ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
NGUYỄN THỊ LAN
ĐẢNG BỘ TỈNH PHÚ THỌ LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC XÃ
HỘI HÓA GIÁO DỤC (1997 – 2006)
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Mã số: 60 22 56
Người hướng dẫn: PGS.TS. Trình Mưu
HÀ NỘI - 2007
Luận văn thạc sỹ
Nguyễn Thị Lan
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................................................3
NỘI DUNG................................................................................................................................. 14
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ TỈNH PHÚ THỌ VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ................................................ 14
VỀ XÃ HỘI HOÁ GIÁO DỤC............................................................................................................ 14
1.1. Vài nét về đặc điểm chung của tỉnh Phú Thọ . .................................................................... 14
1.1.1. Địa lý tự nhiên, chính trị, nhân văn và kinh tế xã hội. .................................................. 14
1.1.2. Sơ lược về giáo dục Phú Thọ trước năm 1997. ............................................................ 17
1.2. Một số vấn đề về xã hội hoá giáo dục. ............................................................................... 19
1.2.1. Bản chất và nội dung của công tác xã hội hoá giáo dục................................................ 19
1.2.2 Một số khái niệm liên quan đến công tác xã hội hoá giáo dục. ..................................... 26
1.2.3. Mục đích ý nghĩa thực hiện xã hội hoá giáo dục. ......................................................... 31
CHƯƠNG 2: ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN TỈNH PHÚ THỌ TỔ CHỨC THỰC HIỆN CÔNG TÁC XÃ HỘI HOÁ
GIÁO DỤC (1997 - 2006) ............................................................................................................... 35
2.1 Quan điểm của Đảng, Nhà nước và Tỉnh uỷ tỉnh Phú Thọ về công tác xã hội hoá giáo dục. ....... 35
2.1.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về công tác xã hội hoá giáo dục. ........................................ 35
2.1.2. Quan điểm và định hướng chung của Đảng bộ tỉnh Phú Thọ. .......................................... 42
2.2. Đảng bộ và nhân dân tỉnh Phú Thọ tổ chức thực hiện công tác xã hội hoá giáo dục từ năm
1997 đến năm 2006. ................................................................................................................ 43
2.2.1. Quá trình triển khai chỉ đạo tổ chức thực hiện và kết quả trong công tác XHHGD của
Đảng bộ và nhân nhân tỉnh Phú Thọ (1997 - 2006). .............................................................. 43
2.2.2. Hiệu quả của công tác xã hội hoá giáo dục ở Phú Thọ. ................................................ 81
CHƯƠNG 3: ĐÁNH GIÁ TỔNG QUÁT VÀ NHỮNG KINH NGHIỆM RÚT RA TỪ THỰC TIỄN CÔNG TÁC
XÃ HỘI HOÁ GIÁO DỤC ................................................................................................................ 90
CỦA TỈNH PHÚ THỌ...................................................................................................................... 90
3.1. Đánh giá tổng quát và những vấn đề đặt ra cho xã hội hoá giáo dục tỉnh Phú Thọ. ............ 91
3.2. Một vài kiến nghị và kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn công tác xã hội hoá giáo dục tỉnh Phú
Thọ (1997 - 2006). .................................................................................................................... 97
3.2.1. Một số đề xuất và kiến nghị trong công tác XHHGD tỉnh Phú Thọ. ............................... 97
1
Luận văn thạc sỹ
Nguyễn Thị Lan
Với Bộ giáo dục và đào tạo ................................................................................................ 100
3.2.2 Một số kinh nghiệm và mục tiêu, định hướng xã hội hoá giáo dục Phú Thọ đến năm
2010. .................................................................................................................................. 102
KẾT LUẬN ................................................................................................................................... 115
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................................. 120
2
Luận văn thạc sỹ
Nguyễn Thị Lan
MỞ ĐẦU
I LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Giáo dục có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển
của mỗi quốc gia cũng như toàn thể nhân loại. Lịch sử phát triển xã hội ngày
càng khẳng định vai trò, tác dụng của giáo dục đối với kinh tế - xã hội. Giáo
dục là điều kiện cơ bản và là động lực quan trọng bậc nhất thúc đẩy sản xuất,
thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Ngày nay chúng ta đang bước vào thời
đại của công nghệ thông tin, toàn cầu hoá, kinh tế thị trường. Trong bối cảnh
đó vấn đề giáo dục, văn hoá, con người nổi lên hàng đầu. Ở nhiều nước vấn
đề này đã trở thành vấn đề trung tâm của chiến lược phát triển đất nước.
Trong những năm đầu của thời kỳ đổi mới, trước những khó khăn của
sự chuyển đổi cơ chế nền kinh tế, để ổn định và duy trì ngành học Bộ GD ĐT đã đổi mới cách chỉ đạo, quản lý và đẩy mạnh XHHGD. Đảng đã huy
động nhiều nguồn lực để tập trung chỉ đạo việc xây dựng nhiều loại chương
trình, đẩy mạnh công tác đào tạo giáo viên, xây dựng hệ thống trường trọng
điểm chất lượng cao, nhằm đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục cho các
bậc cha mẹ và cả cộng đồng. Chủ trương xã hội hoá dần được hình thành.
Quan điểm xã hội hoá giáo dục được thể hiện trong nhiều Văn kiện, Nghị
quyết của Đảng ta. Trong suốt quá trình lãnh đạo đấu tranh cách mạng, Đảng
luôn coi trọng việc huy động lực lượng toàn dân toàn xã hội vào việc thực
hiện nhiệm vụ chính trị như một đường lối vận động quần chúng, tập hợp lực
lượng dưới ngọn cờ Độc lập dân tộc và Chủ nghĩa xã hội. Tuỳ từng thời kỳ
cách mạng, tư tưởng về xã hội hoá giáo dục được thể hiện trong những khẩu
hiệu khác nhau như; '' Toàn dân chăm lo đến giáo dục đào tạo..", "Nhà nước
và nhân dân cùng làm " trong giai đoạn đất nước gặp những khó khăn nghiêm
trọng về kinh tế - xã hội. Đến Đại hội lần thứ VIII (6/1996) thì "Xã hội hoá"
trở thành một trong những quan điểm để hoạch định hệ thống các chính sách
3
Luận văn thạc sỹ
Nguyễn Thị Lan
xã hội: "Các vấn đề chính sách xã hội đều giải quyết theo tinh thần xã hội
hoá. Nhà nước giữ vai trò nòng cốt, đồng thời động viên mỗi người dân, các
doanh nghiệp các tổ chức trong xã hội, các cá nhân và các tổ chức nước
ngoài cùng tham gia giải quyết các vấn đề xã hội" [5.114].
Như vậy, sau nhiều năm đổi mới đất nước, thuật ngữ "Xã hội hoá"
được dùng chính thức trong Văn kiện quan trọng của Đảng. Nó chứa đựng
một tư tưởng chiến lược, một quan điểm chỉ đạo của Đảng đối với sự nghiệp
phát triển đất nước trong giai đoạn mới - giai đoạn đẩy mạnh nền kinh tế hàng
hoá theo cơ chế thị trường có sự định hướng xã hội chủ nghĩa và từng bước
tiến hành công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
Kinh nghiệm cho thấy để có thể phát triển ‘đi tắt, đón đầu", phải có con
người. Yếu tố quan trọng nhất của sự phát triển đó là những con người có tri
thức, có năng lực, có trình độ khoa học công nghệ để làm chủ được xã hội. Vì
vậy hơn bao giờ hết, trước mắt cũng như trong tương lai, vấn đề xã hội hoá
giáo dục luôn giữ một vai trò vô cùng quan trọng và giáo dục là "Quốc sách
hàng đầu. Đầu tư cho giáo dục được coi như đầu tư cho sự phát triển. Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: ‘Vì lợi ích mười năm phải trồng cây, vì lợi ích
trăm năm phải trồng người.
Trong bối cảnh chung của đất nước Đảng bộ tỉnh Phú Thọ lãnh đạo
công tác xã hội hoá giáo dục trong những năm 1997 - 2006 đã phát triển mạnh
mẽ và đạt được những kết quả bước đầu. Quy mô giáo dục tiếp tục được mở
rộng và phát triển một cách hợp lý. Chất lượng giáo dục toàn diện có chuyển
biến tích cực, chất lượng học sinh giỏi ổn định và phát triển. Việc triển khai
thực hiện dạy và học theo chương trình sách giáo khoa mới đạt kết quả tốt. Hệ
thống trường chuẩn quốc gia ngày một tăng và phát huy hiệu quả. Kết quả
phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi và phổ cập THCS được duy trì và
nâng cao chất lượng, hoạt động hướng nghiệp và dạy nghề phổ thông đạt hiệu
4
Luận văn thạc sỹ
Nguyễn Thị Lan
quả cao. Công tác nghiên cứu khoa học và chăm lo các điều kiện đội ngũ, cơ
sở vật chất trường có nhiều tiến bộ. Công tác quản lý giáo dục tiếp tục được
đổi mới. Kỷ cương nề nếp, học đường được giữ vững. Phong trào thi đua
"Dạy tốt - học tốt" trong các nhà trường được phát triển sâu rộng và đạt hiệu
quả thiết thực.
Tuy nhiên do số lượng học sinh tăng nhanh khiến cho các trường công
lập không đáp ứng được nhu cầu. Với điều kiện kinh tế - xã hội của tỉnh miền
núi nghèo nên cơ sở vật chất trường lớp, các trang thiết bị phục vụ cho dạy và
học chưa đáp ứng được yêu cầu tăng quy mô và chất lượng nguồn nhân lực
phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Trong các trường, đội ngũ cán bộ giáo
viên còn thiếu về số lượng, không đồng bộ về cơ cấu và trình độ đào tạo,
chậm đổi mới về phương pháp. Chế độ chính sách cho giáo viên mặc dù đã có
những cải tiến nhưng vẫn còn nhiều bất cập. Đời sống của giáo viên còn khó
khăn. Công tác quản lý cán bộ bộc lộ không ít những yếu kém.
Sau 60 năm xây dựng và phát triển cùng với sự lớn mạnh của nền giáo
dục cách mạng, giáo dục Phú Thọ đã phát triển mạnh mẽ và đạt được những
thành tựu quan trọng trên cả 3 mặt: Quy mô, chất lượng và hiệu quả. Sự lớn
mạnh của giáo dục trên quê hương đất Tổ giàu truyền thống cách mạng đã có
những đóng góp to lớn và phục vụ đắc lực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc. Mỗi giai đoạn có đặc điểm lịch sử riêng, khó khăn riêng song dưới
sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng, chính quyền các cấp, sự ủng hộ của toàn xã
hội, sự cố gắng hết mình của các thế hệ cán bộ quản lý và đội ngũ giáo viên,
giáo dục Phú Thọ vẫn không ngừng phát triển về mọi mặt.
Để giáo dục Phú Thọ từng bước tháo gỡ được những khó khăn tiếp tục
vươn lên đáp ứng được yêu cầu nâng cao chất lượng, nguồn nhân lực phục vụ
cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, là câu hỏi lớn đặt ra
cho các cấp lãnh đạo, các ngành quản lý giáo dục và nhân dân Tỉnh Phú Thọ.
5
Luận văn thạc sỹ
Nguyễn Thị Lan
Với cương vị là một giáo viên trường Trung học phổ thông, điều mà bản thân
tôi luôn trăn trở trong thời gian qua, đó là làm thế nào để nâng cao chất lượng
giáo dục trong nhà trường, thu hút toàn dân tham gia làm giáo dục, nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá
hiện đại hoá?. Qua hai năm học tập, nghiên cứu chương trình cao học, với
những kiến thức lý luận đã nhận thức được cùng với vốn sống thực tiễn, tôi
mạnh dạn chọn đề tài "Đảng bộ tỉnh Phú Thọ lãnh đạo công tác xã hội hoá
giáo dục (1997 - 2006)", với mong muốn góp phần nhỏ bé của mình vào việc
triển khai thực hiện chủ trương xã hội hoá giáo dục của Đảng.
II . TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU.
Nhìn từ bản chất vấn đề xã hội hoá giáo dục, không phải là vấn đề hoàn
toàn mới. Đó là bước phát triển của một chủ trương giáo dục được thực thi
trong nhiều năm qua. Giáo dục là sự nghiệp của quần chúng. Tư tưởng đó đã
được thể hiện trong công tác giáo dục và trở thành quan điểm xã hội hoá,
trong truyền thống giáo dục Việt Nam. Các phong trào tiêu diệt giặc dốt trong
kháng chiến chống Pháp, phong trào hai tốt với điển hình Bắc Lý trong kháng
chiến chống Mỹ. Sự quan tâm của Đảng, Nhà nước chính là sự tiếp tục đẩy
mạnh sự nghiệp giáo dục cho dù điều kiện rất khó khăn.
Đất nước được hoàn toàn thống nhất, có điều kiện thuận lợi hơn để phát
triển sự nghiệp giáo dục. Ở giai đoạn này giáo dục Việt nam cũng đã đạt được
một số kết quả nhất định. Tuy nhiên, trong một thời gian dài, chính sách "Nhà
nước hoá giáo dục" làm cho ngành giáo dục rơi vào thế cô độc, không thu hút
được các nguồn lực của toàn xã hội. Do đó, cơ sở vật chất của giáo dục xuống
cấp và lạc hậu, động lực của người dạy, người học giảm sút, sự phát triển giáo
dục cả về chất lượng và số lượng đều không đáp ứng được yêu cầu phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước.
Từ Đại hội Đảng Cộng sản lần thứ VI (1986), với chủ trương đổi mới
của Đảng đất nước chuyển sang thời kỳ mới, trong đó giáo dục cũng bước
6
Luận văn thạc sỹ
Nguyễn Thị Lan
sang một giai đoạn phát triển thuận lợi. Đại hội VII, trên các Văn kiện của
Đảng và Nhà nước, các tài liệu khoa học xã hội, trên sách báo chúng ta
thường gặp thuật ngữ "Xã hội hoá" đối với các lĩnh vực hoạt động như: Y tế,
thể dục thể thao, văn hoá, giáo dục,... có thể dẫn ra một số sự kiện và Nghị
quyết quan trọng đề cập đến xã hội hoá giáo dục:
- Tháng 6/1996 ĐHĐBTQ lần thứ VIII Đảng Cộng sản Việt Nam đã
khẳng định "Xã hội hoá" là một quan điểm để hoạch định hệ thống các chính
sách xã hội.
- Ngày 21/8/1997 Chính phủ ra Nghị quyết 90/CP về "Hướng dẫn về
chủ trương xã hội hoá các hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá".
- Ngày 11/12/1998 Chủ tịch nước công bố Luật Giáo dục đã được Quốc
Hội nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá X thông qua, ở chương
I những điều quy định chung, điều 11 ghi rõ: Xã hội hoá sự nghiệp giáo dục.
- Ngày 19/8/1999 Chính phủ ban hành Nghị định số73/1999/NĐ-CP về
"Chính sách khuyến khích xã hội hoá đối với các hoạt động trong lĩnh vực
giáo dục, y tế, văn hoá, thể thao".
- Tháng 4/2001 ĐHĐBTQ lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ
rõ: Giáo dục & đào tạo phải thực hiện "chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá".
- Ngày 4/10/2004 Nghị quyết số 12/2004/NĐ - CP phiên họp Chính
Phủ thường kỳ tháng 9/2004 đã đánh giá tình hình thực hiện NQ 90/CP và
NĐ 73/1999/NĐ - CP.
- Ngày 18/4/2005 chính Phủ ban hành NQ 05/2005/NQ - CP về đẩy
mạnh xã hội hoá các hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá, thể dục thể thao.
Cũng trong thời kỳ đổi mới này, nhiều nhà khoa học, nhà quản lý giáo
dục đã bàn luận về xã hội hoá giáo dục. Đặc biệt là GS.TS. Phạm Minh Hạc
nguyên Viện trưởng viện khoa học giáo dục đã viết nhiều tài liệu về xã hội
hoá giáo dục, nhiều bài phát biểu chỉ đạo phong trào xã hội hoá giáo dục.
Trong cuốn "Xã hội hoá công tác giáo dục" xuất bản năm 1997 do ông làm
7
Luận văn thạc sỹ
Nguyễn Thị Lan
tổng chủ biên đã khẳng định "Xã hội hoá công tác giáo dục là một tư tưởng
chiến lược một bộ phận của đường lối giáo dục, một con đường phát triển
giáo dục nước ta" {32.16]. Trong cuốn "Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng
cửa của thế kỷ XXI" ông Phạm Minh Hạc một lần nữa khẳng định: "Sự nghiệp
giáo dục không phải chỉ là của Nhà nước mà là của toàn xã hội, mọi người
cùng làm giáo dục, Nhà nước và xã hội, Trung ương và địa phương cùng làm
giáo dục, tạo nên một cao trào học tập trong toàn dân",[31.330].
Trong cuốn "Xã hội hoá công tác giáo dục" ông Phạm Tất Dong
nguyên Phó trưởng ban khoa giáo Trung ương có nói đến nội hàm khái niệm
xã hội hoá công tác giáo dục và coi xã hội hoá là một khái niệm vận động
trong thực tiễn đấu tranh cách mạng ở Việt Nam. Qua mỗi giai đoạn khái
niệm đó đã được phát triển thêm, nội hàm phong phú hơn. Trong lời giới
thiệu cuốn sách "Những nhân tố mới về giáo dục trong công cuộc đổi mới",
ông Phạm Tất Dong đã nhấn mạnh "Phát triển giáo dục theo tinh thần xã hội
hoá",[ 58.12]. Ông đề cao việc huy động toàn dân vào sự nghiệp giáo dục, coi
đó là tư tưởng chiến lược của Đảng "Tư tưởng đó được đúc kết lại không chỉ
là một bài học kinh nghiệm tầm cỡ lịch sử, mà trở thành một nguyên lý của
cách mạng Việt Nam", [58]. Tư tưởng "Xã hội hoá" giáo dục được thừa nhận
như một nhân tố mới trong sự phát triển giáo dục hiện nay. Từ những nhân tố
mới của sự nghiệp giáo dục, cho thấy quan điểm "Xã hội hoá" sẽ tạo ra những
điều kiện để sự nghiệp giáo dục không ngừng phát triển.
Viện Khoa học Giáo dục đã triển khai nhiều năm hệ thống đề tài về xã
hội hoá giáo dục, tổng kết kinh nghiệm, phát triển lý luận, đề xuất cơ chế xã
hội hoá giáo dục. Năm 1999, cuốn sách "Xã hội hoá công tác giáo dục - nhận
thức và hành động" của Viện Khoa học Giáo dục do tập thể tác giả Bùi Gia
Thịnh, Võ Tấn Quang, Nguyễn Thanh Bình, là một bước hoàn thiện về nhận
thức và hướng dẫn thực tiễn. Bộ Giáo dục & Đào tạo cũng đã có "Đề án xã
hội hoá Giáo dục & đào tạo" đánh giá thực trạng và đưa ra những biện pháp
8
Luận văn thạc sỹ
Nguyễn Thị Lan
xã hội hoá giáo dục ở tầm vĩ mô, nhằm tạo ra những chuyển biến cơ bản trong
Giáo dục & đào tạo, chuẩn bị tốt nguồn nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá trong hai chục năm đầu của thế kỷ XXI.
Nhân kỷ niệm 40 năm thành lập Viện Khoa học Giáo dục - năm 2001,
từ góc độ giáo dục học, cuốn sách "Xã hội hoá giáo dục" do Võ Tấn Quang
chủ biên cùng tập thể tác giả Trần Kiểm, Nguyễn Thanh Bình, Lê Đức Phúc,
Thái Duy Tuyên, Nguyễn văn Đản, Đào Duy Ngân đã khẳng định: Xã hội hoá
công tác giáo dục - một phương thức thực sự giáo dục nhằm xã hội hoá cá
nhân. Lần đầu tiên cuốn sách với ý nghĩa một chuyên khảo đã đề cập đến đặc
trưng của xã hội hoá giáo dục ở các cấp học, bậc học và ở địa bàn nông thôn,
vấn đề quản lý Nhà nước trong việc thực hiện xã hội hoá để có định hướng
đúng đắn hoạt động xã hội hoá giáo dục ở nhà trường và địa phương.
Bàn về xã hội hoá giáo dục còn nhiều tài liệu, bài viết của các tác giả:
Hà Nhật Thăng, Lê Khanh, Nguyễn Nghĩa Dân, Hồ Hương, Nguyễn Thanh
Phong, Mai Hắc Lương, Vũ Văn Tảo ...
Bên cạnh những công trình nghiên cứu về xã hội hoá giáo dục, còn có
một số bài phát biểu của các đồng chí lãnh đạo Trung ương và địa phương về
vấn đề này như:
Bài phát biểu khai mạc Hội nghị đánh giá 10 năm thực hiện XHHGD
bằng con đường Đại hội giáo dục các cấp của PGS.TS. Nguyễn Tấn Phát Uỷ
viên Ban chấp hành trung ương Đảng - Thứ trưởng thường trực Bộ Giáo
dục& Đào tạo. Trong bài phát biểu PGS.TS đã cho chúng ta thấy quan điểm
của Đảng về vai trò quan trọng của công tác XHHGD thông qua các Nghị
quyết TW 4 (khoá VII), Nghị quyết TW 2 (khoá VIII), thông tư Liên tịch số
35/TT - LT và PGS.TS đã nêu ra các nội dung của công tác XHHGD.
Báo cáo đánh giá 10 năm thực hiện XHHGD thông qua tổ chức Đại hội
giáo dục các cấp của PGS.TS Lê Hồng Sơn - Chủ tịch Công đoàn Giáo dục
Việt Nam, đã cho chúng ta thấy: Quá trình hình thành chủ trương tổ chức Đại
9
Luận văn thạc sỹ
Nguyễn Thị Lan
hội giáo dục các cấp, quá trình triển khai, chỉ đạo, tổ chức thực hiện và đánh
giá những kết quả đạt được đồng thời đề ra phương hướng tổ chức ĐHGD các
cấp trong thời gian tới.
Tiến sĩ Đặng Ngọc Chiến - Phó chủ tịch tổng liên đoàn Lao động Việt
Nam trong bài phát biểu tại Tổng kết 10 năm thực hiện xã hội hoá giáo dục
một lần nữa khẳng định giá trị thiết thực trong công tác XHHGD thông qua
việc tổ chức Đại hội giáo dục các cấp và cho thấy đây là một động lực để thúc
đẩy công tác xã hội hoá giáo dục phát triển.
Đồng chí Vũ Oanh - Chủ tịch Hội khuyến học Việt Nam - nguyên Uỷ
viên Bộ Chính trị Ban chấp hành TW Đảng cộng sản Việt Nam, đã nhấn
mạnh vai trò của Hội Khuyến học trong công tác XHHGD.
Để làm sáng tỏ thêm vấn đề xã hội hoá giáo dục, thiết thực phục vụ cho
nhiệm vụ chuyên môn của bản thân tôi muốn vận dụng những kiến thức học
được và những kinh nghiệm thực tiễn của mình để nghiên cứu đề tài "Đảng
bộ tỉnh Phú Thọ lãnh đạo công tác xã hội hoá giáo dục (1997 - 2006)". Đây
là một đề tài nhỏ chưa được đề cập trong một luận văn, luận án nào đặc biệt
từ góc độ công tác xã hội hoá giáo dục của tỉnh Phú Thọ, trong mã ngành
Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong quá trình triển khai thực hiện làm đề
tài, tôi luôn được các cơ quan lãnh đạo của tỉnh như: Văn phòng Tỉnh Uỷ Phú
Thọ, Uỷ ban nhân dân tỉnh Phú Thọ, Sở Giáo dục&Đào tạo tỉnh Phú Thọ và
một số ban ngành trong tỉnh giúp đỡ để hoàn thành luận án này.
III. MỤC ĐÍCH, NHIỆM VỤ CỦA LUẬN VĂN.
1.Mục đích nghiên cứu.
- Làm sáng tỏ bản chất về xã hội hoá giáo dục trong điều kiện phát triển
của Phú Thọ. Trên cơ sở đó thấy được vai trò lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Phú
Thọ trong công tác xã hội hoá giáo dục.
- Trình bày quá trình Đảng bộ tỉnh Phú Thọ lãnh đạo công tác XHHGD
trong những năm đầu tái lập tỉnh, qua đó khẳng định những mặt được và
10
Luận văn thạc sỹ
Nguyễn Thị Lan
những hạn chế trong GD&ĐT của tỉnh, góp phần khẳng định vai trò của công
tác XHHGD trong giai đoạn hiện nay.
- Thông qua quá trình nghiên cứu đề tài xã hội hoá giáo dục của tỉnh
bước đầu rút ra những kinh nghiệm trong công tác XHHGD của tỉnh hiện nay,
góp tiếng nói cho Đảng bộ trong qúa trình thực hiện quan điểm xã hội hoá
giáo dục trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
- Kết quả luận văn làm tư liệu cho bản thân trong quá trình thực hiện
nhiệm vụ giáo dục trong nhà trường và giúp cho các đồng nghiệp tham khảo.
2. Nhiệm vụ nghiên cứu.
- Trình bày quan điểm của Đảng, Nhà nước ta và của Đảng bộ tỉnh Phú
Thọ về công tác xã hội hoá giáo dục trong thời kỳ đổi mới.
- Nêu lên những quan điểm chỉ đạo và quá trình tổ chức thực hiện của
các cấp lãnh đạo tỉnh Phú Thọ trong công tác xã hội hoá giáo dục. Luận văn
khẳng định những kết quả đạt được trong công tác XHHGD trong những năm
tiến hành đổi mới, những hạn chế cần khắc phục, qua đó bước đầu đưa ra
những giải pháp cụ thể để hoàn thiện hơn nữa công tác xã hội hoá giáo dục
nhằm đáp ứng nhu cầu xã hội đã và đang đặt ra.
- Luận văn góp thêm một ý kiến đối với các nhà lãnh đạo tỉnh Phú
Thọ, các nhà quản lý giáo dục của tỉnh, và các ban ngành thấy rõ vai trò,
những thuận lợi, khó khăn của địa phương trong quá trình thực hiện công tác
xã hội hoá giáo dục, giúp cho Đảng bộ tỉnh có những quyết sách đúng đắn,
giải pháp phù hợp từng bước đưa giáo dục địa phương phát triển vững chắc.
- Đúc kết kinh nghiệm, đưa ra những đề xuất, kiến nghị, trong công tác
XHHGD đối với các cấp lãnh đạo tỉnh, để công tác XHHGD đạt kết quả cao
hơn nữa. Đồng thời đưa ra những định hướng về công tác xã hội hoá giáo dục
cho những năm tiếp theo.
IV. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU.
1. Đối tƣợng nghiên cứu.
11
Luận văn thạc sỹ
Nguyễn Thị Lan
- Quan điểm chỉ đạo công tác xã hội hoá giáo dục của Đảng bộ tỉnh Phú Thọ.
- Công tác XHHGD của ngành giáo dục tỉnh Phú Thọ.
- Việc thực hiện công tác XHHGD ở các trường trên địa bàn tỉnh Phú Thọ.
2. Phạm vi nghiên cứu:
- Về không gian: Đề tài được giới hạn trên địa bàn của tỉnh Phú Thọ.
- Về thời gian: Nghiên cứu sự nghiệp xã hội hoá giáo dục tỉnh Phú Thọ
từ khi tái lập tỉnh năm 1997 đến năm 2006.
Khảo sát các số liệu trong những năm 1997 - 2006 và định hướng phát
triển đến năm 2010.
V. CƠ SỞ LÝ LUẬN, PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ NGUỒN TÀI LIỆU.
1. Cơ sở lý luận.
- Phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mac -Lênin.
- Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo
dục và công tác XHHGD.
2. Phƣơng pháp nghiên cứu.
Có nhiều phương pháp nghiên cứu nhưng trong phạm vi đề tài này,
chúng tôi chỉ xin được đề cập một số biện pháp cơ bản sau:
- Phương pháp nghiên cứu lý luận về đường lối, chủ trương và chính
sách của Đảng và Nhà nước về GD&ĐT về XHHGD. Các văn bản, chỉ thị,
Nghị quyết của tỉnh uỷ, HĐND, UBND, báo cáo tổng kết từ 1997- 2006.
- Phương pháp nghiên cứu: sử dụng phương pháp điều tra, điều tra một
số đối tượng thuộc các lực lượng tham gia vào hoạt động XHHGD: cán bộ
quảnlý các cấp và cán bộ giáo viên các trường ở địa phương.
- Ngoài ra còn tiến hành quan sát, tham dự hội thảo, tổng kết công tác
XHHGD, Đại hội giáo dục ở địa phương.
- Chú trọng nguyên tắc khách quan, toàn diện, thống nhất giữa lý luận
và thực tiễn. Kết hợp với nguồn tư liệu, các văn kiện có phương pháp so sánh
đối chiếu từ đó rút ra những nhận xét khoa học.
12
Luận văn thạc sỹ
Nguyễn Thị Lan
- Nghiên cứu các tài liệu liên quan đến chỉ đạo công tác XHHGD.
- Toạ đàm, trao đổi trực tiếp.
- Khảo sát thực tế việc thực hiện công tác XHHGD ở một số trường
trong hệ thống giáo dục của tỉnh.
3. Nguồn tài liệu nghiên cứu.
- Các văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam và của Tỉnh uỷ Phú Thọ.
- Các tài liệu về giáo dục - xã hội hoá giáo dục của các nhà nghiên cứu
trong và ngoài nước.
- Các tài liệu về giáo dục - xã hội hoá giáo dục Phú Thọ.
- Các tài liệu thu được qua những đợt đi nghiên cứu khảo sát thực tế và
so sánh với các tỉnh nhằm bổ xung các nguồn tư liệu đã được công bố để hiểu
đầy đủ hơn những nét tương đồng và khác biệt về xã hội hoá giáo dục ở Phú
Thọ và những nơi khác ở Việt Nam.
VI. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN.
Ngoài phần mở đầu, kết luận tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn
được kết cấu 3 chương, 6 tiết:
Chƣơng 1: Vài nét về tỉnh Phú Thọ và tình hình giáo dục của tỉnh
trong những năm 1997 - 2006.
Chƣơng 2: Đảng bộ và nhân dân tỉnh Phú Thọ tổ chức thực hiện
công tác xã hội hoá giáo dục (1997 - 2006).
Chƣơng 3: Đánh giá tổng quát và những kinh nghiệm rút ra từ
thực tiễn công tác xã hội hoá giáo dục của tỉnh Phú Thọ.
13
Luận văn thạc sỹ
Nguyễn Thị Lan
NOOI DUNG
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ TỈNH PHÚ THỌ VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ
VỀ XÃ HỘI HOÁ GIÁO DỤC
Ngày 6 tháng 11 năm 1996, Quốc Hội khoá IX kỳ họp thứ 10 đã thông
qua Nghị quyết "Về việc chia và điều chỉnh địa giới hành chính một số tỉnh",
trong đó có tỉnh Vĩnh Phú. Sau gần 30 năm hợp nhất, tỉnh Phú Thọ được tái
lập và chính thức đi vào hoạt động từ ngày 01 tháng 01 năm 1997, tại thời
điểm đó, tỉnh có 10 đơn vị hành chính (8 huyện, 1 thành phố, 1 thị xã), 270
xã, có trên 20 dân tộc cùng chung sống.
1.1. Vài nét về đặc điểm chung của tỉnh Phú Thọ .
Phú Thọ là đất tổ, trung tâm của quốc gia Văn Lang thời các vua dựng
nước cội nguồn của dân tộc Việt Nam. Đây là tỉnh miền núi phía Bắc Việt
Nam, có vị trí trung tâm của vùng, là cửa ngõ phía Tây Bắc của thủ đô Hà
Nội, cầu nối vùng Tây Bắc với thủ đô Hà Nội và các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ.
Phú Thọ cách thủ đô Hà Nội khoảng 80 km, cách sân bay quốc tế Nội Bài gần
50km, cách cửa khẩu Lào Cai và cửa khẩu Thanh Thuỷ - Hà Giang hơn
200km, cách cảng Hải Phòng gần 170km, là nơi hợp lưu của 3 con sông lớn:
Sông Hồng, sông Đà và sông Lô. Phú Thọ mang đặc trưng của cả ba vùng:
Đồng bằng, trung du và miền núi với diện tích tự nhiên 3.519,56km2 (xếp thứ
36/64 tỉnh, thành phố cả nước).
1.1.1. Địa lý tự nhiên, chính trị, nhân văn và kinh tế xã hội.
Địa hình của tỉnh bị chia cắt, có thể chia thành hai tiểu vùng chủ yếu:
Tiểu vùng núi cao phía Tây và phía Nam tỉnh: chủ yếu thuộc các
huyện Thanh Sơn, Yên Lập, phía Tây Cẩm Khê. Đây là vùng khó khăn trong
14
Luận văn thạc sỹ
Nguyễn Thị Lan
việc đi lại, giao lưu với các nơi khác. Tuy nhiên, ở đây còn có nhiều tiềm
năng phát triển nhất là ngành lâm nghiệp, khai thác khoáng sản.
Tiểu vùng đồi gò bát úp chia cắt nhiều xen kẽ đồng bằng ven các triền
sông Hồng, Hữu Lô, Tả Đáy và vùng đồng bằng tương đối tập trung phía
Nam Phong Châu. Đây là vùng được khai thác lâu đời, đồi bị sói mòn rửa trôi
nhiều, đồng ruộng lầy lụt, chua úng. Vùng này thuận lợi cho việc trồng các
loại nguyên liệu giấy, cây công nghiệp dài ngày như chè, cây ăn quả, phát
triển lương thực, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản.
Phú Thọ nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, có mùa đông lạnh.
Nhiệt độ trung bình năm khoảng 230C, lượng mưa trung bình năm khoảng
1600 - 1800 mm, độ ẩm trung bình năm khoảng 85 - 87%. Khí hậu phù hợp
cho sự sinh trưởng và phát triển cho một tập đoàn cây trồng vật nuôi phong
phú, nhất là cây dài ngày và gia súc. Phú Thọ có 12 huyện thành, thị trong đó
có 10 huyện, thành phố Việt Trì và thị xã Phú Thọ. Thành phố Việt Trì thành phố "Ngã ba sông" là thủ phủ của tỉnh, đồng thời là một trong năm
trung tâm lớn nhất của vùng miền núi phía Bắc. Dân số của cả tỉnh khoảng
1,3 triệu người, gồm 20 dân tộc anh em cùng chung sống. Mật độ trung bình
370 người/km2. Dân số Phú Thọ chiếm 1,7% dân số cả nước và là tỉnh đông
dân thứ hai vùng Đông Bắc Bắc bộ. Trình độ học vấn dân cư khá, bình quân
1000 dân có khoảng 232 người đi học. Năm 2004 có 784 nghìn lao động
(23% đã qua đào tạo nghề) chiếm 50% dân số của tỉnh, cao nhất vùng Đông
Bắc.
Địa chính trị: Phú Thọ là trung tâm của quốc gia Văn Lang thời cổ. Phú
Thọ có vị trí chính trị quan trọng trong khu vực, nơi đã từng là căn cứ của các
cơ quan Đảng, Nhà nước trong thời kỳ trước cách mạng tháng Tám và là "Thủ
đô kháng chiến" trong thời kỳ 9 năm kháng chiến chống thực Pháp xâm lược.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Phú Thọ là hậu phương vững
15
Luận văn thạc sỹ
Nguyễn Thị Lan
chắc, nơi tập kết vũ khí, khí tài chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống Pháp,
chống Mỹ, nơi chuẩn bị cơ sở cho các cơ quan của Đảng và Nhà nước khi
chiến tranh lan rộng. Đồng thời, Phú Thọ cũng là tỉnh cung cấp nhiều sức
người, sức của cho tiền tuyến lớn đánh thắng giặc Pháp và Mỹ xâm lược. Phú
Thọ là một vùng đất cổ giàu truyền thống lịch sử và văn hiến. Nhân dân Phú
Thọ cần cù, sáng tạo trong lao động sản xuất và có một nền văn hoá dân gian
phong phú. Trải qua các giai đoạn lịch sử, nhân dân Phú Thọ luôn kiên cường,
dũng cảm tham gia vào các cuộc kháng chiến, bảo vệ Tổ quốc và bền bỉ trong
xây dựng quê hương, đất nước do đó đã hun đúc nên những truyền thống quí
báu cho các thế hệ hôm nay và mai sau học tập.
Thời gian qua nền kinh tế Phú Thọ phát triển đúng hướng, phù hợp với
đường lối phát triển kinh tế nhiều thành phần. GDP tăng bình quân 8,4%/
năm, cao hơn mức bình quân cả nước. Tiểu thủ công nghiệp, nông lâm nghiệp
được chú trọng đẩy mạnh sản xuất, nhiều ngành nghề truyền thống được khôi
phục và phát triển. Các ngành dịch vụ có mức tăng trưởng khá, đạt 9,8%/
năm. Ngành tài chính, ngân hàng, du lịch và các ngành dịch vụ khác đều có
những khởi sắc góp phần đáng kể vào sự phát triển chung của nền kinh tế.
Các thành phần kinh tế được khuyến khích phát triển. Kinh tế quốc doanh,
nhất là trong công nghiệp xây dựng được sắp xếp lại và đầu tư tái sản xuất mở
rộng để giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Kinh tế ngoài quốc
doanh cũng được khuyến khích khơi dậy mọi tiềm năng, tạo nhiều cơ hội nên
đã phát triển ở hầu hết các ngành, lĩnh vực.Trong nhiều năm trở lại đây, tỉnh
đã có những chính sách thu hút vốn đầu tư của nước ngoài và giải quyết việc
làm cho 16.400 lao động, góp phần đáng kể vào nguồn thu ngân sách của tỉnh.
Do đặc điểm địa hình, mật độ dân cư giữa các khu vực trong tỉnh nhất
là đồng bào các dân tộc ít người, trình độ dân trí giữa các địa phương trong
16
Luận văn thạc sỹ
Nguyễn Thị Lan
tỉnh còn chênh lệch khá lớn, cơ sở vật chất hạ tầng của các địa phương nhất là
các trường học còn nghèo.
Những đặc điểm trên đây khiến cho Phú Thọ gặp phải những khó khăn
trong việc quy hoạch mạng lưới trường lớp, thực hiện mục tiêu phát triển giáo
dục nói chung và phổ cập giáo dục, chống mù chữ nói riêng.
Mặc dù vậy, Phú Thọ lại có những thuận lợi hết sức cơ bản:
Một là: các cấp uỷ Đảng và chính quyền từ tỉnh đến xã, phường luôn
luôn quan tâm, chỉ đạo ngày càng cụ thể sâu sắc và hiệu quả hơn đối với
ngành Giáo dục & Đào tạo.
Hai là: truyền thống hiếu học của nhân dân các địa phương trong tỉnh
đã trở thành động lực dồi dào, thúc đẩy phát triển nền giáo dục nhân dân phát
triển kể từ sau Cách mạng tháng Tám đến nay.
Ba là: kinh tế phát triển không ngừng, môi trường xã hội ổn định, lành
mạnh, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt cả về vật chất lẫn tinh thần, tạo
ra các nguồn lực cơ bản đảm bảo Giáo dục & Đào tạo phát triển lành mạnh.
1.1.2. Sơ lược về giáo dục Phú Thọ trước năm 1997.
Mặc dù còn nhiều khó khăn thời kỳ đầu của công cuộc đổi mới nhưng
sự nghiệp Giáo dục & Đào tạo tỉnh vẫn tiếp tục giữ được thế ổn định. Chất
lượng dạy và học ở hầu hết các trường được nâng lên. Hoạt động hướng
nghiệp bước đầu gắn với phát triển kinh tế, xã hội ở địa phương. Công tác xoá
nạn mù chữ được đẩy mạnh. Năm học 1989 - 1990, Sở Giáo dục & Đào tạo
đã tham mưu với UBND tỉnh đề án phổ cập giáo dục Tiểu học và tiến hành thí
điểm ở huyện Thanh Hoà.
Giai đoạn 1986 - 1996, Vĩnh Phú có 28 trường Trung học chuyên
nghiệp, Cao đẳng có đào tạo trung học chuyên nghiệp và trường đào tạo công
nhân. Đây là giai đoạn mà Giáo dục chuyên nghiệp gặp nhiều khó khăn về
tuyển sinh và cơ sở vật chất do quá trình chuyển đổi từ đào tạo theo chỉ tiêu
17
Luận văn thạc sỹ
Nguyễn Thị Lan
kế hoạch hoá sang cơ chế đào tạo theo nhu cầu nguồn nhân lực và nhu cầu
người học. Để phát triển Giáo dục chuyên nghiệp, Đảng và nhân dân Vĩnh
Phú đã chủ trương quy hoạch, sắp xếp lại hệ thống các trường chuyên nghiệp,
đa dạng hoá loại hình và ngành nghề đào tạo cho phù hợp với tình hình mới,
nhằm đáp ứng nguồn nhân lực cho công cuộc đổi mới.
Quy mô giáo dục không ngừng phát triển. Riêng học sinh phổ thông
bình quân trong 5 năm (1991 - 1995) tăng 6,9%. Tỷ lệ học sinh bỏ học giảm
từ 11,2% xuống còn 4,1%. Đến năm 1995, hệ công lập của tỉnh có 13.987 lớp
học các cấp, trong đó: tiểu học có 9.688 lớp với 342.000 học sinh, PTCS có
3.796 lớp với 158.500 học sinh, PTTH có 503 lớp với 24.800 học sinh. Tỷ lệ
thi tốt nghiệp tiểu học là 95,8%, THCS 92,2%, PTTH đạt 98,6%.
Đội ngũ giáo viên giỏi các cấp ngày càng tăng, tỷ lệ giáo viên đạt
chuẩn và trên chuẩn về trình độ đào tạo cao hơn bình quân chung cả nước.
Tính đến tháng 12/1996 tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn như sau:
Cô nuôi dạy trẻ đạt chuẩn 21,7%
Mẫu giáo đạt chuẩn 61,8% (cả nước 15%)
Tiểu học đạt chuẩn 95,8% (cả nước 77%)
THCS đạt chuẩn 95,4% (cả nước 83%)
THPT đạt chuẩn 98,2% (cả nước 90%)
THCN đạt chuẩn 96,3%.
Phong trào thi đua "Hai tốt" đã đạt được kết quả to lớn. Số giáo viên
giỏi, học sinh giỏi hàng năm đã tăng cả về mặt số lượng và chất lượng. Năm
học 1992 - 1993 có 23 giải học sinh giỏi cấp quốc gia, năm học 1993 - 1994
có 41 giải, năm học 1994 - 1995 có 63 giải, năm học 1995 - 1996 có 55 giải.
Qua ba đợt Nhà nước xét tặng danh hiệu nhà giáo ưu tú, nhà giáo nhân
dân ngành Giáo dục Vĩnh Phú có 13 cán bộ giáo viên được phong tăng danh
hiệu nhà giáo ưu tú. Nhằm tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng trong hệ
thống chính trị, Ban Bí thư Trung ương có Quyết định số 62 ngày 13/3/1993
18
Luận văn thạc sỹ
Nguyễn Thị Lan
về việc thành lập Ban cán sự Đảng và Đảng đoàn các cấp; Tỉnh uỷ đã ra quyết
định thành lập Ban Cán sự Đảng ngành Giáo dục & Đào tạo tỉnh Vĩnh Phú.
Căn cứ quyết định 1123/QĐ - UB ngày 22/9/1993 của UBND tỉnh từ
ngày 1/1/1994 các TTGDTX và các trường PTDTNT thuộc các huyện, thị,
thành chuyển về Sở GD & ĐT quản lý trực tiếp.
Có thể khẳng định rằng qua 29 năm hợp nhất, mặc dù còn nhiều khó
khăn, nhưng sự nghiệp giáo dục của tỉnh Vĩnh Phú đã đứng vững, có những
bước phát triển vững chắc và đạt được thành tích đáng tự hào. Quy mô giáo
dục từng bước được mở rộng theo hướng đa dạng hoá. Chất lượng giáo dục
được nâng lên rõ rệt. Vĩnh Phú là tỉnh sớm hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu
học và xoá mù chữ. Phong trào thi đua "Hai tốt" phát triển cả chiều rộng và
bề sâu, nhiều điển hình tiên tiến của tập thể và cá nhân xuất hiện. Giáo dục
Vĩnh Phú đã khẳng định vị trí xứng đáng của mình trong nền giáo dục nước
nhà.
1.2. Một số vấn đề về xã hội hoá giáo dục.
1.2.1. Bản chất và nội dung của công tác xã hội hoá giáo dục.
Xã hội hoá giáo dục phản ánh bản chất của luận đề "Giáo dục cho tất
cả mọi người; tất cả cho sự nghiệp giáo dục" (Education for All, All for
Education EFA - AFE). Xã hội hoá giáo dục gắn liền với dân chủ hoá giáo
dục. Chỉ có thể thực hiện XHHGD, khi xã hội có một nền dân chủ, hiện thực
nhân văn và nền dân chủ này được quán triệt trong đời sống giáo dục: Mọi
người có quyền được đi học, được học (tức là được lĩnh hội một nền giáo dục
phù hợp với hoàn cảnh, khả năng của mình) và được phát triển tài năng. Dân
chủ hoá giáo dục vừa là điều kiện vừa là mục tiêu của xã hội hoá giáo dục;
đến lượt mình XHHGD lại là nhân tố củng cố cho dân chủ hoá giáo dục phát
triển bền vững.
Bản chất của công tác xã hội hoá giáo dục được xác định trong Nghị
quyết số 04 - NQ/HNTW ngày 14/1/1993 của Ban chấp hành Trung ương
19
- Xem thêm -