải phóng dân tộc triệt để nhất và ảnh hưởng của nó đã vượt ra ngoài phạm vi Đông Dương. Đồng thời, đây cũng là nơi mà "Nếu Mỹ rút khỏi cuộc xung đột ở miền Nam thì sự sụp đổ không những ở miền 14 nam Việt Nam mà cả toàn bộ vùng Đông Nam Á" [60, tr.158]. Bởi, theo Mỹ miền Nam Việt Nam là nơi có nguy cơ phá vỡ "chiến lược vành đai" của chúng. Cũng trong giai đoạn này, khi nhân dân Việt Nam đang bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đầy khó khăn, thì trong nội bộ hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa, nhất là giữa Liên Xô và Trung Quốc đã diễn ra những mâu thuẫn và bất đồng gay gắt về chiến lược, sách lược, phương pháp đấu tranh chống đế quốc và các thế lực phản động. Mặt khác, để củng cố vị trí của mình là nước xã hội chủ nghĩa đích thực, hai nước Xô - Trung đã có những chính sách khác nhau nhằm tranh giành ảnh hưởng đối với Việt Nam. Điều đó tạo cơ hội cho chủ nghĩa đế quốc lợi dụng, chia rẽ và làm suy yếu phong trào cách mạng thế giới. Chính vì vậy, đòi hỏi Đảng trong giai đoạn này phải khéo léo xử lý quan hệ đối ngoại để có thể tranh thủ mọi sự giúp đỡ. Cùng với những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới, thì ở Việt Nam, đế quốc Mỹ đang thực hiện âm mưu biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới, làm căn cứ quân sự tấn công miền Bắc và ngăn chặn làn sóng xã hội chủ nghĩa phát triển ở khu vực Đông Nam Á. * Âm mưu của đế quốc Mỹ trong chiến lược "Chiến tranh đặc biệt" ở miền Nam Việt Nam Hiệp địnhGiơnevơ được ký kết, cách mạng Việt Nam bước vào giai đoạn mới với đặc điểm nổi bật là đất nước tạm chia cắt làm hai miền, với hai chế độ chính trị, xã hội khác nhau: miền Bắc đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội; miền Nam tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, nhằm giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và tay sai, thống nhất nước nhà. Ở miền Nam, đế quốc Mỹ dựng lên bộ máy chính quyền độc tài phát xít Ngô Đình Diệm. Đồng thời, thông qua hệ thống cố vấn và viện trợ của Mỹ chúng đã tiến hành hàng loạt các thủ đoạn "tố cộng", "diệt cộng", ban hành Luật 10-59, ... nhằm đàn áp và tiêu diệt lực lượng cách mạng ở miền Nam. Đây là thời 15 kỳ mà cách mạng miền Nam gặp nhiều khó khăn và thách thức để chống lại kẻ thù hùng mạnh, tàn bạo, trong khi lực lượng cách mạng nhỏ yếu. Bởi theo hiệp định Giơnevơ thì cán bộ cách mạng và bộ đội nước ta phải tập kết ra miền Bắc. Đứng trước yêu cầu bức thiết của cách mạng, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã triệu tập Hội nghị lần thứ 15 (1/1959), thông qua nghị quyết về đường lối cách mạng miền Nam, đưa đến thắng lợi của phong trào Đồng khởi. Thắng lợi của cao trào Đồng khởi mùa Xuân 1960 đã giáng một đòn nặng nề vào chế độ Mỹ - Diệm. Nó mở ra một cục diện mới cho cách mạng miền Nam: từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công liên tục. Điều đó thể hiện tư duy sáng tạo, linh hoạt của Đảng trong việc xác định hình thức và phương pháp cách mạng. Đồng thời, cũng đặt ra vấn đề sau khởi nghĩa: làm thế nào bảo vệ được quyền làm chủ đã giành được, đấu tranh vũ trang có còn là vị trí hỗ trợ hay phải được đặt ngang hàng với đấu tranh chính trị? Như vậy, bắt đầu từ cuối năm 1959, đặc biệt là phong trào Đồng khởi, đã thể hiện tư duy về sự kết hợp chặt chẽ hơn giữa đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang trong đường lối lãnh đạo của Đảng. Với bản chất hiếu chiến, để thực hiện âm mưu bá chủ thế giới của mình, đế quốc Mỹ không dừng bước. Mỹ đã tiến hành mạnh mẽ hình thức thống trị điển hình của chủ nghĩa thực dân mới nhằm đối phó với cách mạng miền Nam bằng chiến lược "chiến tranh đặc biệt" với ba biện pháp chủ yếu: Một là, tăng cường lực lượng và khả năng cơ động của quân đội Sài Gòn trong các cuộc hành quân tiêu diệt lực lượng vũ trang giải phóng. Hai là, tiến hành quốc sách "ấp chiến lược" nhằm dồn dân trên quy mô toàn miền, cách ly lực lượng cách mạng với nhân dân. Ba là, củng cố chính quyền và các đô thị làm hậu cứ vững mạnh. Chiến lược "chiến tranh đặc biệt" là một hình thức đặc thù của chủ nghĩa thực dân mới, "dùng người Việt đánh người Việt". Trong đó, lực lượng quân sự 16 chủ yếu là quân đội Sài Gòn với vũ khí, phương tiện chiến tranh, tiền của Mỹ do cố vấn Mỹ chỉ huy. Mỹ và Diệm coi việc lập ấp chiến lược là "quốc sách" và là "xương sống" của chiến lược này. Do vậy, mục tiêu của chúng là lập 16 ngàn ấp chiến lược trong tổng số 17 ngàn ấp ở toàn miền Nam nhằm dồn 10 triệu dân vào các trại tập trung trá hình để thực hiện "tát nước bắt cá". Để thực hiện kế hoạch đó, bước sang năm 1961, quân đội Sài Gòn tăng lên 17 vạn người, 5 vạn bảo an dân vệ và 85 đại đội đặc biệt. Đến giữa năm 1961, Mỹ đã gửi sang miền Nam Việt Nam 1.000 chuyên gia quân sự tăng cường cho phái đoàn MAAG (phái đoàn cố vấn và viện trợ quân sự). Chúng dùng nhiều thủ đoạn, mở hàng chục cuộc hành quân càn quét, dùng cả máy bay trực thăng, xe thiết giáp để gom quân, ... nhằm tiêu diệt bộ đội, du kích và cán bộ ta. Lúc đầu, Mỹ dự định thực hiện chiến lược này bằng kế hoạch Xtalay-Taylor với mục tiêu bình định miền Nam trong vòng 18 tháng. Nhưng Mỹ đã không thành công và phải giảm mục tiêu xuống bằng một kế hoạch mới – kế hoạch Giôn-xơn – Mác-na-ma-ra bình định miền Nam có trọng điểm trong hai năm (1964 – 1965). Đối với miền Bắc, Mỹ tăng cường cuộc chiến tranh bí mật, tung hơn 100 toán biệt kích, gián điệp ra các tỉnh bằng đường không, đường biển hoạt động móc nối với bọn phản động nội địa, phá hoại công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta. Mỹ còn dùng máy bay U2 trinh sát vùng biên giới Việt - Lào, chuẩn bị, nếu có điều kiện, thì leo thang chiến tranh chống phá cách mạng Lào và miền Bắc Việt Nam. Với âm mưu trên, "chiến tranh đặc biệt" thực sự là một chiến lược nguy hiểm mà Mỹ triển khai ở miền Nam Việt Nam. Tuy nhiên, nó được triển khai trong thế bị động để đối phó với cách mạng miền Nam đang chuyển sang thế tiến công. Vì vậy, Mỹ chưa thấy được hết những khó khăn, những điểm yếu cơ bản không thể khắc phục được trong chiến lược. 17 Trong bối cảnh mới của lịch sử, trên cơ sở phân tích tình hình trong nước, với tinh thần độc lập tự chủ; học hỏi và thăm dò, nắm chắc dư luận thế giới, Đảng Lao động Việt Nam đã kịp thời đưa ra các chủ trương đúng đắn thể hiện quyết tâm chống Mỹ, cứu nước của dân tộc Việt Nam, trong đó có vấn đề đặc biệt quan trọng là đấu tranh chính trị với đấu tranh quân sự 1.1.2. Chủ trương của Đảng kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh quân sự Nhìn lại con đường lịch sử đã qua, trong mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước, dân tộc ta đã phải chiến đấu chống ngoại xâm gần như thường xuyên và đã giành những chiến thắng oanh liệt. Đó là một nét nổi bật của lịch sử Việt Nam, là thử thách gay go nhất nhưng cũng là niềm tự hào lớn nhất. Từ năm 1930 đến nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Một trong những nguyên nhân làm nên thắng lợi vẻ vang của dân tộc, đó là Đảng đã lãnh đạo thực hiện khởi nghĩa vũ trang của toàn dân và chiến tranh nhân dân. Đây chính là phương pháp cách mạng mang tính sáng tạo trong chỉ đạo của Đảng. Bởi chiến tranh là một cuộc thử thách toàn diện đối với sức mạnh vật chất và tinh thần của một nước. Nếu không dùng toàn lực của nhân dân về đủ mọi mặt để đối phó, thì không thể nào thắng lợi được kẻ thù. Chủ trương kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh quân sự của Đảng trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là sự kế thừa và phát huy kinh nghiệm của cha ông trong chống giặc ngoại xâm. Trong đó, Đảng đã kết hợp chặt chẽ đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang để giành thế chủ động và đánh bại các chiến lược chiến tranh của các nước đế quốc hùng mạnh trên thế giới. Đấu tranh chính trị là cuộc đấu tranh của đông đảo quần chúng nhân dân không vũ trang (bãi công, biểu tình, mít tinh, ...), nhằm chống lại chính quyền nhà nước để đạt những mục đích nhất định. Nó diễn ra với các hình thức khác 18 nhau như hợp pháp, nửa hợp pháp, công khai, nửa công khai. Các hình thức này đã được Đảng ta sử dụng triệt để trong lãnh đạo nhân dân tiến hành đấu tranh đòi các quyền dân sinh dân chủ những năm 1936 - 1939. Đấu tranh chính trị làm cho quần chúng nhân dân hiểu rõ âm mưu của kẻ thù, đường lối kháng chiến của Đảng. Trên cơ sở đó, kêu gọi nhân dân đoàn kết một lòng đấu tranh chống thực dân, đế quốc. Đấu tranh chính trị còn góp phần quan trọng xây dựng hậu phương cách mạng, căn cứ địa cách mạng. Đấu tranh quân sự là hình thức đấu tranh có sự kết hợp giữa lực lượng vũ trang và vũ khí nhằm tiến hành chiến tranh. Trong khi tiến hành chiến tranh, đấu tranh quân sự được coi là lĩnh vực chủ yếu và được kết hợp chặt chẽ với các hình thức đấu tranh khác (đấu tranh chính trị, binh vận, kinh tế, văn hóa, ngoại giao), nhằm tạo nên sức mạnh tổng lực để chiến thắng hoàn toàn. Đấu tranh chính trị và đấu tranh quân sự là hai hình thức cơ bản của bạo lực cách mạng, luôn có mối quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau, và giữ những vai trò nhất định cụ thể. Do đó, trong quá trình kết hợp, đòi hỏi phải xuất phát từ thế và lực, cũng như nhiệm vụ của cách mạng để xác định hình thức đấu tranh cho phù hợp. Nếu chưa có đủ điều kiện đấu tranh quân sự, hoặc đang phải thực hiện những điều cam kết thì đấu tranh chính trị giữ vai trò chủ yếu. Khi so sánh tương quan lực lượng cách mạng có lợi, bắt buộc phải dùng bạo lực cách mạng để đập tan bạo lực phản cách mạng, thì đấu tranh quân sự giữ vai trò chủ yếu và làm chỗ dựa cho đấu tranh chính trị của quần chúng. Đấu tranh quân sự nhằm thực hiện mục đích chính trị nhất định, bởi lẽ chiến tranh là sự kế tục của chính trị. Đấu tranh quân sự là hình thức đặc trưng của chiến tranh, giữ vai trò quyết định trực tiếp đến việc tiêu diệt sinh lực địch và phương tiện chiến tranh của đối phương, giữ đất, giành dân. Đồng thời, nó luôn hỗ trợ quần chúng đấu tranh chính trị và nổi dậy giành chính quyền. Đấu tranh chính trị cũng luôn góp phần quyết định vào thắng lợi của cách mạng. 19 Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng đã kết hợp khéo léo, linh hoạt đấu tranh chính trị và đấu tranh quân sự. Trong quá trình lãnh đạo nhân dân miền Nam đánh bại chiến lược "chiến tranh đặc biệt" của đế quốc Mỹ từ năm 1961 đến 1965, căn cứ vào tình hình cụ thể, trước những âm mưu của Mỹ,Đảng ta đã tiến hành tổ chức các hội nghị, qua đó chủ trương kết hợp đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang từng bước được Đảng vạch ra và không ngừng được bổ sung, hoàn chỉnh: * Một là, sự thay đổi tư duy về kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh quân sự ở miền Nam Việt Nam trong giai đoạn mới. Có thể nói, cách mạng là bước phát triển cao nhất của cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc thường được thực hiện bằng bạo lực cách mạng nhằm giải quyết vấn đề chính quyền. Bạo lực có thể được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Đã có những nhận thức hạn hẹp chỉ quy bạo lực vào hình thức vũ trang, nói cách khác, chỉ có hình thức đấu tranh bằng vũ trang mới được coi là bạo lực. Thực tiễn cách mạng và chiến tranh cách mạng nước ta đã chứng tỏ sự phát triển về quan điểm bạo lực ở chỗ “bạo lực cách mạng phải dựa vào hai lực lượng: lực lượng chính trị và lực lượng quân sự và bao gồm hai loại hình đấu tranh: đấu tranh vũ trang, đấu tranh chính trị và sự kết hợp giữa hai loại hình ấy” [4, tr.249]. Trải qua 30 năm chiến tranh cứu nước và giữ nước của nhân dân ta, dưới ngọn cờ lãnh đạo của Đảng đã chứng minh rằng, muốn giành được thắng lợi cho cách mạng thì ngoài lực lượng chính trị ra thì cần phải có lực lượng vũ trang và cần phải khéo léo sử dụng kết hợp đấu tranh vũ trang với đấu tranh chính trị trong từng thời kỳ cụ thể. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 của Việt Nam là một cuộc cách mạng có ý nghĩa sâu sắc cả về mặt chính trị và phương pháp cách mạng. Kết quả của cuộc cách mạng là minh chứng, khẳng định sự đúng đắn của chủ trương lấy cả hai giai cấp công nhân và nông dân làm quân chủ lực, tập hợp các lực lượng yêu nước, dân chủ của toàn dân tộc, kết hợp đấu 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan