Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Đảng bộ tỉnh Nam Định lãnh đạo xây dựng và củng cố chính quyền từ năm 1954 đến n...

Tài liệu Đảng bộ tỉnh Nam Định lãnh đạo xây dựng và củng cố chính quyền từ năm 1954 đến năm 1975

.PDF
147
190
100

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- TRẦN XUÂN TĂNG ĐẢNG BỘ TỈNH NAM ĐỊNH LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG VÀ CỦNG CỐ CHÍNH QUYỀN TỪ NĂM 1954 ĐẾN NĂM 1975 LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ Hà Nội - 2014 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- TRẦN XUÂN TĂNG ĐẢNG BỘ TỈNH NAM ĐỊNH LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG VÀ CỦNG CỐ CHÍNH QUYỀN TỪ NĂM 1954 ĐẾN NĂM 1975 LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ Chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam Mã số: 60220315 Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS CAO VĂN LIÊN Hà Nội - 2014 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu nêu trong Luận văn là hoàn toàn trung thực, chƣa từng đƣợc công bố trong bất kỳ công trình nào của các tác giả khác. Tác giả Luận văn Trần Xuân Tăng LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành đề tài này, ngoài sự cố gắng của bản thân tôi đã nhận đƣợc rất nhiều sự quan tâm giúp đỡ nhiệt tình của thầy cô, bạn bè, ngƣời thân và đồng nghiệp. Trƣớc tiên, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới các thầy cô giáo trong Khoa Lịch sử trƣờng Đa ̣i ho ̣c Khoa ho ̣c Xã hô ̣i và Nhân văn – Đa ̣i ho ̣c Quố c gia Hà Nô ̣i . Các thầy, cô giáo đã tham gia giảng dạy, trang bị những kiến thức bổ ích trong suốt thời gian học tập. Đặc biệt, tôi xin đƣợc bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS Cao Văn Liên ngƣời đã tận tình hƣớng dẫn giúp đỡ và động viên tôi trong quá trình thực hiện đề tài và hoàn thành bản Luận văn này. Tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ về tƣ liệu của cán bộ Thƣ viện tỉnh Nam Định, Văn phòng Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh Nam Định, Cục Thống kê tỉnh Nam Định, Sở Nội vụ tỉnh Nam Định, Trung tâm lƣu trữ Quốc Gia… đã giúp đỡ tôi trong suốt thời gian thực hiện đề tài. Tôi xin chân thành cảm ơn tới gia đình, tất cả ngƣời thân, bạn bè, những ngƣời luôn bên cạnh động viên giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và thực hiện đề tài. Hà Nội, ngày 30 tháng 11 năm 2014 Học viên Trần Xuân Tăng MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 1. Lý do chọn đề tài .....................................................................................................1 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ......................................................................................2 3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn ...........................................................................4 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ...........................................................................5 5. Cơ sở lý luận, nguồn tài liệu và phƣơng pháp nghiên cứu .....................................5 6. Đóng góp của luận văn ............................................................................................6 7. Kết cấu của luận văn ...............................................................................................6 Chƣơng 1: Đảng bộ tỉnh Nam Định lãnh đạo xây dựng và củng cố chính quyền từ năm 1954 đến năm 1965 .......................................................................................7 1.1 Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về chính quyền nhà nước ..........................................................................................................7 1.1.1 Quan điểm của C.Mác về chính quyền nhà nƣớc...............................................7 1.1.2 Quan điểm của V.I.Lênin về chính quyền nhà nƣớc........................................16 1.1.3 Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về chính quyền nhà nƣớc ...........................................20 1.2 Đảng bộ tỉnh Nam Định lãnh đạo xây dựng và củng cố chính quyền từ năm 1954 đến năm 1965 ..................................................................................................25 1.2.1 Khái quát tình hình tỉnh Nam Định trước năm 1954 .......................................25 1.2.1.1 Vài nét về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội và lịch sử tỉnh Nam Định tác động đến quá trình xây dựng và củng cố chính quyền..............................................25 1.2.1.2 Khái quát về quá trình xây dựng và củng cố chính quyền ở tỉnh Nam Định trƣớc năm 1954 .........................................................................................................31 1.2.2 Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Nam Định về xây dựng và củng cố chính quyền từ năm 1954 đến năm 1965 .......................................................................................47 1.2.2.1 Chủ trƣơng của Đảng Cộng sản Việt Nam ...................................................47 1.2.2.2 Chủ trƣơng của Đảng bộ tỉnh Nam Định về xây dựng và củng cố chính quyền từ năm 1954 đến năm 1965 ............................................................................50 1.2.3 Quá trình chỉ đạo xây dựng và củng cố chính quyền của Đảng bộ tỉnh Nam Định từ năm 1954 đến năm 1965 ..............................................................................58 1.2.3.1 Xây dựng và củng cố chính quyền thực hiện nhiệm vụ tiếp quản và khôi phục kinh tế (1954 - 1957) ........................................................................................58 1.2.3.2 Đảng bộ tỉnh Nam Định lãnh đạo xây dựng và củng cố chính quyền phục vụ công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa (1958 - 1960) ....................................................61 1.2.3.3 Đảng bộ tỉnh Nam Định lãnh đạo xây dựng và củng cố chính quyền trong thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961 - 1965) ..............................................68 Chƣơng 2: Công tác xây dựng và củng cố chính quyền của Đảng bộ tỉnh Nam Hà từ năm 1965 đến năm 1975 ...............................................................................75 2.1 Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Nam Hà về xây dựng và củng cố chính quyền giai đoạn 1965 – 1975 ..............................................................................................75 2.1.1 Bối cảnh lịch sử và chủ trƣơng chung của Đảng .............................................75 2.1.2 Chủ trƣơng của Đảng bộ tỉnh Nam Hà về xây dựng và củng cố chính quyền từ năm 1965 đến năm 1975 ...........................................................................................88 2.2 Quá trình chỉ đạo xây dựng và củng cố chính quyền của Đảng bộ tỉnh Nam Hà từ năm 1965 đến năm 1975 ...............................................................................92 2.2.1 Xây dựng và củng cố chính quyền đáp ứng nhiệm vụ “Vừa sản xuất, vừa chiến đấu” (1965 - 1968) ....................................................................................................92 2.2.2 Đảng bộ tỉnh Nam Hà lãnh đạo xây dựng và củng cố chính quyền khôi phục kinh tế và chiến đấu chống Mỹ, cứu nƣớc (1969 - 1972) .........................................96 2.2.3 Xây dựng củng cố chính quyền khắc phục hậu quả chiến tranh ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, dồn sức chi viện cho chiến trƣờng (1973 - 1975).................102 Chƣơng 3: NHẬN XÉT VÀ MỘT SỐ KINH NGHIỆM ...................................108 3.1 Nhận xét............................................................................................................108 3.1.1 Thành quả .......................................................................................................108 3.1.2 Một số hạn chế ...............................................................................................113 3.2 Một số kinh nghiệm chủ yếu............................................................................116 KẾT LUẬN ............................................................................................................119 TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................123 PHỤ LỤC ...............................................................................................................131 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Thực tiễn cách mạng thế giới đã chỉ ra rằng: Chính quyền là vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng và vì vậy làm cách mạng cốt yếu là để giành chính quyền, giữ chính quyền, kiện toàn chính quyền để dùng chính quyền ấy thực hiện nhiệm vụ cách mạng đặt ra. Ngay từ sau Cách mạng tháng Mƣời Nga (1917) đến nay, không một nhà nƣớc cách mạng nào trên thế giới lại không phải đƣơng đầu với sự phản kích của kẻ thù trong và ngoài nƣớc. Với giai cấp công nhân và nông dân việc giành chính quyền mới chỉ là nhiệm vụ bƣớc đầu và cũng chƣa phải là nhiệm vụ khó khăn nhất. Việc không ngừng xây dựng và củng cố chính quyền thực sự vững mạnh đủ sức tổ chức công cuộc cải tạo xã hội, xây dựng xã hội mới, chống lại mọi thế lực thù địch đặt ra rất nặng nề và lâu dài. Thực tiễn ở cách mạng nhiều nƣớc đã chứng minh lời nhận định của Lênin: “Giành chính quyền đã khó, việc giữ chính quyền lại còn khó hơn” [118, tr. 380]. Khi chƣa có chính quyền, Đảng Cộng sản Việt Nam phải lãnh đạo giành cho đƣợc chính quyền về tay nhân dân. Khi đã có chính quyền phải luôn luôn củng cố, giữ vững chính quyền, tăng cƣờng sức mạnh của chính quyền về mọi mặt. Nghiên cứu về chính quyền có nhiều nội dung, trong đó nội dung về xây dựng và củng cố chính quyền là một nội dung quan trọng. Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, nƣớc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi (1954), miền Bắc hoàn toàn đƣợc giải phóng. Trong sự nghiệp chung của cả nƣớc, nhân dân miền Bắc nói chung và nhân dân Nam Định nói riêng cũng bắt tay vào công cuộc hàn gắn vết thƣơng chiến tranh, khôi phục và từng bƣớc phát triển kinh tế, văn hóa – xã hội. Bên cạnh những kết quả mà nhân dân Nam Định nói riêng đã đạt đƣợc qua các đợt cải cách ruộng đất, sửa chữa sai lầm trong cải cách, nhất là thời kỳ 1954 – 1957 và hoàn thành công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa và phát triển kinh tế, văn hóa – xã hội trong giai đoạn 1958 – 1960, hoàn thành thắng lợi kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961 - 1965), 1 bƣớc sang thời kỳ 1965 – 1975, một thời kỳ vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa chiến đấu bảo vệ quê hƣơng, góp phần giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Trên thực tế, công cuộc xây dựng và củng cố chính quyền dân chủ nhân dân ở Nam Định trong giai đoạn 1954 – 1975 đã đạt đƣợc những thành tựu to lớn và để lại cho ngày nay rất nhiều bài học mang ý nghĩa lý luận, thực tiễn sâu sắc. Việc nghiên cứu vấn đề này nhằm lý giải một số vấn đề quá khứ đặt ra, để soi rọi vào hiện tại, đặc biệt là trong công cuộc đổi mới hiện nay của Nam Định. Với những lý do trên, tôi đã chọn đề tài “Đảng bộ tỉnh Nam Định lãnh đạo xây dựng và củng cố chính quyền từ năm 1954 đến năm 1975” làm đề tài cho bản Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Về lý luận, các học thuyết về Nhà nƣớc của chủ nghĩa Mác – Lênin là một trong những vấn đề đƣợc các nhà khoa học xã hội ở các nƣớc nghiên cứu nhiều, để vận dụng vào cuộc đấu tranh giành và giữ chính quyền. Ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhiều lãnh đạo của Đảng và Nhà nƣớc đã có những bài nói và viết quan trọng về củng cố, xây dựng và bảo vệ chính quyền nhà nƣớc. Bên cạnh đó, suốt hơn 60 năm qua kể từ ngày cách mạng tháng Tám thành công, nƣớc Viêt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, đã có nhiều nhà nghiên cứu lịch sử trong và ngoài nƣớc quan tâm nghiên cứu về vấn đề chính quyền và nhà nƣớc ở Việt Nam. Dƣới nhiều góc độ khác nhau, những công trình nghiên cứu đó, đã trực tiếp hoặc gián tiếp đề cập đến các vấn đề của công cuộc xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân. Công trình phản ánh những vấn đề lý luận chung về chính quyền trong các giai đoạn lịch sử. Những nghiên cứu này tƣơng đối nhiều, vì tầm quan trọng của vấn đề giành, giữ và thực thi quyền lực nhà nƣớc trong lịch sử cách mạng Việt Nam. Có thể thấy vấn đề đƣợc đề cập trong các sách, bài viết của các đồng chí lãnh đạo cao cấp của Đảng và Nhà nƣớc, đƣợc đề cập ít nhiều trong hầu hết các công trình nghiên cứu về lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, về lịch sử Việt Nam hiện đại. 2 Trong các tác phẩm này, tính khái quát thực tiễn và tổng kết lý luận về giành, giữ và xây dựng, củng cố chính quyền nhà nƣớc, trên bình diện chung và ở từng giai đoạn lịch sử cụ thể đƣợc thể hiện một cách rõ nhất. Có thể coi đây, từ những nhận thức chung về vấn đề chính quyền của chủ nghĩa Mác – Lênin, thực tiễn vấn đề giành chính quyền, giữ chính quyền, xây dựng và củng cố chính quyền ở Việt Nam đƣợc tổng kết mang ý nghĩa lý luận cao. Tiêu biểu nhƣ các công trình của: đồng chí Đỗ Mƣời (1995), “Xây dựng và hoàn thiện chính quyền ngang tầm phát triển của đất nước, xứng đáng với lòng tin yêu của nhân dân”, Tạp chí Cộng sản số 3; của tác giả Thanh Sơn (1995), “50 năm xây dựng và hoàn thiện chính quyền nhân dân”, Tạp chí Cộng sản số 11; của Hồ Chí Minh (1986), “Về Đảng cầm quyền”, Nxb Sự thật; của Phạm Văn Đồng (1964), “Nhà nước dân chủ nhân dân Việt Nam”; của Trƣờng Chinh (1985), “Mấy vấn đề về nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Những tác phẩm này chủ yếu đề cập đến quan điểm, đƣờng lối lãnh đạo xây dựng chính quyền trên các phƣơng diện và là một vấn đề rất cần thiết mà luận văn có thể kế thừa khi giải quyết đề tài. Những công trình phản ánh những nội dung liên quan đến hoạt động của chính quyền trong các giai đoạn lịch sử, ở các địa phƣơng cụ thể. Những nghiên cứu này bao gồm các công trình mang tính thông sử và đặc biệt là các bộ sách về lịch sử Đảng bộ tỉnh Nam Định nhƣ: của tác giả Lê Ngọc (1985), “Một số kinh nghiệm về xây dựng và bảo vệ chính quyền trong 40 năm qua”, Tạp chí nghiên cứu lịch sử số 4; “Trách nhiệm nhân dân và cán bộ đối với chính quyền cách mạng”, Nxb Sƣ thật, Hà Nội năm 1971; PGS Lê Mậu Hãn (chủ biên), “Lịch sử Quốc hội Việt Nam 1960 - 1976”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2003… Những công trình này đã cung cấp cho đề tài tƣ liệu và sự nhìn nhận mang tính khái quát về xây dựng chính quyền nói chung. Các công trình liên quan trực tiếp đến quá trình xây dựng, củng cố chính quyền ở tỉnh Nam Định trong các thời kỳ. Nguồn tƣ liệu chính phục vụ cho nội dung luận án là các tài liệu đang lƣu trữ tại trung tâm lƣu trữ Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh Nam Định, trong văn phòng Tỉnh ủy, Ban tuyên giáo Tỉnh ủy, Trung tâm 3 lƣu trữ báo Nam Định. Đó là các văn bản gốc, gồm các báo cáo, các nghị quyết, biên bản cuộc họp… của Đảng bộ tỉnh Nam Định trong những năm 1954 – 1975. Nguồn tƣ liệu này khá phong phú và một số bộ phận quan trọng chƣa đƣợc xử lý. Bên cạnh đó, các tƣ liệu mang tính chất tổng kết chung nhƣ: “Lịch sử Đảng bộ tỉnh Nam Định”, tập 1+2, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001. Những phần tài liệu trên, giúp cho tôi những hiểu biết rộng hơn rõ hơn những vấn đề lý luận chính quyền, nhà nƣớc. Những tác phẩm bài viết trên đây chủ yếu mang tính chất tổng kết và định hƣớng cho độc giả đang tìm hiểu về vấn đề cần nghiên cứu. Về lịch sử địa phƣơng tỉnh Nam Định đã có những công trình mang tính khái quát, hay dƣới góc độ biên niên. Còn viết về một thời kỳ lịch sử cụ thể, về lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội ở địa phƣơng có tính hệ thống, mới chỉ thực là bƣớc đầu. Nhìn chung các nhóm công trình nói trên rất cần thiết đối với thực hiện đề tài, tác giả có thể kế thừa nhiều nội dung quan trọng, đặc biệt là vấn đề tƣ liệu. Tuy nhiên chƣa có một công trình nào đề cập đến vấn đề nội dung của đề tài. 3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn 3.1 Mục đích Làm rõ quá trình Đảng bộ Nam Định lãnh đạo xây dựng hệ thống tổ chức chính quyền từ 1954 - 1975. Qua đó khẳng định những thành tựu, rút ra những kinh nghiệm góp phần trong việc xây dựng, bảo vệ chính quyền trong giai đoạn hiện nay. 3.2 Nhiệm vụ - Sƣu tập và hệ thống hóa những tài liệu liên quan đến đề tài, trên cơ sở đó trình bày theo tiến trình lịch sử các chủ trƣơng và biện pháp xây dựng và củng cố chính quyền qua hai giai đoạn 1954 - 1965 và 1965 - 1975. - Nêu lên những thành tựu, hạn chế trong lãnh đạo xây dựng hệ thống tổ chức chính quyền của Đảng bộ Nam Định trong những năm 1954 đến năm 1975 và rút ra 4 những kinh nghiệm để phục vụ công tác xây dựng chính quyền nói chung trong tình hình mới hiện nay. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1 Đối tượng nghiên cứu Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là những nhận thức, chủ trƣơng, chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Nam Định trong lĩnh vực xây dựng củng cố chính quyền từ năm 1954 đến năm 1975. 4.2 Phạm vi nghiên cứu - Về nội dung: Sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ Nam Định đối với việc xây dựng hệ thống chính quyền nói riêng, xây dựng và bảo vệ chính quyền ở Nam Hà nói chung cũng nhƣ những kết quả, kinh nghiệm trong sự lãnh đạo của công tác này. - Về thời gian: Luận văn nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Nam Định về chính quyền từ khi tiếp quản (1954) đến khi kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nƣớc, cả nƣớc chuyển thời kỳ mới: Xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa năm 1975. - Về không gian: Luận văn xác định địa bàn nghiên cứu tỉnh Nam Định (1954 - 1965) và Nam Định trong tỉnh Nam Hà (1965 - 1975). 5. Cơ sở lý luận, nguồn tài liệu và phƣơng pháp nghiên cứu * Cơ sở lý luận Đã thực hiện trên cơ sở chủ nghĩa Mác – Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề nhà nƣớc, về vai trò của chính quyền nhà nƣớc trong cách mạng xã hội chủ nghĩa. * Nguồn tài liệu Các văn kiện của Đảng, Nhà nƣớc liên quan đến vấn đề xây dựng chính quyền, các văn kiện của Đảng bộ, Uỷ ban nhân dân, Hội đồng nhân dân tỉnh Nam Định là những nguồn tài liệu quan trọng nhất. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng nguồn tài liệu từ những công trình nghiên cứu có liên quan * Phƣơng pháp nghiên cứu 5 Chủ yếu luận văn sử dụng phƣơng pháp lịch sử kết hợp với những phƣơng pháp logic, phƣơng pháp phân tích, phƣơng pháp hệ thống, phƣơng pháp thống kê, phƣơng pháp tổng hợp, đặc biệt là khảo sát thực tiễn để làm sáng tỏ vấn đề. 6. Đóng góp của luận văn - Cung cấp những tƣ liệu đã đƣợc hệ thống hóa về sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ Nam Định đối với công tác xây dựng hệ thống chính quyền từ năm 1954 đến năm 1975, trong đó có cả những tƣ liệu gốc. - Luận văn có giá trị tham khảo cho các nghiên cứu về xây dựng chính quyền. - Góp phần xây dựng lịch sử địa phƣơng. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, bố cục của Luận văn đƣợc chia làm 3 chƣơng: Chương 1: Đảng bộ tỉnh Nam Định lãnh đạo xây dựng và củng cố chính quyền từ năm 1954 đến năm 1965 Chương 2: Công tác xây dựng và củng cố chính quyền của Đảng bộ tỉnh Nam Hà từ năm 1965 đến năm 1975 Chương 3: Một số nhận xét và bài học kinh nghiệm 6 Chƣơng 1 Đảng bộ tỉnh Nam Định lãnh đạo xây dựng và củng cố chính quyền từ năm 1954 đến năm 1965 1.1 Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về chính quyền nhà nƣớc 1.1.1 Quan điểm của C.Mác về chính quyền nhà nước Sự phát triển của lực lƣợng sản xuất đã tạo ra những chuyển biến vô cùng lớn lao về kinh tế xã hội. Công xã nguyên thủy lâm vào vòng suy sụp và tan rã, nhƣờng bƣớc cho sự ra đời của nhà nƣớc. Kim loại đƣợc dùng để chế tạo công cụ sản xuất đã mở ra thời đại kim khí. Từ đây năng xuất lao động có bƣớc phát triển nhảy vọt. Những dấu vết của việc chế tạo công cụ đồng sớm nhất hiện nay chúng ta biết đƣợc là thuộc thiên niên kỷ thứ IV trƣớc Công nguyên, cƣ dân Lƣỡng Hà, Ai Cập dùng nhiều công cụ đồng trong sản xuất và đời sống. Khoảng nửa cuối thiên niên kỷ thứ II trƣớc Công nguyên, vùng Tây Nam Á và Ai Cập xuất hiện nghề luyện sắt và công cụ sắt đƣợc sử dụng. Những công cụ bằng kim loại nhất là công cụ sắt cùng với kinh nghiệm sản xuất của con ngƣời tích lũy đƣợc, đã tạo nên bƣớc phát triển nhảy vọt trong trồng trọt và nghề thủ công. Nhiều vùng ở Bắc Phi và Châu Á, cƣ dân còn biết làm những công trình thủy lợi để tƣới tiêu nƣớc. Trồng trọt phát triển đã thúc đẩy nghề chăn nuôi cũng phát triển. Do vậy, đã dẫn đến sự phân công lao động xã hội lần thứ nhất: nghề trồng trọt và nghề chăn nuôi tách rời nhau, có những bộ lạc chuyên về chăn nuôi và những bộ lạc chuyên về trồng trọt. Các nghề thủ công phát triển mạnh, dẫn đến hình thành những nhóm ngƣời chuyên làm nghề thủ công. Từ đó nghề thủ công tách khỏi nông nghiệp. Đây là sự phân công lao động xã hội lần thứ hai. Sự chuyên môn hóa của các ngành sản xuất làm xuất hiện và phát triển việc trao đổi sản phẩm giữa các bộ lạc, giữa các vùng từ Bắc Phi sang châu Á, từ phƣơng Đông sang phƣơng Tây. Sự phát triển của lực lƣợng sản xuất và nền kinh tế nguyên thủy đã dẫn đến những hệ quả rất quan trọng. Sự xuất hiện tƣ hữu về tƣ liệu sản xuất. Năng suất lao động đƣợc nâng cao, làm cho sản phẩm xã hội tăng nhanh. Ngoài phần tiêu dùng 7 hàng ngày, con ngƣời đã có của cải dƣ thừa để dành. Quá trình phân hóa tài sản bắt đầu diễn ra và phát triển theo những con đƣờng: Trong cộng đồng những ngƣời có địa vị chiếm đƣợc nhiều của cải dƣ thừa của tập thể; do sự phát triển của sức sản xuất, đại gia đình phụ quyền đƣợc phân thành nhiều gia đình nhỏ bao gồm vợ chồng và con cái, mỗi gia đình nhỏ ấy là một đơn vị kinh tế có tài sản riêng nhƣ công cụ sản xuất, tƣ liệu lao động và những thứ đó đƣợc truyền lại cho con cái từ đời này qua đời khác, củng cố thêm chế độ tƣ hữu; của cải và tù binh trong chiến tranh cũng là nguồn tài sản quan trọng bị những ngƣời có địa vị trong bộ lạc thắng trận chiếm đoạt. Công xã nông thôn xuất hiện thay thế công xã thị tộc phụ hệ đang dần dần tan rã. Sự phân hóa tài sản và địa vị giàu nghèo trong xã hội đã dẫn đến tình trạng những ngƣời giàu có muốn từ bỏ bà con thân thuộc túng thiếu, vì nghĩa vụ giúp đỡ những ngƣời anh em họ hàng theo phong tục cổ truyền đã gây trở ngại cho việc tích lũy của cải cho gia đình. Còn nhiều ngƣời khác vì nghèo khổ phải đi đến vùng đất khác để sinh sống. Mối quan hệ dòng máu kết dính các thành viên trong thị tộc bộ lạc bị cắt đứt. Ranh giới của thị tộc và bộ lạc bị xáo trộn và phá vỡ. Thay vào đó là một hình thức tổ chức cộng đồng mới, công xã nông thôn trong cƣ dân nông nghiệp và công xã du mục trong cƣ dân chăn nuôi. Theo C.Mác: công xã nông thôn mang tính hai mặt, trong công xã vừa có chế độ tƣ hữu tài sản, vừa có chế độ sở hữu chung của công xã. Ruộng đất của công xã đƣợc chia cho các gia đình cày cấy theo kỳ hạn nhất định và gia đình đƣợc chiếm hữu thành quả lao động của mình. Điều đó đẩy mạnh sự phát triển của tài sản tƣ hữu. Quá trình phát triển của chế độ tƣ hữu tất yếu dẫn đến việc hình thành các tập đoàn ngƣời trong xã hội có địa vị kinh tế khác hẳn nhau, xuất hiện các giai cấp chủ nô, bình dân và nô lệ. Mâu thuẫn giai cấp đối kháng nảy sinh, dần dần phát triển tới mức không thể điều hòa đƣợc. Giai cấp chủ nô giàu có cần phải có một tổ chức mới để củng cố và tăng cƣờng địa vị của mình. Đó là bộ máy bạo lực, gồm bộ máy quan chức hành chính, tòa án, nhà tù, quân đội, cảnh sát… để thống trị, áp bức, bóc lột và đàn áp những ngƣời lao động. Tổ chức mới này là nhà nƣớc. 8 Từ việc xác định quan điểm xuất phát trong nghiên cứu về nhà nƣớc, Mác và Ăngghen đã đi tới những quan điểm cụ thể hơn về nhà nƣớc, trong đó có việc xác định nội hàm căn bản của khái niệm nhà nƣớc, vạch ra tính chất, đặc trƣng của nhà nƣớc. Điều cần nhấn mạnh trƣớc hết là, “nhà nƣớc” đƣợc Mác và Ăngghen hiểu theo hai nghĩa: Xã hội đƣợc tổ chức theo một cách xác định và bộ máy nhà nƣớc, hay nhà nƣớc chính trị biểu hiện tập trung của cách thức tổ chức xã hội ấy. Quan điểm trên đã thể hiện rõ ràng trong tác phẩm Phê phán triết học pháp quyền của Hêghen; đồng thời với việc Mác phê phán quan điểm biện chứng duy tâm của Hêghen về nhà nƣớc. Trong tác phẩm nói trên, Mác đã chỉ ra hai nghĩa của nhà nƣớc là: 1. Tổng thể của sự tồn tại của nhân dân; 2. Nhà nước chính trị [13, tr. 427]. Trong tác phẩm của các ông, có lúc khái niệm “nhà nƣớc” đƣợc Mác và Ăngghen hiểu đồng thời theo cả hai nghĩa, có lúc hiểu theo nghĩa thứ hai và đặc biệt một phần quan trọng trong các luận bàn về nhà nƣớc, Mác và Ăngghen đã phân tích sự vận động biện chứng của hai nghĩa này trong khái niệm “nhà nƣớc” nhƣ là sự phản ánh quá trình chuyển hóa biện chứng khách quan giữa nhà nƣớc và xã hội. Có thể minh họa cho khẳng định này bằng một ý kiến của Mác khi ông cho rằng: “Gia đình và xã hội công dân là những bộ phận hiện thực của nhà nước, là những tồn tại tinh thần hiện thực của ý chí, là những phương thức tồn tại cảu nhà nước. Gia đình và xã hội công dân tự chúng cấu thành nhà nước. Chúng chính là động lực” [13, tr. 314]. Những tính chất và đặc trƣng của nhà nƣớc với tính cách là bộ máy nhà nƣớc hay nhà nƣớc chính trị, đƣợc quy định không phải bởi tƣ duy của nhà triết học pháp quyền, cũng không phải do chỗ nó là trạng thái tha hóa của một ý niệm với các tính quy định sẵn có nào đó, mà gắn liền với quá trình tha hóa của nhà nƣớc, thoát thai khỏi đời sống xã hội, do chính quá trình hình thành và chuyển hóa các mặt đối lập trong bản thân đời sống xã hội, trƣớc hết là quá trình hình thành và chuyển hóa các lợi ích của các thành viên trong đời sống xã hội của con ngƣời hiện thực. Nhà nƣớc thực chất là hiện thân của một mâu thuẫn. Đó là lợi ích chung tự mâu thuẫn chính mình, là hình thức lợi ích chung mâu thuẫn với nội dung lợi ích 9 riêng gắn với lợi ích của một bộ phận xã hội và theo quan điểm của chủ nghĩa Mác, bộ phận này là giai cấp thống trị về mặt kinh tế. So với bộ phận đại diện cho lợi ích chung và nắm quyền lực công trong xã hội nguyên thủy, nhà nƣớc trong xã hội có giai cấp mang trong mình mặt đối lập với chính mình. Đó là tình trạng tha hóa của tổ chức quyền lực công, của lợi ích chung. Chính trình độ phát triển của lao động, hay nói cách khác là mâu thuẫn trong đời sống kinh tế giữa năng suất lao động với nhu cầu cần đƣợc thỏa mãn, đã đƣa tới sự hình thành những giai cấp mà sự thỏa mãn nhu cầu của một giai cấp đƣợc quyết định bởi việc nó có nắm giữ hay không tƣ liệu sản xuất và dựa trên cơ sở thủ tiêu sự thỏa mãn nhu cầu của các giai cấp, tầng lớp khác, đã tạo nên mâu thuẫn trên trong nhà nƣớc và cũng chỉ có sự phát triển của lực lƣợng sản xuất biểu hiện ra ở năng suất lao động mới có thể xóa bỏ đƣợc mâu thuẫn đó, khi mà của cải đƣợc sản xuất ra thỏa mãn một cách hoàn toàn cho tất cả mọi thành viên của xã hội, nói cách khác không còn mâu thuẫn giữa lợi ích chung với lợi ích riêng. Khi đó, nhà nƣớc sẽ đồng nhất trở lại với xã hội mất đi tính chính trị của nó. Sự chuyển hóa biện chứng trong đời sống xã hội làm cho nhà nƣớc ra đời. Điều này xuất hiện trong lịch sử với sự xuất hiện của giai cấp tƣ hữu và đặc biệt trở nên điển hình trong xã hội mà giai cấp tƣ sản là giai cấp nắm quyền thống trị về kinh tế. Về vấn đề trên, Mác và Ăngghen đã viết: “Vì giai cấp tư sản không còn là một đẳng cấp nữa mà là một giai cấp, nên nó bắt buộc phải tự tổ chức không phải trên quy mô địa phương mà trên quy mô toàn quốc, và phải gắn cho những lợi ích thông thường của nó một hình thức phổ biến. Do chỗ sở hữu tư nhân được giải thoát khỏi cộng đồng nên nhà nước đã tồn tại độc lập bên cạnh và bên ngoài xã hội công dân, nhưng thực ra nhà nước ấy chẳng phải là cái gì khác mà chỉ là hình thức tổ chức mà những người tư sản buộc phải dùng đến để đảm bảo lẫn cho nhau sở hữu và lợi ích của họ, ở ngoài nước cũng như trong nước” [14, tr. 90]. Mâu thuẫn nội tại của nhà nƣớc thể hiện trƣớc hết ở chỗ, trong xã hội tồn tại mâu thuẫn giữa lợi ích chung và lợi ích riêng nên nhà nƣớc nào cũng mang bản chất giai cấp. Đó là vì nhà nƣớc này nảy sinh ra từ nhu cầu phải kiềm chế những sự đối 10 lập giai cấp; vì nhà nƣớc đồng thời cũng nảy sinh giữa cuộc xung đột của các giai cấp ấy, cho nên nhà nƣớc là: “nhà nước của giai cấp có thế lực nhất, của cái giai cấp thống trị về mặt kinh tế và nhờ có nhà nước mà cũng trở thành giai cấp thống trị về mặt chính trị và do đó có thêm được những phương tiện mới để đàn áp và bóc lột giai cấp bị áp bức” [18, tr. 255]. Quan điểm về bản chất giai cấp của nhà nƣớc thể hiện ra nhƣ công cụ để giai cấp thống trị đàn áp các giai cấp bị bóc lột nhằm thực hiện lợi ích kinh tế của mình trong xã hội phân chia thành các giai cấp – chủ thể của các lợi ích riêng đối lập nhau là một quan điểm căn bản của chủ nghĩa Mác – Lênin. Quan điểm này đƣợc Mác và Ăngghen nhắc đi nhắc lại rất nhiều lần trong những luận bàn về vấn đề nhà nƣớc. Có thể thấy rõ điều này, chẳng hạn trong những luận điểm sau: “Cái lực lượng cố kết xã hội văn minh là nhà nước, nhà nước này trong tất cả những thời kỳ điển hình vẫn chỉ là nhà nước của giai cấp thống trị. Và trong mọi trường hợp, về thực chất vẫn là bộ máy dùng để đàn áp giai cấp bị áp bức bóc lột” [18, tr. 261], và “chính quyền nhà nước chẳng qua là một tổ chức mà các giai cấp thống trị, địa chủ và các nhà tư bản đã lập nên cho mình để bảo vệ đặc quyền xã hội của mình…” [20, tr. 525]. Quan điểm về bản chất giai cấp của mọi nhà nƣớc cũng đúng với nhà nƣớc vô sản, dù rằng đây không còn là nhà nƣớc theo nguyên nghĩa đƣợc dùng để chỉ các nhà nƣớc trƣớc nó, mà là “nhà nƣớc nửa nhà nƣớc” là hình thức cuối cùng của mọi nhà nƣớc chính trị. Mác và Ăngghen chỉ rõ rằng, nhà nƣớc chẳng qua chỉ là một bộ máy của một giai cấp này dùng để trấn áp một giai cấp khác. Điều đó, trong chế độ cộng hòa dân chủ hoàn toàn giống nhƣ trong chế độ quân chủ. Chính nhờ hình thức đại diện cho lợi ích chung, nhờ sự tồn tại nhƣ một quyền lực công, cho nên nhà nƣớc có một sức mạnh đặc biệt trong xã hội có giai cấp và vì thế, giai cấp nào muốn nắm quyền lãnh đạo xã hội đều buộc phải chiếm đoạt và sử dụng bộ máy nhà nƣớc. Đây là mục tiêu của tất cả các cuộc cách mạng xã hội. 11 Chính bản chất nhƣ vậy, đã mang lại tính chính trị cho các thiết chế và quyền lực công cộng. Nói cách khác, đặt trong xã hội phân chia thành các giai cấp đối lập, các thiết chế công cộng và quyền lực công đều mang tính chính trị. Mác và Ăngghen viết: “Nhà nước là hình thức mà các cá nhân thuộc một giai cấp thống trị dùng để thực hiện lợi ích chung của họ và là hình thức dưới đó toàn bộ xã hội công dân của một thời đại được biểu hiện một cách tập trung, nên từ đó có thể rút ra kết luận là mọi thiết chế công cộng đều thông qua nhà nước và mang một hình thức chính trị” [14, tr. 90]. Ở một chỗ khác, các ông nói rõ thêm rằng: “khi những đối kháng giai cấp đã mất đi trong tiến trình của sự phát triển và toàn bộ sản xuất đã tập trung trong tay những cá nhân đã liên hợp lại với nhau thì quyền lực công cộng cũng mất tính chất chính trị của nó” [15, tr. 628]. Sự phân tách của nhà nƣớc ra khỏi xã hội trở nên điển hình trong xã hôi tƣ sản đã đƣợc các nhà lý luận của giai cấp tƣ sản nhận thức và cố gắng tìm cách để lý giải. Tuy nhiên trƣớc Mác chƣa có một sự lý giải nào phản ánh đúng bản chất của vấn đề. Phải đến Mác và Ăngghen, bí mật của mối quan hệ giữa nhà nƣớc với xã hội mới đƣợc sáng tỏ. Chính sự vận động trong đời sống xã hội, mà tập trung nhất ở đời sống kinh tế đã làm cho nhà nƣớc tách ra, trở thành một bộ phận độc lập, đối lập với xã hội. Và trong mối quan hệ giữa nhà nƣớc với xã hội, xã hội luôn là cái quyết định hay cụ thể hơn nữa chính trình độ phát triển của lao động, quá trình sản xuất và tái sản xuất ra đời sống trực tiếp đã quyết định không chỉ nhà nƣớc mà mọi yếu tố của kiến trúc thƣợng tầng. Nói chung, quan điểm này đã hình thành ở Mác ngay khi tiến hành phê phán triết học pháp quyền của Hêghen. Trong tác phẩm Phê phán triết học pháp quyền của Hêghen, Mác đã viết: “Trên thực tế, gia đình và xã hội công dân là những tiền đề của nhà nước, chính chúng mới là yếu tố thực sự tích cực, nhưng trong tư duy tư biện thì tất cả điều đó đều bị đặt lộn ngược” [13, tr. 313]. Điều đó có nghĩa là: “Phải coi xã hội hiện tồn… là cơ sở của nhà nước hiện tồn” [17, tr. 46], hay nói cách khác: “Nói chung không phải nhà nước chế định và quyết định xã hội công dân mà xã hội công dân chế định và quyết định nhà nước, 12 rằng do đó phải lấy những quan hệ kinh tế ấy để giải thích chính trị và lịch sử chính trị, chứ không phải ngược lại” [18, tr. 321]. Khi vận dụng quan điểm duy vật lịch sử vào nghiên cứu một số trƣờng hợp nhà nƣớc cụ thể, Mác và Ăngghen đã để lại cho chúng ta nhiều nhận định đáng quan tâm. Trƣớc hết là về nhà nƣớc phƣơng Đông. Đây có thể nói là những biến thể của mô hình chung. Khi nghiên cứu xã hôi phƣơng Đông, Mác và Ăngghen đã chỉ ra một đặc điểm của xã hội phƣơng Đông, đó là sự tồn tại dai dẳng các công xã nông thôn và sự biệt lập giữa chúng chính là cơ sở tự nhiên cho nhà nƣớc phƣơng Đông. Mác và Ăngghen viết: “Tình trạng hoàn toàn biệt lập đó giữa từng công xã với nhau, tình trạng quả là đã tạo nên trên cả nước những lợi ích giống nhau, nhưng tuyệt nhiên không phải là những lợi ích chung, là cơ sở tự nhiên của chế độ chuyên chế phương Đông” [19, tr. 762]. Có thể thấy, theo quan niệm của Mác và Ăngghen, nhà nƣớc chính trị có hai đặc trƣng tiêu biểu, đó là: “so với tổ chức thị tộc trước kia thì đặc trưng thứ nhất của nhà nước là ở chỗ nó phân chia thần dân của nó theo địa vực… Đặc trưng thứ hai của nhà nước là sự thiết lập một quyền lực công cộng…” [18, tr. 253], trong đó quyền lực công cộng tách rời quần chúng nhân dân đƣợc coi là đặc trƣng chủ yếu. Cách đây 143 năm, một sự kiện trọng đại diễn ra trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, đó là Công xã Pa-ri, một nhà nƣớc vô sản đầu tiên trên thế giới, đƣợc thành lập sau cuộc khởi nghĩa của công nhân ở Thủ đô Pa-ri (Pháp) vào ngày 18/3/1871. Sự ra đời của Công xã Pa-ri vừa là sự kiểm nghiệm, vừa là sự chứng minh tính khoa học và cách mạng của học thuyết Mác về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Đánh giá về ảnh hƣởng sâu sắc của Công xã Pa-ri đến cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân ở châu Âu cuối thế kỷ XIX, các nhà nghiên cứu nhấn mạnh: Công xã Pa-ri đã khuấy động mạnh mẽ phong trào xã hội chủ nghĩa ở toàn thể châu Âu. Công xã đã dạy cho giai cấp vô sản châu Âu đặt những vấn đề cách mạng xã hội chủ nghĩa một cách cụ thể. Tuy có phạm sai lầm và thất bại, nhƣng nó vẫn là một kiểu mẫu vĩ đại nhất của phong trào vô sản vĩ đại nhất trong thế kỷ XIX. 13 Nguyên nhân sâu xa dẫn đến sự xuất hiện của Công xã Pa-ri là do có những mâu thuẫn gay gắt, không thể điều hòa đƣợc giữa giai cấp vô sản và giai cấp tƣ sản. Tuy nhiên, nguyên nhân trực tiếp là do thất bại nặng nề của nƣớc Pháp trong cuộc chiến tranh với nƣớc Phổ (1870 - 1871), cùng với chính sách đối ngoại đầu hàng và chính sách đối nội phản động của Chính phủ Pháp do Chi-e cầm đầu, phong trào đấu tranh của nhân dân và các lực lƣợng tiến bộ Pháp ngày càng trở nên mạnh mẽ, đỉnh cao là cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Thủ đô Pa-ri ngày 18/3/1871. Đến ngày 28/3/1871, Hội đồng Công xã đƣợc tuyên bố thành lập, làm chức năng quản lý xã hội, gồm các đại biểu của công nhân và nhân dân lao động, trong đó có nhiều ngƣời đã là thành viên của Quốc tế thứ nhất. Các công xã cách mạng cũng đƣợc tuyên bố thành lập ở Li-ông, Mác-xây, Tu-lu-dơ và một số thành phố khác của nƣớc Pháp. Ngay sau khi ra đời, Công xã Pa-ri đã thi hành nhiều chính sách tiến bộ nhƣ: bãi bỏ chế độ quân thƣờng trực, thành lập Đội Vệ binh quốc dân để bảo vệ thành phố và chống lại quân đội Phổ; giải tán cảnh sát và hiến binh; tách hoạt động của nhà thờ ra khỏi các công việc của trƣờng học và nhà nƣớc. Công xã còn thi hành nhiều chính sách khác nhƣ thực hiện quyền làm chủ xí nghiệp cho công nhân, giải quyết nạn thất nghiệp, quy định mức lƣơng tối thiểu bắt buộc, thi hành những biện pháp bảo hộ lao động; cải thiện điều kiện nhà ở và cung cấp lƣơng thực cho dân cƣ; thực hiện cải cách trƣờng học mà cơ sở của nó là nguyên tắc giáo dục phổ cập, không mất tiền, có tính chất bắt buộc... Công xã cũng đề ra những quy định về quan hệ chặt chẽ giữa Công xã với hoạt động của các câu lạc bộ quần chúng, các tổ chức công đoàn, phụ nữ, tạo mối quan hệ gắn bó giữa nhà nƣớc và quần chúng nhân dân. Hội đồng Công xã đã ra những sắc lệnh có ý nghĩa đặc biệt quan trọng nhƣ: thành lập các hội liên hiệp công nhân (ở các xí nghiệp do bọn chủ bỏ lại); thực hiện chế độ kiểm soát của công nhân; tổ chức bầu cử những ngƣời lãnh đạo một số xí nghiệp nhà nƣớc... Trong chính sách đối ngoại, Công xã Pa-ri thực hiện đƣờng lối hòa bình và hữu nghị giữa các dân tộc. 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan