Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ đa dạng sinh học bộ phù du (ephemeroptera) ở á đai 1600 2600m tại vườn quốc gia ...

Tài liệu đa dạng sinh học bộ phù du (ephemeroptera) ở á đai 1600 2600m tại vườn quốc gia hoàng liên, tỉnh lào cai

.PDF
62
105
53

Mô tả:

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA SINH - KTNN ====== PHẠM THỊ THỦY ĐA DẠNG SINH HỌC BỘ PHÙ DU (EPHEMEROPTERA) Ở Á ĐAI 1600-2600M TẠI VƢỜN QUỐC GIA HOÀNG LIÊN, TỈNH LÀO CAI KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Động vật học Ngƣời hƣớng dẫn khoa học ThS. NGUYễN VĂN HIếU HÀ NỘI, 2016 LỜI CẢM ƠN Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến ThS.Nguyễn Văn Hiếu, cán bộ giảng dạy tổĐộng vật, Khoa Sinh – KTNN, Trường Đại học Sư Phạm Hà Nội 2, đã tận tình hướng dẫn và đưa ra những ý kiến quý báu trong suốt thời gian tôi thực hiện đề tài này. Đồng thời qua đây tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Ban chủ nhiệm Khoa cùng các thầy,cô giáo Khoa Sinh – KTNN, Trường Đại học Sư Phạm Hà Nội 2, những người đã truyền đạt kiến thức và tạo điều kiện thuận lợi giúp đỡ tôi trong suốt quá trình hoàn thành khóa luận tốt nghiệp của mình. Cuối cùng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến gia đình, bạn bè, thầy cô những người đã luôn động viên giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu khoa học. Xin chân thành cảm ơn! Xuân hòa, ngày tháng năm 2016 Sinh viên Phạm Thị Thủy LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan: Khóa luận này là công trình nghiên cứu thực sự của cá nhân, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của ThS.Nguyễn Văn Hiếu. Các số liệu, những nghiên cứu được trình bày trong khóa luận này trung thực và chưa từng được công bố dưới bất cứ hình thức nào. Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình. Xin chân thành cảm ơn! Xuân hòa, ngày tháng năm 2016 Sinh viên Phạm Thị Thủy MỤC LỤC LỜI CẢM ƠN LỜI CAM ĐOAN DANH MỤC BẢNG DANH MỤC HÌNH MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 1. Lí do chọn đề tài .......................................................................................... 1 2. Mục đích ....................................................................................................... 2 3. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn ...................................................... 2 3.1. Ý nghĩa khoa học ...................................................................................... 2 3.2. Ý nghĩa thực tiễn ...................................................................................... 3 CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU ........................................................ 4 1.1. Tình hình nghiên cứu bộ Phù du trên thế giới ...................................... 4 1.2. Tình hình nghiên cứu của bộ Phù du ở Việt Nam ................................ 8 1.3. Một số đặc điểm tự nhiên của VQG Hoàng Liên, tỉnh Lào Cai ........ 13 1.3.1. Vị trí địa lý ...................................................................................... 13 1.3.2. Đi ̣a hình........................................................................................... 14 1.3.3. Đi ̣a chấ t và thổ nhưỡng................................................................... 14 1.3.4. Khí hậu ............................................................................................ 14 1.3.5. Thủy văn .......................................................................................... 15 CHƢƠNG 2. THỜI GIAN, ĐỊA ĐIỂMVÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ................................................................................................................ 17 2.1. Thời gian nghiên cứu ............................................................................ 17 2.2. Địa điểm nghiên cứu ............................................................................. 17 2.3. Đối tƣợng và phƣơng pháp nghiên cứu. .............................................. 19 2.3.1. Đối tượng nghiên cứu ..................................................................... 19 2.3.2. Phương pháp nghiên cứu ................................................................ 20 2.3.3. Chỉ số Đa dạng sinh học ................................................................. 21 2.3.4. Xử lý số liệu..................................................................................... 22 CHƢƠNG 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN .................... 23 3.1. Đa dạng về loài của bộ Phù du ở á đai 1600-2600m tại VQG Hoàng Liên, tỉnh Lào Cai. ........................................................................................ 23 3.2. Loài ƣu thế và chỉ số đa dạng sinh học ................................................ 29 3.3. Phân bố của bộ Phù du theo tính chất dòng chảy trong mùa mƣa và mùa khô ở á đai 1600-2600m tại VQG Hoàng Liên, tỉnh Lào Cai. .......... 32 3.3.1. Phân bố của bộ Phù du theo tính chất dòng chảy ở mùa mưa tại địa điểm nghiên cứu .............................................................................................. 32 3.3.2. Sự phân bố của bộ Phù du theo tính chất dòng chảy ở mùa khô tại địa điểm nghiên cứu ........................................................................................ 35 3.4. Phân bố của bộ Phù du theo mùa ở á đai 1600-2600m tại VQG Hoàng Liên, tỉnh Lào Cai. ............................................................................ 37 KẾT LUẬN .................................................................................................... 45 TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC DANH MỤC BẢNG Bảng 3.1. Số lượng loài và giống của bộ Phù du tại địa điểm nghiên cứu ..... 23 Bảng 3.2. Loài ưu thế, chỉ số DI và H‟ ở mùa mưa tại khu vực nghiên cứu .. 29 Bảng 3.3. Loài ưu thế, chỉ số DI và H‟ ở mùa khô tại khu vực nghiên cứu ... 31 Bảng 3.4. Số lượng loài và số lượng cá thể bộ Phù du ở nơi nước chảy và nước đứng ở mùa mưa trên đơn vị diện tích 0,25 m2 ..................................... 33 Bảng 3.5.Số lượng loài và số lượng cá thể bộ Phù du ở nơi nước chảy và nước đứng ở mùa khô trên đơn vị diện tích 0,25 m2 ................................................ 35 Bảng 3.6. Số lượng loài bộ Phù du ở mùa mưa và mùa khô tại khu vực nghiên cứu ................................................................................................................... 38 Bảng 3.7. Thành phần loài của bộ Phù du tại khu vực nghiên cứu ................ 40 DANH MỤC HÌNH Hình 3.1.Tỉ lệ % số loài theo họ thuộc bộ Phù du tại khu vực nghiên cứu .... 24 Hình 3.2.Mật độ phân bố số loài (loài/0,25m2) theo tính chất dòng chảy tại các điểm khảo sát ở mùa mưa ......................................................................... 33 Hình 3.3. Mật độ phân bố số cá thể (cá thể/0,25m2) theo tính chất dòng chảy tại các điểm khảo sát ở mùa mưa .................................................................... 34 Hình 3.4.Mật độ phân bố số loài (loài/0,25m2) theo tính chất dòng chảy tại các điểm khảo sát ở mùa khô. ......................................................................... 36 Hình 3.5.Mật độ phân bố số cá thể (cá thể/0,25m2) theo tính chất dòng chảy tại các điểm khảo sát ở mùa khô. .................................................................... 36 Hình 3.6.Số lượng loài bộ Phù du ở mùa mưa và mùa khô tại khu vực nghiên cứu. .................................................................................................................. 39 MỞ ĐẦU 1.Lí do chọn đề tài Côn trùng nước có vai trò quan trọng trong hệ sinh thái các thủy vực cả nước đứng cũng như nước chảy. So với nhiều nhóm sinh vật khác, côn trùng nước có nhiều đặc tính nổi trội như số lượng loài, số lượng cá thể lớn…đặc biệt chúng là những mắt xích không thể thiếu trong chuỗi và lưới thức ăn. Các loài côn trùng nước là những sinh vật tiêu thụ bậc 1, bậc 2 đồng thời lại là nguồn thức ăn của nhiều loài động vật có xương sống. Phần lớn Phù du đều có cấu tạo cơ thể thích nghi với đời sống bám hay bơi lội tự do. Ngoài ra ấu trùng của một số loài có tập tính đào hang ở dưới nền đáy bùn hay cát của các thủy vực và sống ở đó cho đến khi vũ hóa thành giai đoạn trưởng thành. Đặc biệt, có một số loài thích nghi với lối sống bám vào bề mặt của những khối hoặc viên đá trong thủy vực dạng suối. Giai đoạn ấu trùng của Phù du sống hoàn toàn trong nước, khi phát triển đầy đủ chúng chuyển lên mặt nước và vũ hóa bước vào giai đoạn trưởng thành. Thời gian sống của giai đoạn trưởng thành ngắn hơn giai đoạn ấu trùng rất nhiều, có loài chỉ tồn tại 1- 2 giờ sau khi vũ hóa. Con đực sẽ chết sau khi giao phối, còn con cái chết sau khi đẻ trứng và giai đoạn trưởng thành chủ yếu làm nhiệm vụ sinh sản. Thức ăn chủ yếu của ấu trùng Phù du là các chất mùn bã hữu cơ trong thuỷ vực hoặc các loài thực vật thuỷ sinh đặc biệt là các loài tảo. Cũng có một số loài Phù du ăn thịt tuy nhiên tỷ lệ các loài ăn thịt là không cao. Mặt khác chúng lại là nguồn thức ăn của cá và nhiều nhóm động vật có xương sống ở nước. Chính vì vậy, Phù du giữ một vị trí quan trọng trong hệ sinh thái. Bên cạnh đó, do có đời sống chuyển từ nước lên cạn và vòng đời ngắn nên chúng được sử dụng là một đối tượng lý tưởng trong các nghiên cứu về sinh học tiến hoá. Ngoài ra, những nghiên cứu gần đây đã khẳng định Phù du là những sinh 1 vật rất nhạy cảm với sự thay đổi của môi trường nước nên chúng đang được sử dụng làm sinh vật chỉ thị chất lượng môi trường nước. Với những ý nghĩa thực tiễn như vậy nên Phù du đang được quan tâm nghiên cứu ở Việt Nam. Trên thế giới đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về côn trùng nước, từ việc phân loại cho đến những nghiên cứu về tập tính, sinh thái, sinh sản, di truyền, tiến hóa….Ở Việt Nam, trong những năm gần đây côn trùng nước cũng đã được quan tâm nghiên cứu. Trong số các bộ thuộc côn trùng nước, bộ Phù du (Ephemeroptera) là bộ thường gặp ở các dạng thủy vực nước ngọt, đặc biệt là thủy vực dạng suối. Vườn quốc gia Hoàng Liên, tỉnh Lào Cai có hệ thống suối phong phú tạo điều kiện thuận lợi cho sự sinh sống, tồn tại và phát triển của các loài thuộc bộ Phù du. Á đai 1600-2600m là á đai khí hậu á chí tuyến gió mùa trên núi, đây là á đai chuyển tiếp từ khí hậu á nhiệt đới nên đai ôn đới. Tuy nhiên, việc nghiên cứu bộ Phù du ở á đai 1600-2600m vẫn chưa được nghiên cứu rõ. Vì vậy, tôi lựa chọn hướng nghiên cứu “Đa dạng sinh học bộPhù du (Ephemeroptera) ởá đai 1600-2600m tại Vƣờn quốc gia Hoàng Liên, tỉnh Lào Cai”. 2.Mục đích Mục đích nghiên cứu của đề tài là nghiên cứu đa dạng về loài của bộ Phù du,phân bố của bộ Phù du theo tính chất dòng chảy và theo mùa tại á đai1600-2600m thuộc địa phận Vườn quốc gia Hoàng Liên, tỉnh Lào Cai. 3.Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn 3.1.Ý nghĩa khoa học Đề tài cung cấp những dẫn liệu đa dạng về loài, phân bố theo tính chất dòng chảy và theo mùa của bộ Phù du ở á đai 1600-2600m thuộc địa phận Vườn quốc gia Hoàng Liên, tỉnh Lào Cai. 2 3.2.Ý nghĩa thực tiễn Kết quả của đề tài góp phần cung cấp những tư liệu phục vụ cho việc nghiên cứu về bộ Phù du sau này tại địa phận Vườn quốc gia Hoàng Liên, tỉnh Lào Cai. 3 CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 1.1.Tình hình nghiên cứu bộ Phù du trên thế giới Bộ Phù du là nhóm côn trùng có cánh cổ sinh. Chúng là mắt xích quan trọng trong hệ sinh thái và có mặt ở hầu hết các dạng thủy vực nước ngọt như: ao, hồ, sông và đặc biệt là ở các dòng suối thuộc vùng núi cao. Ấu trùng của bộ Phù du được phân biệt với các ấu trùng của những bộ côn trùng khác sống ở nước bởi sự có mặt của hàng lá mang ở hai bên phần bụng và cơ thể có 3 hoặc 2 tơ đuôi dài ở phía cuối cơ thể. Bộ Phù du (Ephemeroptera) là bộ côn trùng có cánh cổ sinh tương đối nguyên thủy, thậm chí còn được xem như một trong những tổ tiên của côn trùng. Dựa vào những bằng chứng hóa thạch, chúng có thể đã phát sinh vào giai đoạn cuối của kỷ Cacbon và đầu kỷ Pecmơ trong đại Cổ sinh, cách đây khoảng 290 triệu năm (Edmund, 1972) [14]. Các loài thuộc bộ Phù du được mô tả từ rất sớm. Công trình nghiên cứu đầu tiên về phân loại học Phù du là của nhà tự nhiên học nổi tiếng Lineaus (1758). Ông đã mô tả 6 loài Phù du tìm thấy ở châu Âu và xếp chúng vào một nhóm là Ephemera [23]. Vào thế kỷ XIX, Eaton (1871, 1881, 1883-1888, 1892) đã công bố hàng loạt các công trình nghiên cứu Phù du của mình, các công trình đã cung cấp những kiến thức cơ bản về Phù du như: mô tả các đặc điểm về mặt hình thái của cả giai đoạn ấu trùng và trưởng thành, những kiến thức này rất hữu ích cho việc xây dựng khóa định loại đến họ và giống của bộ Phù du [23]. Nghiên cứu về Phù du thực sự phát triển mạnh mẽ vào thế kỷ XX, điển hình là các công trình nghiên cứu của Ulmer (1920, 1924, 1925, 1932, 1933), Navás (1920, 1930), Lestage (1921, 1924, 1927, 1930), Needham và cộng sự 4 (1935). Edmunds (1963) đã xây dựng hệ thống phân loại đến họ thuộc bộ Phù du trên toàn thế giới. Ông đã đưa ra một bức tranh tổng thể về khóa phân loại bậc cao cũng như nguồn gốc phát sinh của Phù du. Theo Helen và cộng sự (2008), trên toàn thế giới đã xác định được khoảng 3046 loài thuộc 405 giống và 42 họ của bộ Phù du. Trong đó ở Châu Âu có khoảng 350 loài và Bắc Mỹ là 670 loài (Hubbard, 2008). Thành phần loài hay nói cách khác sự đa dạng về loài của Phù du ở các họ thể hiện rất khác nhau, có những họ chỉ có một loài như: Coryphoridae, Machadorythidae, Melanemerellidae, Siphluriscidae Pseudironidae, và Acanthametropodidae, Rallidentidae, Teloganellidae Ametropodidae, hoặc Siphlaenigmatidae, một Arthropleidae, vài loài như: Chromarcyidae, Ephemerythidae... hay có những họ có tới hàng trăm loài như Baetidae, Heptageniidae, Leptophlebiidae... Tuy nhiên những con số này chưa phản ánh hết mức độ đa dạng của Phù du vì còn nhiều khu vực trên thế giới vẫn chưa được khám phá hết, nhất là các khu vực nhiệt đới [15]. Trong các châu lục trên thế giới, nghiên cứu về bộ Phù du ở châu Á được các nhà khoa học rất quan tâm. Những nghiên cứu đầu tiên về Phù du ở đây được thực hiện bởi các nhà côn trùng học đến từ châu Âu như: Navás (1922, 1925), Lestage (1921, 1924) [23].Những nghiên cứu này là cơ sở và nền tảng thúc đẩy việc nghiên cứu về Phù du ở khu vực. Các kết quả nghiên cứu đã cho thấy, ở châu Á có khoảng 128 giống thuộc 18 họ của bộ Phù du (Hubbard, 1990; McCaffrty, 1991; McCaffrty & Wang, 1997, 2000; Dudgeon, 1999) [13]. Các nghiên cứu về khu hệ và phân loại học của bộ Phù du ở châu Á tập trung ở một số quốc gia như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và một số quốc gia trong khu vực Đông Nam Á [9], [16]. Trung Quốc là một trong số các quốc gia ở châu Á có sự đa dạng cao về loài của bộ Phù du và được quan tâm nghiên cứu từ rất sớm. Nghiên cứu 5 về bộ Phù du ở Trung Quốc được tiến hành cách đây khoảng hơn 2000 năm. Các ghi chép về Phù du có thể được tìm thấy trong “The book of Odes” [36].Đến cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI, hàng loạt các nghiên cứu về khu hệ và phân loại học của bộ Phù du ở Trung Quốc được công bố, trong đó phải kể đến các nghiên cứu của Gui và cộng sự (1985, 1992, 1996, 1997, 1999) [36]. Theo nghiên cứu của Bae (2001), tính đến năm 1999 đã xác định được 17 họ, 60 giống của khoảng 250 loài thuộc bộ Phù du ghi nhận được ở Trung Quốc [9]. Nghiên cứu của Zhou (2013) cho thấy tính đến năm 2012 đã ghi nhận được 21 họ, 304 loài thuộc bộ Phù du ở quốc gia này [36]. Như vậy, số lượng loài thuộc bộ Phù du ở Trung Quốc tăng gần 1,5 lần từ năm 1999 đến 2012. Ở Đài Loan, các nghiên cứu về khu hệ và phân loại học của bộ Phù du cũng khá chi tiết và tương đối đầy đủ. Các nghiên cứu đầu tiên về bộ Phù du ở Đài Loan được nghiên cứu bởi Ulmer (1912), tiếp theo là các nghiên cứu của Edmunds (1978), sau này là các nghiên cứu của Liebenau (1985). Đặc biệt, trong giai đoạn gần đây các nghiên cứu của Kang và Yang từ năm 1993 đến năm 1996 đã cho thấy một bức tranh khá chi tiết về đa dạng sinh học của bộ Phù du ở Đài Loan. Dựa trên cơ sở các nghiên cứu được công bố trước đây và các nghiên cứu mới, Soldán và Yang (2003), đã ghi nhận được khu hệ Phù du ở Đài Loan có 65 loài thuộc 28 giống và 9 họ (Baetidae, Ameletidae, Isonychiidae, Heptageniidae, Leptophlebiidae, Ephemeridae, Potamanthidae, Ephemerellidae và Canidae). Trong đó họ Baetidae có số lượng giống và loài nhiều nhất với 8 giống, 21 loài. Trong 65 loài thu thập được có hai loài lần đầu tiên ghi nhận cho khu hệ là Habrophlebiodea gilliesi và Uracanthella rufa [35]. Thành phần loài Phù du ở Hàn Quốc lần đầu tiên được sắp xếp có hệ thống là vào năm 1994 bởi Yeon Jae Bae và cộng sự. Đến năm 1997 danh sách này đã có sự sửa đổi và bổ sung, kết quả cho thấy có khoảng 74 loài 6 thuộc 12 họ của bộ Phù du ở Hàn Quốc. Đến năm 2010, dựa trên các kết quả nghiên cứu của Yeon Jae Bae và cộng sự, thành phần loài Phù du ở Hàn Quốc tiếp tục được bổ sung, nâng tổng số loài Phù du được phát hiện lên 80 loài [10]. Nghiên cứu về khu hệ côn trùng nước ở Nhật Bản được bắt đầu khá sớm bởi một số nhà khoa học đến từ châu Âu như: McLachlan (1875); Ueno (1928) và đặc biệt trong giai đoạn từ năm 1930 đến năm 1938, Imanishi là tác giả của nhiều côn trình nghiên cứu về khu hệ Phù du ở Nhật Bản. Từ năm 1979 đến 1980, Gose đã xây dựng khóa định loại bộ Phù du ở cả giai đoạn ấu trùng và con trưởng thành. Khóa định loại này vẫn được sử dụng ở Nhật Bản cho đến ngày nay. Tính đến năm 2001, có khoảng 101 loài thuộc 12 họ của bộ Phù du được ghi nhận ở Nhật Bản [9]. Tại khu vực Đông Nam Á, nghiên cứu của Hubbard và Pescador (1978), nghiên cứu này tập trung vào xác định sự đa dạng về loài của bộ Phù du ở Philippin, qua đó các tác giả đã xác định được 20 loài thuộc 12 giống và 7 họ của bộ Phù du ở Philippin, bảy họ này gồm: Baetidae, Heptegeniidae, Ephemerellidae, Tricorythidae, Caenidae, Prosopistomatidae và Ephemeridae [18]. Trong khoảng thời gian từ năm 1995 đến năm 1997, Robert W. Sites và cộng sự đã tiến hành thu thập mẫu vật Phù du ở 10 tỉnh miền Nam Thái Lan. Kết quả cho thấy, tại khu vực nghiên cứu đã xác định được khoảng 52 loài thuộc 28 giống của 13 họ trong bộ Phù du. Đồng thời các tác giả cũng đã xây dựng khóa định loại tới họ và giống của bộ Phù du tại khu vực này [34]. Đặc biệt, từ năm 2000 trở lại đây hàng loạt các nghiên cứu về khu hệ và phân loại học của Phù du ở khu vực Đông Nam Á được công bố. Trong đó đáng chú ý là các nghiên cứu của Nguyen (2003), Nguyen và Bae (2003, 2004) [23],Hwang và Bae (2008) [16]; Braasch và Boosoong (2010) [11]. 7 Như vậy các nghiên cứu về khu hệ và phân loại học của bộ Phù du ở khu vực châu Á tập trung chủ yếu ở khu vực Đông Á và Đông Nam Á nơi có hệ thống các thủy vực đa dạng và phong phú đặc biệt là các thủy vực dạng suối, điều kiện khí hậu, thời tiết thuận lợi cho sự sinh trưởng và phát triển của bộ Phù du. 1.2.Tình hình nghiên cứu của bộ Phù du ở Việt Nam Những nghiên cứu đầu tiên về Phù du ở Việt Nam được thực hiện vào đầu thế kỉ XX với các nhà khoa học nước ngoài. Mở đầ u là nghiên c ứu của nhà côn trùng họ c Lestage (1921, 1924), ông đã mô t ả một loài mới của bộ Phù du cho khoa học, dựa vào mẫu vật được lưu giữ ở bảo tàng Pari (mẫu vật thu được ở miền Bắc Việt Nam). Tiếp đó, Navás (1922, 1925) đã công bố hai loài Ephemera longiventris và Ephemera innotata, cũng dựa trên các m ẫu vật thu được ở miền Bắc Việt Nam [23]. Đặng Ngọc Thanh (1980), xác định khu hệ Phù du ở Bắc Việt Nam bao gồm 54 loài, 29 giống thuộc 13 họ khác nhau. Tuy nhiên trong số này chỉ có 13 loài là được định tên đầy đủ tên khoa học, số còn lại chỉ ở mức độ giống. Trong nghiên cứu này, tác giả đã mô tả hai loài cho khoa học đó là Thalerosphyrus vietnamensis và Neopheieridaecuaraoensis [2]. Braasch and Soldán (1984, 1986, 1988) đã mô tả 10 loài mới thuộc họ Heptageniidae cho khu hệ Phù du ở Việt Nam, có 2 giống mới là Asionurus và Trichogeniella [23]. Nguyễn Văn Vịnh (2003), đã xác định được 102 loài thuộc 50 giống và 14 họ Phù du ở Việt Nam. Trong đó, có 23 loài đã được biết đến trong các nghiên cứu trước, 30 loài lần đầu tiên được ghi nhận ở Việt Nam, 37 loài mới cho khoa học và 12 loài dự đoán là loài mới cho Việt Nam. Trong nghiên cứu này, tác giả đã xây dựng khóa định loại và mô tả đặc điểm hình dạng ngoài 8 của các loài thuộc bộ Phù du ở Việt Nam, nghiên cứu này là cơ sở để phục vụ cho các hướng nghiên cứu tiếp theo về bộ Phù du ở nước ta [23]. Những nghiên cứu gần đây về bộ Phù du ở Việt Nam chủ yếu tập trung nghiên cứu đa dạng về loài dựa trên các mẫu vật thu được ở một số VQG và Khu Bảo tồn thiên nhiên của nước ta. Cụ thể như sau: Nguyễn Văn Vịnh, Hoàng Đức Huy, Cao Thị Kim Thu, Nguyễn Xuân Quýnh và Bae Yeon Jae (2001) đã xác định được 39 loài thuộc 7 họ của bộ Phù du ở suối Thác Bạc thuộc VQG Tam Đảo. Đó là các họ Baetidae, Caenidae, Ephemerellidae, Ephemeridae, Heptaheniidae, Isonychiidae và Leptophlebiidae. Trong các họ thu được thì họ Baetidae, Heptageniidae và Leptophlebiidae có sự phân bố khá rộng, trong khi đó các loài thuộc họ Isonychiidae lại có sự phân bố tương đối hẹp [21]. Nguyễn Văn Vịnh (2004), khi nghiên cứu về Phù du ở VQG Tam Đảo đã xác định được 32 loài thuộc 24 giống và 8 họ. So với nghiên cứu của chính tác giả trước đó (2001), trong nghiên cứu này tác giả đã bổ sung thêm một họ là họ Austremerellidae cho khu vực nghiên cứu. Trong 32 loài đã định loại được có 10 loài lần đầu tiên ghi nhận cho khu hệ động vật Việt Nam cũng như VQG Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc là Choroterpes trifurcata, Habrophlebiodes prominens thuộc họ Leptophlebiidae; Ephemera serica thuộc họ Ephemeridae; Cincticistella boja, Serratella albostriata và Torleya arenosa thuộc họ Ephemerellidae; Caenis cornigera thuộc họ Caenidae; Isonychia formosana thuộc họ Isonychiidae và 2 loài Baetiella trispinata, Platybaetis edmundsi thuộc họ Baetidae. Bên cạnh việc nghiên cứu về loài, tác giả còn nghiên cứu sự phân bố của các loài thuộc bộ Phù du theo độ cao [5]. Nguyễn Văn Vịnh, Bùi Thanh Vân, Phạm Đức Thắng (2007), trong kết quả nghiên cứu bước đầu điều tra thành phần loài Phù du tại VQG Bi Doup - 9 Núi Bà, tỉnh Lâm Đồng, đã xác định được 48 loài thuộc 30 giống và 7 họ của bộ Phù du. Trong đó họ Heptageniidae chiếm ư thế với 10 giống và 16 loài, họ Ephemerellidae có 5 giống với 12 loài, họ Baetidae 7 giống và 11 loài, họ Leptophlebiidae 4 giống và 5 loài, họ Caenidae 2 giống 2 loài và hai họ Ephemeridae và Teloganodidae mỗi họ có 1 giống và 1 loài [20]. Nguyễn Văn Vịnh (2008), trong nghiên cứu về thành phần loài của bộ Phù du (Ephemeroptera) ở VQG Bạch Mã, Thừa Thiên - Huế, đã xác định được 56 loài thuộc 33 giống và 11 họ đồng thời các tác giả cũng nhận xét về sự phân bố của bộ Phù du theo độ cao tại khu vực nghiên cứu. Trong đó loài Roenanthus distafurcus lần đầu tiên phát hiện ở Việt Nam, loài này chỉ gặp ở độ cao từ 66 - 74m [7]. Cao Thị Kim Thu, Nguyễn Văn Vịnh và Yeon Jae Bae (2008) khi nghiên cứu về khu hệ côn trùng nước ở VQG Bạch Mã, tỉnh Thừa Thiên Huế đã ghi nhận được 37 loài thuộc 11 họ của bộ Phù du. Trong đó họ Baetidae có số lượng loài nhiều nhất với 10 loài, các họ Austremerellidae, Isonychiidae, Polymitarcyidae và họ Teloganellidae mỗi họ chỉ thu được 1 loài [12]. Nguyễn Văn Vịnh và cộng sự (2012) khi nghiên cứu đa dạng của nhóm côn trùng nước tạo VQG Ba Vì, Hà Nội đã ghi nhận được 31 loài thuộc bộ Phù du (chiếm 18,7% tổng số loài thu được). Bộ Phù du cũng là bộ có số lượng loài nhiều nhất trong các bộ côn trùng nước thu được ở khu vực nghiên cứu [31]. Nguyễn Văn Vịnh, Dương Văn Cường, Trần Anh Đức (2014) đã xác định được 49 loài thuộc 34 giống 12 họ của bộ Phù du tại VQG Xuân Sơn, tỉnh Phú Thọ. Kết quả phân tích cho thấy họ Baetidae có số lượng giống và loài cao nhất với 8 giống và 11 loài; họ Heptageniidae có 8 giống và 10 loài; họ Ephemerellidae có 5 giống, 7 loài; họ Leptophlebiidae với 4 giống, 9 loài; 10 họ Potamanthidae có 2 giống, 2 loài; họ Ephemeridae có 1 giống, 3 loài; họ Caenidae với 1 giống, 2 loài. Các họ Teloganodidae, Polymitarcyidae, Neoephemeridae, Isonychiidae và Austremerellidae mỗi họ chỉ có 1 giống, 1 loài [8]. Nguyễn Văn Vịnh, Lê Thùy Trang, Ngô Xuân Nam, Nguyễn Quốc Huy (2014) khi nghiên cứu khu hệ côn trùng nước tại Khu Bảo tồn thiên nhiên Pù Luông, tỉnh Thanh Hóa đã xác định được 40 loài thuộc bộ Phù du. Trong đó, họ Baetidae và họ Heptegeniidae có số lượng loài nhiều nhất, lần lượt là 11 loài và 9 loài. Họ Polymitarcyidae và họ Potamanthidae có số lượng loài ít nhất. Mỗi họ chỉ thu được một loài là Polyplocia orientalis thuộc họ Polymitarcyidae và loài Rhoenanthus magnificus thuộc họ Potamanthidae. Loài Polyplocia orientalis thu được ở các điểm thuộc đầu nguồn của suối, trong khi đó loài Rhoenanthus magnificus chỉ thu được ở các điểm thuộc cuối nguồn của suối [32]. Các nghiên cứu của Mai Phú Quý, Hoàng Đình Trung, Lê Trọng Sơn (2011) đã cung cấp những dẫn liệu ban đầu về khu hệ phù du ở VQG Bạch Mã [4]. Lê Trọng Sơn, Hoàng Đình Trung, Tăng Thị Hương (2011) đã xác định được 32 loài thuộc 21 giống, 6 họ của bộ Phù du ở vùng Hải Vân, tỉnh Thừa Thiên - Huế. . Tiếp theo các nghiên cứu trên, Hoàng Đình Trung, Lê Trọng Sơn, Mai Phú Quý (2011) đã ghi nhận được 27 loài thuộc 14 giống và 8 họ của bộ Phù du tại vùng ven VQG Bạch Mã, tỉnh Thừa Thiên - Huế. Hoàng Đình Trung (2012) đã cung cấp dẫn liệu tương đối đầy đủ về thành phần loài của bộ Phù du ở khu vực Bạch Mã - Hải Vân, tỉnh Thừa Thiên Huế. Theo nghiên cứu trên đã xác định được 68 loài thuộc 40 giống, 13 họ của bộ Phù du cho khu vực nghiên cứu [1]. Bên cạnh vệc nghiên cứu về khu hệ, các nhà khoa học còn đi sâu nghiên cứu về phân loại học của bộ Phù du. Đặc biệt từ năm 2000 trở lại đây 11 hàng loạt các loài mới cho khoa học và loài lần đầu tiên ghi nhận cho khu hệ Phù du ở nước ta được các nhà khoa học trong và ngoài nước công bố. Trong đó phải kể đến các nghiên cứu của Nguyễn Văn Vịnh, Yeon Jae Bae và Nisarat Tungpairojwong. Nguyễn Văn Vịnh và Yeon Jae Bae (2003) đã công bố 5 loài mới thuộc bộ Phù du cho khoa học dựa trên các mẫu vật thu được ở nước ta, bao gồm 1 loài thuộc họ Neoephemeridae là Potamanthelus unicutibius, 1 loài thuộc họ Polymitarcyidae là Polyplocia orientalis, 1 loài thuộc họ Leptophlebiidae là Isca fascia và 2 loài là Afronurus meo và Afronurus mnong thuộc họ Heptageniidae [22]. Nguyễn Văn Vịnh và Yeon Jae Bae (2005) lần đầu tiên ghi nhận 2 loài thuộc họ Heptageniidae ở nước ta là Compsoneuriella thienemanni và Rhithrogena parva. Đồng thời, các tác giả đã mô tả đặc điểm phân loại của loài Isonychia formosana, mẫu vật của loài này thu thập được ở các tỉnh: Hà Giang, Cao Bằng, Đắc Lắc, Vĩnh Phúc, Lâm Đồng [6], [24]. Nguyễn Văn Vịnh và Yeon Jae Bae (2006) đã hệ thống lại và xây dựng khóa định loại tới loài dựa trên giai đoạn ấu trùng của các loài thuộc họ Pothamanthidae ở nước ta. Cũng trong thời gian này, các tác giả đã ghi nhận thêm 3 loài thuộc họ Ephemerellidae ở nước ta là Cincticostella boja, Cincticostella goseivà Cincticostella insolta, các đặc điểm để phân loại 3 loài trên ở giai đoạn ấu trùng cũng được các tác giả mô tả cụ thể và chi tiết [25], [26]. Tiếp tục các nghiên cứu về họ Ephemerellidae, Nguyễn Văn Vịnh và Yeon Jae Bae (2007) đã công bố các nghiên cứu của mình về giống Torleya và Ephacerella ở Việt Nam. Đây là cơ sở khoa học quan trọng trong việc nghiên cứu họ này ở nước ta [27], [28]. Nguyễn Văn Vịnh và Yeon Jae Bae (2008) lần đầu tiên ghi nhận và mô tả đặc điểm phân loại dựa vào giai đoạn trưởng thành của 2 loài thuộc họ 12 Polymitarcyidae là Ephoron indicus và Povilla campodjensis ở Việt Nam. Mẫu vật của 2 loài trên đều thu được ở tỉnh Đắc Lắc. Trong thời gian này, các tác giả cũng đã mô tả đặc điểm phân loại dựa vào giai đoạn ấu trùng của hai loài Ecdyonurus landai và Ecdyonurus cervina thuộc họ Heptageniidae ở Việt Nam [29], [30]. Bên cạnh các nghiên cứu của Nguyễn Văn Vịnh và Yeon Jae Bae, nghiên cứu của Nisarat (2006) cũng đã công bố 1 loài mới cho khoa học là loài Procloeon spinosum thuộc họ Baetidae dựa trên mẫu vật thu được ở một số tỉnh thuộc phía Bắc của nước ta [33]. So với nhiều bộ côn trùng nước khác, bộ Phù du ở Việt Nam đã được nghiên cứu một cách có hệ thống và khá đầy đủ. Tuy nhiên, các nghiên cứu về bộ Phù du ở nước ta mới chỉ tập trung vào việc nghiên cứu về khu hệ và phân loại học dựa vào hình thái ngoài của giai đoạn ấu trùng. Các nghiên cứu về sinh học, sinh thái học, phân loại học dựa vào giai đoạn trưởng thành và ứng dụng của bộ này vẫn chưa được quan tâm nghiên cứu nhiều. 1.3.Một số đặc điểm tự nhiên của VQG Hoàng Liên, tỉnh Lào Cai 1.3.1.Vị trí địa lý Vườn Quố c gia Hoàng Liên nằ m trong khu vực Tây Bắ c Viê ̣t Nam , có vị trí địa lý từ 22°9‟- 23°30‟ đô ̣ vi ̃ Bắ c và 103°00 - 103°59‟ đô ̣ kinh Đông. Về điạ giới hành chin ́ h gồ m 6 xã: San Sản Hồ , Lao Chải , Tả Van , Bản Hồ , Mường Khoa, Thân Thuô ̣c thuô ̣c huyê ̣n Sa Pa và huyê ̣n Than Uyên , tỉnh Lào Cai. Diê ̣n tić h Vườn Quố c gia là 51.803 ha. Trong đó vùng lõi là 29.848 ha, là phầ n cuố i cùng của daỹ Himalaya cha ̣y do ̣c sông Hồ ng theo hướng Tây Bắ c Đông Nam [3]. 13
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan