Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Địa lý Yếu tố nhiệt của khí hậu việt nam trong thi học sinh giỏi quốc gia (2)...

Tài liệu Yếu tố nhiệt của khí hậu việt nam trong thi học sinh giỏi quốc gia (2)

.DOC
21
175
68

Mô tả:

CHUYÊN ĐỀ: YẾU TỐ NHIỆT CỦA KHÍ HẬU VIỆT NAM TRONG THI HỌC SINH GIỎI QUỐC GIA PHẦN 1: CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN YẾU TỐ NHIỆT Trước khi hướng dẫn học sinh phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến yếu tố nhiệt của khí hậu Việt Nam yêu cầu học sinh nhắc lại kiến thức đại cương về nhiệt (thế nào là nhiệt độ không khí, nguồn cung cấp nhiệt cho không khí, cách đo nhiệt độ không khí, các nhân tố ảnh hưởng đến nhiệt độ không khí, sự phân bố nhiệt độ không khí trên Trái Đất) 1. Vĩ độ Toàn bộ lãnh thổ Việt Nam phần đất liền nằm hoàn toàn trong vùng nội chí tuyến Bắc bán cầu. Điểm cực Bắc nằm sát chí tuyến Bắc còn điểm cực Nam chỉ cách Xích đạo hơn 80 vĩ tuyến khiến cho Mặt Trời luôn nằm cao trên đường chân trời và qua thiên đỉnh lúc giữa trưa tại mỗi địa phương 2 lần trong năm. Lượng bức xạ tổng cộng thường đạt 110-130 kcal/cm2/năm, cán cân bức xạ đạt 85-110 kcal/cm 2/năm đều vượt và đạt chỉ số của khí hậu nhiệt đới. Vì thế nhiệt độ trung bình năm nước ta cao, thường từ 22250C, tổng nhiệt hàng năm thường đạt 80000C -90000C Do lãnh thổ nước ta kéo dài trên khoảng 15 độ vĩ tuyến, miền Bắc gần chí tuyến còn miền Nam gần Xích đạo hơn, nhiệt độ cao và ổn định hơn nên đây là một trong những nguyên nhân khiến nhiệt độ nước ta có sự phân hóa Bắc Nam 2. Gió Nhiệt độ của nước ta còn thay đổi tùy theo hoạt động gió cùng với tính chất của nó (gió mùa Đông Bắc, gió Tín phong, gió Lào, gió Tây Nam, …). Gió mùa Đông Bắc thổi vào nước ta từ tháng 11- tháng 4 năm sau, xuất phát từ áp cao Xibia gây nên thời tiết lạnh, nhiệt độ trong các tháng mùa đông hạ thấp, nhất là ở Đông Bắc và Đồng bằng sông Hồng làm cho miền Bắc không đạt chỉ tiêu khí hậu nhiệt đới (xem bảng 1). Càng vào Nam, gió Đông Bắc càng yếu dần và bị biến tính. Sau vĩ tuyến 160B xem như không còn tác động của gió mùa Đông Bắc nên hệ quả chế độ nhiệt thay đổi theo hướng Bắc Nam: nhiệt độ trung bình năm giảm dần từ Nam ra Bắc, sự chênh lệch nhiệt độ trung bình năm giữa miền Bắc và miền Nam thấp hơn nhiều so với sự chênh lệch nhiệt độ trung bình tháng lạnh nhất giữa miền Bắc và miền Nam. Gió mùa Đông Bắc cũng là nguyên nhân chủ yếu làm biên độ nhiệt tăng dần từ Nam ra Bắc, biên độ nhiệt tuyệt đối ở phía Bắc thấp nhiều hơn so với phía Nam. 1 Bảng 1: Nhiệt độ không khí trung bình các tháng 12, 1, 2, 3 ở một số địa phương chịu tác động của gió mùa Đông Bắc, năm 2011 Địa phương Sơn La Tuyên Quang Hà Nội Vinh 0 0 0 Nhiệt độ trung bình tháng 12 14,7 C 16,5 C 17,4 C 17,10C Nhiệt độ trung bình tháng 1 11,70C 12,50C 12,80C 14,20C Nhiệt độ trung bình tháng 2 16,70C 17,60C 17,70C 17,70C Nhiệt độ trung bình tháng 3 16,40C 170C 17,10C 16,90C Gió Lào gây ra thời tiết khô nóng cho duyên hải miền Trung, nhiệt độ có thể lên 0 tới 37 C. Gió Lào thổi là nguyên nhân chính khiến nhiệt độ các tháng đầu mùa hạ của duyên hải miền Trung (như Vinh, Qui Nhơn) nhiệt độ tăng cao vượt cả khu vực Nam Bộ (như Cà Mau) – mặc dù Nam Bộ là nơi nằm ở gần Xích đạo hơn (xem bảng 2). Bảng 2: Nhiệt độ trung bình tháng 6, 7 ở một số địa phương năm 2011 Địa phương Vinh Qui Nhơn Cà Mau 0 0 Nhiệt độ trung bình tháng 6 30,5 C 30,5 C 280C Nhiệt độ trung bình tháng 7 29,70C 30,40C 27,70C Tín phong Bắc bán cầu thổi xen kẽ với gió mùa Đông Bắc làm xuất hiện kiểu thời tiết nắng ấm, nhiệt độ tăng cao trong mùa Đông cho miền Bắc khi gió mùa Đông Bắc bị suy yếu. Gió này cũng gây mùa khô sâu sắc với nền nhiệt độ cao cho Tây Nguyên và Nam Bộ từ tháng 11 đến tháng 4 (năm sau) Đối với gió mùa mùa hạ, do đặc tính của khối khí này là nóng ẩm nên làm cho nhiệt độ trung bình của nước ta khá cao, trung bình từ 26 0C-290C, nhiệt độ tối cao có thể lên tới 300C-350C, nhiệt độ tối thấp lên tới khoảng 220C-280C. 3. Địa hình Xét về nhân tố độ cao địa hình, địa hình nước ta ¾ diện tích là đồi núi, tính phân bậc địa hình khá rõ nên theo qui luật đai cao nhiệt độ nước ta có sự phân hóa rõ rệt theo độ cao. Nha Trang (12013’B-6m) và Đà Lạt (11057’B-1500m) mặc dù có vĩ độ gần tương đương nhưng do Đà Lạt có độ cao lớn hơn nên nhiệt độ lại thấp hơn Nha Trang. Sapa (22020’B, 1581m) và Lai Châu (22 003’B, 244m) ở vĩ độ xấp xỉ nhau nhưng do Sapa nằm ở độ cao cao hơn nên nhiệt độ trung bình năm chỉ là 15,2 0C thấp hơn Lai Châu (22,60C) Tuy nhiên do bị chi phối bởi gió mùa Đông Bắc nên sự giảm sút nhiệt độ theo độ cao ở phía Bắc nhanh hơn phía Nam: ví dụ Sa Pa và Đà Lạt mặc dù nằm ở độ cao tương đương nhau (Sapa cao 1581m, Đà Lạt 1500m) nhưng nhiệt độ trung bình năm, nhất là nhiệt độ trung bình các tháng mùa đông của Sapa thấp hơn hẳn Đà Lạt (nhiệt độ trung bình năm của Đà Lạt là 1803 còn Sapa là 1502). Do ảnh hưởng của hướng các dãy núi đối với các luồng gió mùa trong năm dẫn đến chế độ nhiệt nước ta có sự phân hóa Bắc-Nam, Tây-Đông. 2 Dãy Hoành Sơn và Bạch Mã chạy theo hướng Tây Đông đâm ngang ra biển ở vĩ tuyến 160B như bức tường thành góp phần làm cho gió mùa Đông Bắc không thể xâm nhập xuống miền Nam nước ta và làm cho miền này không có mùa đông lạnh. Ở miền núi phía Bắc, do ảnh hưởng của hướng địa hình khiến cho chế độ nhiệt giữa Đông Bắc và Tây Bắc cũng có sự khác biệt. Tây Bắc có mùa đông đến muộn và kết thúc sớm còn Đông Bắc có mùa đông đến sớm kết thúc muộn. Sở dĩ như vậy vì do Đông Bắc có các cánh cung mở rộng về phía Bắc hút gió mùa Đông Bắc lạnh còn Tây Bắc bị dãy Hoàng Liên Sơn cao chắn gió, nếu gió mùa Đông Bắc vượt qua dãy núi cao này thì cũng đã bị biến tính. 4. Mặt Trời lên thiên đỉnh Cùng nằm ở trong khu vực nội chí tuyến nhưng chế độ nhiệt ở hai miền Nam và Bắc lại khác nhau: miền Nam có hai tối đa và hai tối thiểu (dạng xích đạo) còn miền Bắc chỉ có một tối đa và một tối thiểu (dạng nhiệt đới hay dạng chí tuyến). Lí do vì sao? Việt Nam nằm hoàn toàn trong vùng nội chí tuyến Bắc bán cầu nên tất cả các địa điểm trên lãnh thổ nước ta đều có hiện tượng Mặt Trời lên thiên đỉnh 2 lần trong năm. Tuy nhiên khoảng cách giữa hai lần Mặt Trời lên thiên đỉnh ở miền Nam khá lớn (khoảng cách giữa hai lần Mặt trời lên thiên đỉnh tăng dần từ Bắc vào Nam - ở cao nguyên Đồng văn chỉ cách nhau vài ngày còn ở bán đảo Cà Mau khoảng cách này là gần 5 tháng) nên chế độ nhiệt có dạng xích đạo, trong năm có hai lần nhiệt độ cao nhất vào tháng 4, tháng 8 và hai lần nhiệt độ thấp nhất vào tháng 6 và tháng 12. Càng lên phía Bắc, hai lần Mặt Trời lên thiên đỉnh càng gần nhau và thành một lần ở chí tuyến Bắc nên chế độ nhiệt ở miền Bắc có dạng nhiệt đới với một tối đa và một tối thiểu (một lần nhiệt độ cao nhất vào tháng 6, tháng 7 và có một lần nhiệt độ thấp nhất thường vào tháng 12 hoặc tháng 1) Yếu tố Mặt Trời lên thiên đỉnh cũng ảnh hưởng đến nhiệt độ trung bình của các địa phương. Điều này giúp chúng ta hiểu được vì sao những ngày nóng nhất trong năm ở Tp. Hồ chí Minh và Nam Bộ nói chung đều rất sớm từ tháng tư còn ở Hà Nội và Đồng bằng sông Hồng thì những ngày nắng gay gắt nhất là ở cuối tháng năm và trung tuần tháng bảy 5. Các yếu tố khác Nhiều yếu tố tự nhiên khác cũng ảnh hưởng không nhỏ đến yếu tố nhiệt của khí hậu Việt Nam như mưa, biến đổi khí hậu toàn cầu, vị trí địa lí và hình dáng lãnh thổ, mức độ đô thị hóa, rừng, … Tp. Hồ Chí Minh nhiệt độ cao nhất vào tháng tư ngoài nguyên nhân do yếu tố Mặt Trời lên thiên đỉnh còn do tác động của lượng mưa, đây là tháng có lượng mưa thấp gần nhất trong năm. Biến đổi khí hậu toàn cầu làm nhiệt độ của Trái Đất và Việt Nam tăng lên. Trong vòng 50 năm từ 1958-2007 nhiệt độ tăng 0,5 0C-0,70C, trong đó nhiệt độ trung bình năm của bốn thập kỉ gần đây (1961-2000) cao hơn nhiệt độ trung bình năm của ba thập kỉ 3 trước đó (1931-1960), nhiệt độ mùa đông tăng nhanh hơn mùa hè và nhiệt độ của vùng khí hậu phía Bắc tăng nhanh hơn vùng phía Nam. Hình dáng lãnh thổ hẹp ngang, kéo dài với ba mặt giáp biển góp phần làm cho chế độ nhiệt nước ta điều hòa hơn so với nhiều nước khác cùng vĩ độ ở Bắc Phi, Tây Nam Á, nhất là biên độ nhiệt giữa ngày và đêm. Vùng nội thành của các thành phố lớn (Hà Nội, Tp. Hồ Chí Minh), do dân cư tập trung với mức độ cao, hoạt động giao thông vận tải và công nghiệp thải ra khí quyển nhiều khí CO2, mức độ bê tông hóa cao cũng góp phần làm nhiệt độ cao hơn các vùng lân cận. PHẦN 2: CÁC TRỊ SỐ NHIỆT Các trị số nhiệt cần phân tích và làm rõ bao gồm: nhiệt độ trung bình năm, nhiệt độ tối đa, nhiệt độ tối thiểu và biên độ nhiệt. Đây là các căn cứ để phân tích đặc điểm chế độ nhiệt nước ta 1. Nhiệt độ trung bình năm Bảng 3: Nhiệt độ trung bình năm của một số địa điểm Địa điểm Nhiệt độ trung Địa điểm Nhiệt độ trung 0 bình năm C bình năm0C Hà Nội (21001’B) 23,50C Cancutta (22032’B) 26,40C Vinh (18040’B) 23,90C Viên Chăn (17057’B) 25,70C Huế (16024’B) 25,20C Rangun (16046’B) 27,40C Qui Nhơn (13046’B) 26,80C Băng Cốc (13045’B) 28,10C Tp.Hồ Chí Minh 27,10C Phnom Pênh (11033’B) 27,90C (10049’B) Nhiệt độ trung bình năm trên toàn quốc đều lớn hơn 200C (trừ vùng núi cao), điều đó phù hợp với lượng nhiệt của Mặt Trời ở miền nhiệt đới. Nhưng tuy nhiên nếu đối chiếu với tiêu chuẩn về nền nhiệt của vùng nội chí tuyến thì nước ta thường thấp hơn so với các nước cùng vĩ độ khác ở Bắc Phi, Ấn Độ, Tây Nam Á (bảng 3). Bảng 4: Nhiệt độ trung bình tháng cao nhất, thấp nhất của một số địa điểm Địa điểm Nhiệt độ trung bình tháng Nhiệt độ trung bình tháng cao nhất ( 0C) thấp nhất ( 0C) Huế (16024’B) 29,40C 20,00C Rangun (16046’B) 30,40C 25,10C Vinh (18040’B) 29,60C 17,60C Viên Chăn (17057’B) 280C 21,20C Lạng Sơn (21051’B) 27,00C 13,30C Cancutta (22032’B) 30,60C 19,60C Quan sát bảng 4 ta thấy nếu so sánh nhiệt độ trung bình tháng cao nhất thì nhìn chung nước ta tương đương hoặc chênh lệch không đáng kể với các nước cùng vĩ độ. 4 Nhưng nếu xét đến nhiệt độ trung bình tháng thấp nhất thì nước ta thấp hơn hẳn vài độ, thậm chí vào mùa đông nền nhiệt độ của miền Bắc nước ta được xem như có mùa đông lạnh nhất so với các nước nước có cùng vĩ tuyến. 2. Nhiệt độ tối đa và tối thiểu Nhiệt độ cao nhất tuyệt đối của nước ta thường khoảng 40 0C-430C, nếu so sánh với các nước cùng vĩ độ thì đây là con số thấp. Ta có thể thấy ở các sa mạc và bán sa mạc Bắc Phi những trị số nhiệt cao nhất trong mùa hạ có thể lên tới hơn 50 0C. Xét về trị số nhiệt độ cao nhất tuyệt đối thì Đồng bằng sông Cửu Long không phải là cao nhất (mặc dù đây là nơi gần Xích đạo) mà là các địa phương chịu ảnh hưởng sâu sắc của gió phơn (như Đà Nẵng, Lai Châu) và hai đô thị lớn nhất cả nước. Bảng 5: Trị số nhiệt độ cao nhất tuyệt đối và thấp nhất tuyệt đối ở một số địa phương nước ta Địa điểm Nhiệt độ thấp nhất tuyệt đối Nhiệt độ cao nhất tuyệt đối Lào Cai 1,40C 40,10C Lai Châu 3,40C 42,50C Lạng Sơn -1,80C 39,80C Tuyên Quang 2,40C 39,60C Móng Cái 1,10C 39,10C Hà Nội 2,70C 42,80C Huế 8,80C 41,30C Đà Nẵng 10,20C 40,90C Quảng Ngãi 12,40C 41,40C Tp.Hồ Chí Minh 13,80C 40,00C Hà Tiên 15,40C 34,80C Xét về trị số nhiệt độ thấp nhất tuyệt đối: miền Bắc có trị số thấp hơn so với miền Nam. Mặc dù cùng vĩ độ tương đương với Tây Bắc nhưng Đông bắc có trị số nhiệt độ thấp nhất tuyệt đối còn nhỏ hơn khu vực Đông bắc (Lạng Sơn xuống thấp dưới 0 0C trong khi Lai Châu là hơn 30) do đây là nơi chịu ảnh hưởng sâu sắc nhất của gió mùa Đông Bắc. Như vậy nếu tính nhiệt độ trung bình thì Việt Nam cao đạt tiêu chuẩn của khí hậu nhiệt đới (>250C) nhưng nếu xét đến trị số nhiệt độ thấp nhất tuyệt đối thì trên lãnh thổ nước ta còn có cả những khi nhiệt độ hạ xuống thấp ở mức rất rét (dưới 10 0C) và thậm chí là có cả hiện tượng tuyết rơi (dưới 0 0C). Đây cũng là yếu tố độc đáo của khí hậu Việt Nam khác với các nước nhiệt đới cùng vĩ tuyến. Thông qua các trị số về nhiệt độ cao nhất tuyệt đối và thấp nhất tuyệt đối ta có thể thấy rằng chế độ nhiệt nước ta rất thất thường và phức tạp mà nguyên chính là do tác động của hoàn lưu gió mùa 3. Biên độ nhiệt Xét về biên độ nhiệt độ (cả biên độ trung bình năm và biên độ tuyệt đối) thì nơi nào chịu tác động của gió mùa Đông Bắc sẽ có biên độ nhiệt độ cao hơn. Vì thế biên độ 5 nhiệt ở ngoài Bắc lớn hơn trong Nam rất nhiều. Mặc dù cùng vĩ độ tương đương nhưng Đông Bắc thậm chí nằm gần ven biển hơn vẫn có biên độ nhiệt cao hơn Tây Bắc ở sâu trong nội địa (vì Đông Bắc là nơi chịu tác động của gió mùa Đông Bắc sâu sắc nhất nước ta). Bảng 6: Biên độ trung bình năm và biên độ tuyệt đối của một số địa phương nước ta Địa điểm Biên độ trung bình năm Biên độ tuyệt đối Lạng Sơn 13,70C 41,60C Lai Châu 9,40C 39,10C Hà Nội 12,50C 40,10C Thanh Hoá 12,00C 39,90C Vinh 12,00C 38,20C Huế 9,40C 32,50C Tp.Hồ Chí Minh 3,10C 26,20C Tuy nhiên so với các nước khác cùng vĩ độ thì biên độ nhiệt trung bình năm của nước ta vẫn cao hơn. Ví dụ Tp Vinh của nước ta và Tp. Viên Chăn của Lào có cùng vĩ độ tương đương nhưng biên độ nhiệt trung bình năm của Vinh vẫn lớn hơn (Vinh là 12,00C, Viên Chăn là 6,80C), hoặc Tp. Cancutta của Ấn Độ mặc dù cùng vĩ độ tương đương, độ cao bằng nhau (7m) với Lạng Sơn của nước ta nhưng biên độ nhiệt trung bình năm của Lạng Sơn vẫn cao hơn (Lạng Sơn là 13,7 0C, Cancutta là 110C). Biên độ nhiệt trung bình năm nước ta cao chủ yếu là do sự hạ thấp nhiệt độ trong mùa đông. Bảng 7: Biên độ nhiệt trung bình năm của một số địa điểm Địa điểm Biên độ nhiệt trung Địa điểm Biên độ nhiệt trung bình năm ( 0C) bình năm ( 0C) Huế (16024’B) 9,40C Rangun (16046’B) 5,30C Vinh (18040’B) 12,00C Viên Chăn 6,80C (17057’B) Lạng Sơn (21051’B) 13,70C Cancutta (22032’B) 110C PHẦN 3. ĐẶC ĐIỂM CHẾ ĐỘ NHIỆT Trên nền tảng khí hậu nhiệt đới với nhiệt độ cao thì chế độ nhiệt của nước ta diễn biến rất thất thường và có sự phân hóa không gian đa dạng do tác động của nhiều nhân tố khác nhau. I. Chế độ nhiệt nước ta mang tính chất nhiệt đới: Nước ta nằm trong khu vực có chế độ nhiệt thuộc vành đai nhiệt đới: nhiệt độ trung bình năm toàn lãnh thổ chủ yếu 20 - 240C và lớn hơn 240C (tiêu chuẩn nhiệt đới nhiệt độ phải lớn hơn 18 - 200C ). Đa số các trạm ở nước ta hầu hết là các tháng có nhiệt độ trên 20 0 C. Hà Nội có 9 tháng nhiệt độ lớn hơn 20 0 C, từ Đà Nẵng trở vào ở đồng bằng không có tháng nào nhiệt độ dưới 20 0 C 6 Chế độ nhiệt nước ta phần lớn mang tính chất nhiệt đới chỉ trừ một bộ phận nhỏ ở những vùng núi cao nằm trong thang nhiệt độ thấp dưới 18 0C. Các vùng núi cao đó là vùng núi cao Hoàng Liên Sơn và một phần vùng núi cao ở biên giới Việt-Trung, ViệtLào (do ảnh hưởng của độ cao địa hình và gió mùa Đông Bắc), vùng núi cao Kon Tum và cao nguyên Lâm Viên (do ảnh hưởng của yếu tố độ cao địa hình) II. Chế độ nhiệt có sự phân hóa. Sự phân hóa của chế độ nhiệt nước ta cũng tuân theo những qui luật địa lí chung của Trái Đất đó là qui luật địa đới (sự phân hóa theo vĩ độ-sự phân hóa Bắc Nam) và qui luật phi địa đới (sự phân hóa theo độ cao, phân hóa theo chiều Đông Tây). 1. Sự phân hóa theo vĩ độ (phân hóa Bắc Nam) Theo qui luật địa đới, nhiệt độ có sự giảm dần từ các vùng ở vĩ độ thấp lên các vùng ở vĩ độ cao. Ở nước ta sự phân hóa theo vĩ độ cũng được thể hiện rõ: biên độ nhiệt trung bình năm càng vào Nam (về phía vĩ độ thấp) càng giảm, nhiệt độ trung bình năm càng vào Nam càng nóng hơn, tính chất nhiệt đới càng rõ rệt và điển hình hơn Do lãnh thổ nước ta kéo dài trên 15 0 vĩ tuyến và quan trọng hơn là do gió mùa Đông Bắc nên nhiệt độ giảm dần từ Nam ra Bắc, trung bình khoảng 0,35 0C/1 độ vĩ tuyến. Nếu so với các nước nằm ở vĩ độ tương đương như nước ta mà không hoặc ít chịu tác động của gió mùa Đông Bắc thì tốc độ giảm nhiệt độ trung bình từ Nam ra Bắc của nước ta sẽ nhanh hơn (ví dụ: Ấn Độ chỉ giảm 0,04 0C/1 độ vĩ tuyến, Lào chỉ giảm 0,20C/1 độ vĩ tuyến). Thế nhưng thực ra sự giảm nhiệt độ trung bình năm từ Nam ra Bắc không phải đều là 0,350C/1 độ vĩ tuyến mà có sự khác nhau rõ rệt giữa hai miền Bắc và Nam. Ở miền Bắc mỗi vĩ độ giảm tới 0,41 0C còn miền Nam mỗi vĩ độ chỉ giảm 0,16 0C. Điều đó được lí giải bởi miền Bắc chịu ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc còn miền Nam thì hầu như không. Nguyên nhân thứ hai là do miền Nam nằm ở vĩ độ thấp hơn miền Bắc. Trong vùng vĩ độ thấp có nhiệt độ trung bình năm giảm chậm còn vùng vĩ độ cao có nhiệt độ trung bình năm giảm nhanh là do nhiệt độ phụ thuộc vào cường độ bức xạ Mặt trời mà cường độ bức xạ Mặt Trời lại phụ thuộc vào góc chiếu sáng- lượng nhiệt mà bề mặt Trái đất nhận được: I = I0.sin  (với  là góc chiếu sáng; I0 là lượng nhiệt lớn nhất và không đổi) nên I phụ thuộc vào sin  . Trong vùng vĩ độ thấp có góc chiếu sáng lớn quanh năm và thay đổi không nhiều nên tổng lượng nhiệt mà bề mặt Trái Đất nhận được thay đổi không đáng kể do sin  giảm chậm. Trong vùng vĩ độ cao có góc chiếu sáng nhỏ quanh năm và chênh lệch giữa các mùa lớn nên tổng lượng nhiệt mà bề mặt Trái đất nhận được giảm nhanh và chênh lệch nhiều giữa các tháng trong năm do sin  giảm nhanh. Nếu xem xét kĩ về nhiệt độ các mùa thì sự khác biệt giữa hai miền Bắc và Nam còn rõ hơn. Về mùa hạ nhiệt độ gần như đồng nhất trên khắp lãnh thổ: nhiệt độ trung bình tháng nóng nhất của Hà Nội là 28,9 0C (tháng 7), ở Huế là 29,40C (tháng 7) còn Tp. Hồ Chí Minh là Hà Nội là 28,90C (tháng 4); sở dĩ trong mùa hạ có sự thống nhất về 7 nhiệt độ do có sự đồng nhất về các khối khí tác động. Trái lại trong mùa đông gió mùa Đông Bắc lạnh xuất phát từ áp cao Xibia chỉ hoạt động ở phạm vi miền Bắc nên giữa miền Bắc và miền Nam có sự chênh lệch lớn về nhiệt độ trung bình tháng lạnh nhất (tháng 1). Giữa Hà Nội và Tp. Hồ Chí Minh chênh lệch nhau tới 9,4 0C, gần 10C/1 độ vĩ tuyến, từ Đà Nẵng trở vào phía Nam không có tháng nào nhiệt độ xuống đến 20 0C và dãy bạch Mã là ranh giới cuối cùng của miền có mùa đông lạnh Cũng có thể nhận biết sự phân hóa theo vĩ độ qua biến trình năm của chế độ nhiệt: ở khu vực miền Bắc do vị trí nằm gần chí tuyến nên biến trình nhiệt độ hàng năm có 1 cực đại và 1 cực tiểu rất rõ rệt mang tính chất chí tuyến (nhiệt đới). Trong khi đó khu vực Nam Bộ nước ta do gần Xích đạo hơn nên đã có dáng dấp của chế độ nhiệt với 2 cực đại và 2 cực tiểu Sự phân hóa của chế độ nhiệt còn thể hiện qua sự phân chia khí hậu nước ta thành hai miền là miền Bắc và miền Nam với ranh giới là dãy Bạch Mã. Miền Nam nhiệt độ trung bình năm trên 250C không có tháng nào nhiệt độ xuống dưới 20 0C, tổng nhiệt độ năm vượt quá 9300 0C, biên độ nhiệt năm thấp. Trong khi đó miền Bắc nước ta từ dãy Bạch Mã trở ra do chịu tác động của gió mùa Đông Bắc nên nhiệt độ trung bình năm thấp hơn, đồng bằng Bắc Bộ và vùng núi phía Bắc có mùa đông kéo dài 2-3 tháng (nhiệt độ <180C), tổng nhiệt hoạt động từ 75000C- 93000C, biên độ nhiệt >90C. Ngay trong từng miền khí hậu thì chế độ nhiệt cũng có sự phân hóa khá rõ theo chiều từ Bắc xuống Nam. Đối với Miền Bắc đặc điểm chế độ nhiệt của phía Bắc dãy Hoành Sơn (180B) có sự khác biệt với phía Nam của dãy Hoành Sơn. Trong khi từ dãy Hoành Sơn trở ra Bắc có mùa đông lạnh thì từ dãy Hoành Sơn trở vào Nam lại không còn mùa đông rõ rệt. Nguyên nhân là do dãy núi này làm giảm ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc xâm nhập xuống phía Nam, hơn nữa do gió mùa Đông Bắc di chuyển trên quãng đường dài nên dần bị biến tính. Đối với miền khí hậu phía Nam: nền nhiệt độ (thể hiện ở nhiệt độ trung bình năm và tổng nhiệt độ) đạt tiêu chuẩn khí hậu Xích đạo, quanh năm nhiệt độ trung bình các tháng đều trên 25 0C chỉ thể hiện rõ từ 140B trở vào. Còn trong phạm vi từ 140B (Quy Nhơn) đến dãy Bạch Mã, do bức chắn của khối núi Kon Tum, lượng mưa còn lớn và trong năm có 3-4 tháng nhiệt độ trung bình dưới 250C. 2. Sự phân hóa theo độ cao Sự phân hóa theo độ cao chỉ diễn ra ở các vùng núi. Nếu núi càng cao thì sự phân hóa biểu hiện càng rõ rệt. Ở miền núi có sự giảm đi của nhiệt độ theo độ cao do sự tăng nhanh bức xạ sóng dài của bề mặt đất khiến cho cán cân bức xạ có chiều hướng giảm đi mỗi khi lên cao. Bảng 8: Sự thay đổi nhiệt độ trung bình năm của một sốố địa phương nước ta theo đ ộ cao Địa phương Độ cao Nhiệt độ trung bình năm Sơn La 602 m 21,20C Plây cu 772 m 22,40C Tam Đảo 900 m 18,20C 8 Đà Lạt 1500 m 19,10C Sapa 1581 m 15,20C Sự phân hóa nhiệt theo độ cao khiến cho Việt Nam xuất hiện những đai cao khác nhau. Đai nhiệt đới gió mùa (dưới 600 – 700m ở miền Bắc, dưới 900 – 1000m ở miền Nam): khí hậu mang tính chất nhiệt đới ẩm gió mùa với nhiệt độ trung bình năm trên 200C, mùa hạ trên 250C, riêng miền Bắc vào mùa đông thì nhiệt độ có thể dưới 18 0C, tổng nhiệt độ hàng năm khoảng trên 75000C. Đai cận nhiệt đới gió mùa (tiếp theo đến 2600m): khí hậu mang tính chất cận nhiệt đới mát mẻ, không có tháng nào trên 25 0C, tổng nhiệt độ hàng năm từ khoảng 4500 0C-75000C. Trong đai này lại có sự phân chia thành hai á đai là: đai từ 600m-700m đến 1600m-1700m nhiệt độ trung bình khoảng từ 18- dưới 250C, trong khi đai từ 1600m-1700m trở lên thì nhiệt độ thấp trung bình dưới 180C. Đai ôn đới gió mùa trên núi (trên 2600m) chỉ có ở Hoàng Liên Sơn, quanh năm rét với nhiệt độ dưói 150C, mùa đông xuống dưới 50C, tổng nhiệt độ hàng năm không quá 45000C. Như vậy sự phân hóa các đai cao của nước ta ngoài sự phụ thuộc vào độ cao tuyệt đối thì vẫn chịu tác động của vị trí địa lí. Nước ta nằm trong vùng nội chí tuyến, chịu sự chi phối sâu sắc của thiên nhiên nhiệt đới ẩm gió mùa do đó vành đai ở chân núi vẫn mang tính chất nhiệt đới gió mùa. Và do địa hình nước ta đồi núi thấp chiếm ưu thế nên tính chất nhiệt đới của khí hậu nước ta vẫn được bảo toàn. Giới hạn độ cao của các vành đai ở nước ta còn bị chi phối bởi sự phân hóa theo chiều vĩ độ và ảnh hưởng của chế độ gió mùa đối với vùng núi đó. Thực tế cho thấy các vùng núi cao ở miền Bắc nước ta có nhiều đai cao hơn và nằm ở độ cao thấp hơn so với các vùng núi cao miền Nam 3. Sự phân hóa theo chiều Đông Tây Mặc dù cùng vĩ độ tương đương nhưng nhiệt độ các tháng trong mùa đông của Đông Bắc thấp hơn khu vực Tây Bắc. Đông Bắc mùa đông đến sớm, kết thúc muộn và lạnh hơn Tây Bắc (mùa đông đến muộn, kết thúc sớm và bớt lạnh hơn). Quan sát bảng số liệu nhiệt độ trung bình các tháng của Lạng Sơn (Đông Bắc) và Lai Châu (Tây Bắc) ta thấy mùa đông của Lạng Sơn kéo dài 3 tháng từ tháng 12 đến tháng 2 còn của Lai Châu chỉ còn 2 tháng là tháng 12 và 1, nhiệt độ trung bình các tháng mùa đông của Lạng Sơn là 14,10C trong khi Lai Châu lên tới 17,4 0C. Như vậy, vùng núi Đông Bắc có khí hậu mang tính cận nhiệt đới gió mùa còn vùng núi thấp Tây Bắc mang sắc thái nhiệt đới ẩm gió mùa. Bảng 9: Nhiệt độ trung bình các tháng của Lạng Sơn và Lai Châu (đơn vị: 0C) Tháng 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 Lạng Sơn 13,3 14,3 18,2 22,1 23,3 26,9 27,0 26,6 25,2 22,2 18,3 14,8 Lai Châu 17,1 18,0 21,3 24,6 24,5 26,5 26,5 26,6 26,1 23,7 20,6 17,7 Nguyên nhân do địa hình Đông Bắc có hướng vòng cung mở rộng về phía bắc và đông bắc tạo điều kiện cho gió mùa Đông Bắc xâm nhập sâu vào lãnh thổ nên là nơi 9 ảnh hưởng mạnh nhất của gió mùa Đông Bắc. Tây Bắc có dãy Hoàng Liên Sơn chạy theo hướng Tây Bắc- Đông Nam chắn gió mùa Đông Bắc nên hạn chế ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc. Gió mùa Đông Bắc phải đi vòng xuống Đồng bằng sông Hồng rồi sau đó mới đi dọc theo các thung lũng sông để xâm nhập lên Tây Bắc. Do trải qua quãng đường dài hơn nên gió mùa Đông Bắc bị suy yếu và làm cho Tây Bắc có mùa đông không lạnh bằng Đông Bắc và đến muộn, kết thúc sớm hơn Đông Bắc III. Chế độ nhiệt có tính thất thường Nước ta nằm trải dài trên 15 0 vĩ tuyến lại nhiều núi, địa hình phức tạp và nhất là do vị trí địa lí đặc biệt trong miền châu Á gió mùa mà chế độ nhiệt nước ta vừa phức tạp và vừa thất thường nhất là ở miền Bắc (do chịu ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc lạnh). 1. Sự thất thường thể hiện ở sự dao động lớn của các trị số nhiệt Biểu hiện của tính thất thường trong chế độ nhiệt nước ta ở sự dao động đáng kể về nhiệt độ trong các tháng mùa đông ở miền Bắc. Nhiệt độ tháng 1 của bất kì năm nào đó cũng có thể nóng hơn hoặc lạnh hơn so với nhiệt độ trung bình năm từ 3-5 0C. Tuy vậy ở khu vực Tây Bắc - Bắc Trung Bộ sự chênh lệch này thấp hơn, chỉ vào khoảng 120C. Có năm mùa đông nhiệt độ hạ thấp xuống mức rét đậm (do gió mùa Đông Bắc hoạt động mạnh, đến sớm, kết thúc muộn), rét hại xuống dưới 10 0C, thậm chí có cả hiện tượng tuyết rơi. Nhưng cũng có năm mùa đông nhưng thời tiết nóng bất thường (gió mùa Đông Bắc hoạt động yếu). Người ta đã ghi lại được những cực đại tuyệt đối của nhiệt độ trong mùa đông ở Hà Nội và Thanh Hóa lên tới hơn 30 0C, thời tiết nóng nực như mùa hạ. Bảng 10: Nhiệt độ cực đại tuyệt đối về mùa đông của Hà Nội và Thanh Hóa Địa phương Tháng 11 Tháng 12 Tháng 1 Tháng 2 0 0 0 Hà Nội 34,5 C 31,4 C 33,1 C 35,10C Tp. Hồ Chí 35,20C 31,40C 33,00C 35,80C Minh 2. Sự thất thường thể hiện ở sự dao động của các ngày bắt đầu và kết thúc các mùa nóng, lạnh. Sự dao động này có thể từ 12-29 ngày tại khu vực Đông bắc và Đồng bằng Bắc Bộ. Tại Lạng Sơn, năm rét sớm (năm 1928) mùa lạnh đến sớm hơn hơn trung bình 18 ngày, năm rét muộn (1963) mùa lạnh chậm đến 14 ngày, năm mùa lạnh kết thúc sớm (năm 1960) thì lệch 19 ngày, năm mùa lạnh kết thúc muộn (1929) thì lệch 12 ngày. Tại Hà Nội, năm rét sớm (năm 1948) mùa lạnh đến sớm hơn hơn trung bình 18 ngày, năm rét muộn (1957) mùa lạnh chậm đến 17 ngày, năm mùa lạnh kết thúc sớm (năm 1946) thì lệch 29 ngày, năm mùa lạnh kết thúc muộn (1927) thì lệch 15 ngày. 10 Tại khu vực Tây Bắc và Bắc Trung Bộ thời gian dao động mùa nóng và lạnh còn mạnh mẽ hơn, lớn nhất đối với thời kì bắt đầu của mùa là 39-40 ngày và đối với thời kì kết thúc mùa có thể tới 40-50 ngày Tiểu kết: Do vị trí địa lí nằm trong vùng nội chí tuyến Bắc bán cầu nên chế độ nhiệt nước ta thể hiện rõ đặc tính nhiệt đới. Nhưng tuy nhiên do tác động tổng hợp của nhiều nhân tố khác nhau nên chế độ nhiệt nước ta có sự phân hóa rõ rệt và biến động thất thường. Điều đó ảnh hưởng rất lớn đến thiên nhiên và mọi hoạt động sản xuất - đời sống của nhân dân ta. PHẦN 4: ẢNH HƯỞNG CỦA YẾU TỐ NHIỆT ĐẾN TỰ NHIÊN VÀ SẢN XUẤT ĐỜI SỐNG I. Ảnh hưởng của yếu tố nhiệt đến tự nhiên Nhiệt là một trong các yếu tố cơ bản của khí hậu và là một trong những yếu tố quan trọng nhất có ảnh hưởng đến tự nhiên. Sự thay đổi của yếu tố nhiệt kéo theo sự thay đổi của các thành phần tự nhiên khác (theo qui luật thống nhất và hoàn chỉnh của lớp vỏ địa lí) 1. Khí hậu Nhiệt độ trung bình các tháng trong năm đều cao, quanh năm trên 25 0C là một trong những nguyên nhân chính làm cho cân bằng ẩm của Nam Bộ thấp hơn hẳn so với miền Bắc (nhiệt độ thấp hơn). Bảng11: Lượng mưa, lượng bốc hơi và cân bằng ẩm của Hà Nội và Tp. Hồ Chí Minh (đơn vị: mm) Địa phương Lượng mưa Lượng bốc hơi Cân bằng ẩm Hà Nội 1676 989 +687 Tp. Hồ Chí Minh 1931 1686 +245 Quan sát bảng số liệu ta thấy mặc dù Hà Nội (miền Bắc) có lượng mưa thấp hơn Tp. Hồ Chí Minh (Nam Bộ) nhưng cân bằng ẩm của Hà Nội vẫn cao hơn Tp. Hồ Chí Minh. Sở dĩ như vậy vì nhiệt độ mùa đông của Tp. Hồ Chí Minh cao hơn Hà Nội đã làm cho lượng bốc hơi ở đây cao hơn (cân bằng ẩm bằng tổng lượng mưa trừ đi lượng bốc hơi) 2. Địa hình Nhiệt độ cao kết hợp với độ ẩm lớn đã đẩy nhanh quá trình phong hóa diễn ra mạnh tạo nên lớp phủ vụn bở dày cho địa hình. Nhiệt độ cao cũng góp phần làm đẩy nhanh tốc độ hòa tan, phá hủy đá vôi tạo nên địa hình karst độc đáo với các hang động, suối cạn, thung khô. Nhiều nước trên thế giới mặc dù có độ ẩm cao, cấu tạo điạ chất có nhiều đá vôi nhưng các dạng địa hình karst không phong phú như nước ta, nguyên nhân chính là do yếu tố nhiệt độ. 11 Yếu tố nhiệt còn ảnh hưởng gián tiếp đến địa hình thông qua sinh vật. Sinh vật nhiệt đới cũng hình thành nên các dạng địa hình đặc biệt như địa hình rạn san hô (san hô là loài sinh vật chỉ sống ở những vùng biển nhiệt đới nông), … 3. Sông ngòi: Do nhiệt độ cao quanh năm nên nước trong hệ thống các sông ngòi Việt Nam không có hiện tượng đóng băng vào thu đông. Nguồn cung cấp nước cho sông chủ yếu là do nước mưa và nước ngầm, do vậy dẫn đến chế độ nước sông theo sát nhịp điệu của chế độ mưa. Điều này khác với các nước ở miền khí hậu lạnh ngoài nước mưa và nước ngầm thì nguồn cung cấp nước cho sông còn do băng tuyết tan, vì thế các sông ở đây có lũ vào cuối xuân đầu hạ (khi băng tuyết tan). 4. Thổ nhưỡng Vai trò của yếu tố nhiệt cực kì quan trọng đối với quá trình hình thành đất feralit ở nước ta. Trong điều kiện nhiệt cao kết hợp với độ ẩm lớn thì quá trình phong hóa diễn ra rất mạnh mẽ, trong đó phong hóa hóa học là chủ yếu, tạo nên lớp vỏ phong hóa dày từ vài mét đến vài chục mét. Nhiệt độ cao làm tốc độ phân giải vật chất hữu cơ cao nên lượng mùn tích lũy trong đất ít. Điều này hoàn toàn khác với ở các vùng rừng ôn đới mặc dù có lượng sinh khối nhỏ hơn nhưng lớp mùn lại dày hơn nước ta. Lí do là vì nhiệt độ vùng ôn đới thấp làm hạn chế các quá trình phân hủy, xác hữu cơ tồn tại và tích tụ trong khoảng thời gian dài nên đã tạo nên lớp mùn dày. Nhiệt độ thay đổi theo độ cao dẫn đến đất nước ta cũng thay đổi theo độ cao. Ở độ cao dưới 600m-700m (ở miền Bắc) và dưới 900m-1000m (ở miền Nam) do nền nhiệt độ cao nên nhóm đất chính là feralit. Từ độ cao tiếp theo đến độ cao 1600m1700m nhiệt độ giảm đã làm hạn chế quá trình phân giải chất hữu cơ, mùn được tích lũy, hình thành đất feralit có mùn, đồng thời quá trình phong hóa yếu đi làm cho tầng đất mỏng hơn. Ở độ cao trên 1600m-1700m đến dưới 2600m nhiệt độ thấp (trung bình dưới 180C), quá trình feralit ngưng trệ, hình thành đất mùn. Ở độ cao từ 2600m trở lên (chỉ có ở Hoàng Liên Sơn) do nhiệt độ thấp dưới 15 0C, mùa đông xuống dưới 50C nên đất ở đây là đất mùn thô. 5. Sinh vật. Khí hậu nhiệt đới với nền nhiệt độ cao kết hợp với độ ẩm lớn nên rừng rậm nhiệt đới ẩm lá rộng thường xanh là hệ sinh thái rừng nguyên sinh đặc trưng cho khí hậu nóng ẩm ở Việt Nam nhưng hiện nay phần lớn nó đã biến biến dạng do tác động của con người. Rừng nhiệt đới với đặc trưng là cấu trúc nhiều tầng tán (do nền nhiệt cao, số giờ nắng nhiều), cây gỗ cao (lên đến vài chục m), thành phần loài đa dạng (vùng vĩ độ thấp, nhiệt độ cao thì thành phần loài phong phú nhưng số lượng cá thể trong một loài không nhiều còn vùng vĩ độ cao, nhiệt độ thấp thì thành phần loài hạn chế nhưng số lượng cá thể trong một loài lại nhiều) Nước ta với nền nhiệt cao nên trong giới sinh vật, thành phần loài nhiệt đới chiếm ưu thế. Thực vật trong rừng phổ biến là các loài thuộc họ cây nhiệt đới như họ 12 Đậu, Vang, Dâu tằm, Dầu. Động vật trong rừng là các loài chim, thú nhiệt đới, nhiều ếch nhái, côn trùng cũng rất phong phú. Chế độ nhiệt của nước ta có sự phân hóa kéo theo sinh vật nước ta cũng có sự phân hóa. Miền Bắc nước ta với nền nhiệt độ trung bình năm trên 20 0C, mùa đông lạnh dưới 180C kéo dài 2-3 tháng, biên độ nhiệt trung bình lớn nên cảnh quan tiêu biểu là đới rừng gió mùa nhiệt đới, với thành phần loài nhiệt đới chiếm ưu thế, ngoài ra còn các loài cận nhiệt, ôn đới. Miền khí hậu phía nam nền nhiệt độ thiên về khí hậu xích đạo, nóng quanh năm, nhiệt độ trung bình năm trên 25 0C, không có tháng nào dưới 200C, biên độ nhiệt trung bình năm nhỏ nên cảnh quan tiêu biểu là đới rừng gió mùa cận xích đạo, chiếm ưu thế là các loài thực vật, động vật vùng xích đạo và nhiệt đới từ phương Nam lên, phương Tây di cư sang. Nhiệt độ nước ta có sự phân hóa theo độ cao nên sinh vật có sự thay đổi theo đai cao. Bên cạnh các hệ sinh thái nhiệt đới chiếm ưu thế ở độ cao dưới 600m-700m ở miền Bắc và dưới 900m-1000m ở miền Nam thì từ độ cao tiếp theo đến độ cao 1600m1700m do khí hậu mát mẻ nên xuất hiện rừng cận nhiệt đới lá rộng và lá kim, trong rừng xuất hiện các loài chim, thú cận nhiệt đới phương Bắc, các loài thú có lông dày như gấu, sóc, cầy, cáo. Ở độ cao trên 1600m-1700m do nhiệt độ thấp nên rừng sinh trưởng kém, thực vật thấp nhỏ, đơn giản về thành phần loài, rêu, địa y phổ biến thân, cành cây. Ở trên núi có độ cao từ 2600m trở lên nhiệt độ thấp xuống dưới 15 0C có các loài thực vật ôn đới như đỗ quyên, lãnh sam, thiết sam. Như vậy ta có thể kết luận rằng khí hậu nước ta thể hiện rõ sự mâu thuẫn và thống nhất giữa tính chất nhiệt đới của vĩ độ và tính chất phi địa đới do gió mùa Đông Bắc và địa hình đem lại. Nhưng muà đông của nước ta ngắn, mà nhiệt độ lại không xuống thấp lắm, địa hình nước ta phần lớn là đồi núi thấp cho nên tính chất nhiệt đới vẫn là chủ yếu chi phối đến mọi đặc điểm của thiên nhiên nước ta. II. Ảnh hưởng của yếu tố nhiệt đến sản xuất và đời sống Yếu tố nhiệt ảnh hưởng đến nhiều mặt hoạt động sản xuất và đời sống, trực tiếp nhất và rõ rệt nhất là hoạt động sản xuất nông nghiệp. 1. Đối với nông nghiệp Do ảnh hưởng của yếu tố nhiệt mà nền nông nghiệp nước ta thể hiện rõ tính nhiệt đới: nền nhiệt cao nên trong cơ cấu cây trồng vật nuôi, các sản phẩm có nguồn gốc nhiệt đới chiếm ưu thế (ví dụ cây lương thực: lúa gạo, sắn, ..; cây công nghiệp: cà phê, cao su, mía, điều, hồ tiêu, ...). Sản xuất nông nghiệp diễn ra quanh năm. Áp dụng có hiệu quả các biện pháp thâm canh, tăng vụ, xen canh, gối vụ. Nền nông nghiệp nước ta khá đa dạng: mùa đông lạnh cho phép phát triển tập đoàn cây trồng vụ đông đặc sắc ở Đồng bằng sông Hồng và các cây trồng vật cận nhiệt và ôn đới trên các vùng núi. Sự phân hóa của yếu tố nhiệt là cơ sở để có lịch thời vụ khác nhau giữa các vùng, nhờ thế mà có sự chuyển dịch mùa vụ từ Nam ra Bắc, từ đồng bằng lên trung du miền núi. 13 Chế độ nhiệt thất thường không ổn định do hoạt động của gió mùa kết hợp với nền nhiệt ẩm cao và nhiều thiên tai tạo điều kiện cho sâu bệnh phát sinh, phát triển và lan tràn trên diện rộng làm tăng thêm tính chất bấp bênh vốn có của nền nông nghiệp. Ví dụ: hiện tượng rét đậm, rét hại năm làm … Đối với lâm nghiệp: nền nhiệt cao kết hợp với độ ẩm lớn là cơ sở để nhanh chóng phục hồi lớp phủ rừng trên đất trống bằng mô hình nông lâm kết hợp. Đối với ngư nghiệp: nhiệt độ cao và ổn định quanh năm nhất là ở Nam Bộ tạo điều kiện thuận lợi cho ra khơi. 2. Đối với các ngành kinh tế khác Nhiệt độ cũng là yếu tố có ảnh hưởng nhất định đến sự phân bố công nghiệp. Khí hậu nhiệt đới tạo nên tập đoàn cây trồng vật nuôi đặc thù, đó là cơ sở để phát triển các ngành công nghiệp chế biến lương thực- thực phẩm. Nền nhiệt độ nước ta cao kết hợp với độ ẩm lớn làm cho máy móc dễ bị hư hỏng, oxi hóa cũng chi phối đến việc lựa chọn kĩ thuật và công nghệ sản xuất. Nền nhiệt độ cao cũng tác động không nhỏ đến hoạt động của các ngành công nghiệp khai khoáng, … Nếu như ở các nước xứ lạnh hoạt động vận tải vào mùa đông bị trở ngại do băng tuyết , xe máy hoạt động cần có các thiết bị sưởi phức tạp và phải có các loại xăng dầu cho điều kiện băng giá thì ở nước ta với khí hậu nhiệt đới nên vận tải đường bộ có thể diễn ra quanh năm. Đối với vận tải đường biển cũng vậy, trong điều kiện nhiệt độ cao, nước biển không đóng băng thì tàu bè có thể đi lại quanh năm. Nhưng tuy nhiên nền nhiệt cao cùng với độ ẩm lớn cũng làm cho các phương tiện vận tải bị rỉ, ăn mòn nhanh đòi hỏi phải có công nghệ nhiệt đới hóa máy móc, cần phải xây dựng các kho tàng, bến bãi để bảo quản hàng hóa để tránh nắng… Nền nhiệt cao đã tạo điều kiện cho nước ta phát triển một nền nông nghiệp nhiệt đới trong đó có những sản phẩm có giá trị như lúa gạo, cà phê, cao su, dừa, điều, hồ tiêu, mía … nhằm cung cấp nguồn hàng cho xuất khẩu. III. Ca dao tục ngữ nói về sự liên quan giữa yếu tố nhiệt với sản xuất nông nghiệp Nhiệt độ là một trong những yếu tố của tự nhiên có ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất nông nghiệp và cụ thể trong nội dung này tôi muốn nhấn mạnh đến ngành sản xuất lúa đối với miền Bắc. Việt Nam là một trong những cái nôi của nền văn minh lúa nước, do đó nhân dân ta đã đúc kết được nhiều kinh nghiệm về mối quan hệ giữa yếu tố nhiệt với việc trồng lúa nước. Lúa là cây lương thực ưa nhiệt do vậy yếu tố nhiệt ảnh hưởng đến nhiều khía cạnh của việc trồng lúa như: thời vụ gieo cấy, kĩ thuật cấy lúa, tuổi mạ, mật độ gieo mạ, kĩ thuật cấy lúa, lúa trổ, .. * Đối với lúa mùa bà con nông dân vùng Đồng bằng Bắc bộ và Bắc Trung Bộ có câu ca dao : « Tua rua đi dắt mạ mùa Tiểu thử cày bừa cấy ruộng nông sâu » 14 Đối với lúa mùa thời gian gieo thích hợp nhất vào tiết Tua rua vào khoảng 6-7 tháng 6 dương lịch và cấy vào khoảng tháng 7 dương lịch (tiết Tiểu thử ngày 7-8 tháng 7 dương lịch). Sở dĩ vậy vì đây là khoảng thời gian có nhiệt độ cao nhất, ngày dài nên quá trình sinh lí trong cơ thể cây lúa được tiến hành thuận lợi, lúa sẽ tích lũy được nhiều chất dinh dưỡng và năng suất sẽ cao. Nếu cấy lúa muộn hơn, nhiệt độ giảm và độ dài ban ngày đã rút ngắn lại thì lúa sẽ đẻ ít, có khi không kịp đẻ đã làm đòng, gieo càng muộn thì thời gian sinh trưởng càng ngắn và năng suất sẽ giảm. Còn riêng đối với lúa chiêm nhân dân ta cũng có kinh nghiệm chọn thời kì gieo cấy thích hợp : Ở Đồng bằng Bắc Bộ : « Cấy tháng chạp, đạp không ra Lục lạp, tháng chạp, tháng sáu Chiêm hai năm đầu mùa tháng sau » Ở Bắc Trung Bộ : « Mạ chiêm gieo trước sương giáng mười ngày Cấy sau đông chí mười ngày cũng vừa » Cấy tháng chạp tức là cấy vào tháng giêng dương lịch, chiêm hai năm tức là cấy chiêm từ 15 tháng 12 năm nay sang tháng giêng dương lịch năm sau, sở dĩ vậy vì sang tháng giêng, khoảng thời gian này thời tiết đã bắt đầu thời tiết ấm, ẩm lên. Cấy lúa chiêm cũng như trồng khoai lang nên chọn những ngày nắng ấm, nhiệt độ cao vì nếu rét thì lúa mới cấy dễ bị lụi vì chưa kịp bén rễ, khả năng chịu rét kém. Vì thế nhân dân ta có câu « Bốc mả kiêng ngày trùng tang Trồng lang kiêng ngày gió bấc » (Gió bấc là gió mùa Đông Bắc xuất phát từ áp cao Xibia) * Đối với kĩ thuật cấy lúa thì nhân dân ta có câu: «Mạ chiêm thì cấy cho sâu Mạ mùa phải nảy mầm cau mới vừa » Hay «Mạ chiêm thì cấy cho sâu Mạ mùa phải gửi cành dâu mới vừa» Hay : « Mạ chiêm chôn sâu dận chặt Mạ mùa vừa đặt vừa đi» Mạ mùa cấy vào lúc nhiệt độ cao nên chóng bén rễ (gửi cành dâu tức là cấy nông), cấy nông thì lúa sẽ đẻ sớm và chóng xanh cho nên khi cấy mạ mùa thì chỏ vừa đặt vừa đi. Ngược lại đối với lúa chiêm, thời gian cấy là thời gian rét, nhiệt độ hạ thấp nên phải cấy sâu vì lúa lâu bén rễ do đó tránh được lụi vì rét. * Tuổi mạ cũng liên quan chặt chẽ đến yếu tố nhiệt. Mạ mùa có đặc tính phát triển nhanh do có đủ nhiệt độ và ánh sáng cho nên nếu để mạ già thì mạ sẽ không phát triển được nhánh và một số mầm nách sinh ra sớm sẽ không phát triển được và do đó mạ sẽ mọc ống. Mạ chiêm mà cấy non thì dễ bị lụi vì rét vì mạ cấy xuống lâu bén rễ nên rất kém chịu rét. Bà con nông dân đã có kinh nghiệm về hiện tượng này. «Tháng sáu mà cấy mạ già, 15 Thà rằng công ấy ở nhà ẵm con Tháng chạp mà cấy mạ non Thà rằng công ấy ở nhà ẵm con » Lưu ý, lịch mà ông cha dùng là âm dương lịch, thường chậm so với dương lịch khoảng một tháng. Bà con nông dân đã xác định được tuổi mạ vì nhận thấy được rõ ảnh hưởng của yếu tố nhiệt : « Mạ chiêm ba tháng chưa già Mạ mùa tháng rưỡi ắt là chẳng non » Đối với lúa chiêm nếu cấy mạ non sẽ không tốt nhưng ngược lại cấy mạ quá thì năng suất cũng sẽ kém vì mạ cấy quá thì, thời gian sinh trưởng của lúa sẽ rút ngắn lại. Nhưng đối với mạ chiêm nếu qua ba đợ rét (ba giá) mà đem cấy thì lúa sau này sẽ chịu rét được tốt hơn vì đã quen chịu lạnh. Cho nên ca dao có câu : « Mùa đông rét buốt ngoài da Mạ được ba giá thì ta nhổ về » Hoặc : « Chiêm ba giá, mùa cá chết ». Mùa cá chết được hiểu theo nghĩa nhiệt độ cao về mùa hè làm cho cá trong ruộng lúa có thể chết vì nước nóng, là điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của lúa mùa * Nhiệt còn là một trong những yếu tố quan trọng bên cạnh yếu tố nước có ảnh hưởng lớn đến mật độ gieo mạ. Đối với lúa mùa, do có những điều kiện thời tiết thuận lợi (nhiệt độ cao, đủ nước) nên mạ mùa sinh trưởng nhanh chóng, mau phát triển lá vì thế mạ mùa không cần gieo dày lắm. Còn đối với lúa chiêm, có thể gieo dày hơn mạ mùa bởi mạ chiêm sinh trưởng trong điều kiện ít thuận lợi hơn (rét, khô hạn). Gieo dày để mạ được ấm chân, cho nên có câu «Mùa bớt rạ, chiêm tra vào » hay « Tháng chín gieo ngả, tháng ba gieo thóc » * Ngay cả đối với kĩ thuật cấy lúa thì nhiệt độ cũng là yếu tố được quan tâm hàng đầu. Lúa chiêm đẻ nhánh ít vì sinh trưởng trong điều kiện trời rét còn ngược lại lúa mùa đẻ nhánh nhiều hơn vì sinh trưởng trong điều kiện nhiệt độ cao cho nên cấy lúa chiêm cần nhiều rảnh hơn cấy lúa mùa. Bà con nông dân đã có kinh nghiệm lâu đời trong kĩ thuật cấy : « Chiêm to tẻ, mùa nhẽ con ». Tẻ ở đây tức là dảnh lúa còn nhẽ tức là nhỏ, ít dảnh. * Do yếu tố nhiệt mà lúa mùa dù có gieo cấy sớm hay muộn thì đều trổ cùng một lúc (nhiệt độ cao, ngày dài) và của lúa chiêm là gieo trước thì trổ trước, gieo muộn thì trổ muộn. Vì thế nhân dân ta có câu ca dao :« Chiêm cập cợi, mùa đợi nhau » Hoặc « Lúa chiêm là lúa bất nghì Cấy trước trổ trước chẳng thì đợi ai » Nhiệt độ là một yếu tố quan trọng đối với lúa trổ. Lúa trổ vào lúc ấm áp là điều kiện rất thuận lợi. Vì thế bà con nông dân đã có kinh nghiệm : « Gió đông là chồng lúa chiêm 16 Gió may, gió bấc là duyên lúa mùa « Hay « Chiêm bóc vỏ, mùa xỏ tay » Ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ vào lúc có gió đông (gió Tín phong) thổi tức là thời tiết ấm áp, bà con nông dân đã cởi bớt áo ấm ra (bóc vỏ) thì lúa chiêm trổ rất thuận lợi. Còn đối với lúa mùa, vào khoảng cuối tháng 9, đầu tháng 10 là thời gian lúa mùa trổ, nhiệt độ không khí còn cao nhưng nếu có gió mùa Đông Bắc sớm thổi về làm cho nhiệt độ hạ thấp thì sẽ tạo điều kiện tốt cho lúa trổ và phơi màu. Trong những ngày lúa trổ nếu thời tiết trở lạnh, bà con phải mặc thêm áo (xỏ tay) thì lúa sẽ tốt Hoặc « Lúa trổ thanh minh, vinh cả xã Lúa trổ cốc vũ, no đủ mọi bề » Câu này có nghĩa là nếu lúa chiêm trổ vào khoảng từ thượng đến trung tuần tháng tư dương lịch, tức là trong khoảng từ tiết thanh minh (4/4 dương lịch) đến tiết cốc vũ (ngày 20/4 dương lịch) vì trong thời gian này thỉnh thoảng có những trận mưa đầu mùa, tiết trời đã ấm áp, có lợi cho lúa trổ bông và tránh được rét và gió Lào Nếu khi trổ nhiệt độ cao hơn nhiệt độ tối cao tới hạn (trên 39 0C) hay thấp hơn nhiệt độ tối thấp tới hạn (dưới 18 0C- 200C) thì lúa sẽ trổ kém. Nếu lúa chiêm mà trổ sớm dễ bị gặp rét nàng Bân : «Con đói thì con ăn khoai Chớ thấy lúa trổ tháng hai mà mừng » Nếu lúa chiêm trổ sớm vào khoảng tháng 2 (tức cuối tháng 3 dương lịch) dễ gặp rét muộn và làm nhiệt độ giảm xuống dưới mức nhiệt độ tối hạn thấp nhất tuyệt đối với lúa trổ Ở Bắc Trung Bộ nếu lúa trổ vào tiết lập hạ (đầu tháng 5 dương lịch) dễ gặp gió Lào với nhiệt độ cao hơn 400C-lớn hơn nhiệt độ tối cao tới hạn của lúa nên năng suất không cao. PHẦN 5 : CÂU HỎI ÔN TẬP 1. Một số lưu ý khi khai thác kiến thức từ Atlat Câu hỏi yêu cầu sử dụng Atlat Địa lí Việt Nam trở thành phổ biến trong tất cả các đề thi học sinh giỏi quốc gia. Trước hết GV cần giới thiệu cho HS yếu tố nhiệt của khí hậu Việt Nam trong Atlat phản ánh nhiệt độ trung bình nước ta với 3 mốc thời gian: nhiệt độ trung bình năm, nhiệt độ trung bình tháng giêng (đặc trưng cho mùa đông), nhiệt độ trung bình tháng 7 (đặc trưng cho mùa hạ) Thông thường câu hỏi gắn với Atlat có 2 dạng là : Dựa vào Atlat, hãy...; hoặc Dựa vào Atlat và kiến thức đã học, hãy….Vì vậy, học sinh cần xác định rõ phạm vi kiến thức cần sử dụng để trả lời câu hỏi là chỉ dựa vào Atlat hay khai thác cả Atlat kết hợp với kiến thức đã học bên ngoài. 17 Các yêu cầu làm việc với Atlat rất đa dạng. Do đó giáo viên cần giúp học sinh xây dựng một dàn bài có được từ vốn tri thức địa lí sẵn có của bản thân vào việc đọc các trang Atlat. 2. Một số dạng câu hỏi về yếu tố nhiệt của khí hậu khai thác từ Atlat Đối với chuyên đề yếu tố nhiệt của khí hậu Việt Nam, chúng ta có thể gặp một số dạng câu hỏi như sau: - Dạng 1: Trình bày đặc điểm của chế độ nhiệt nước ta (các vùng, miền) - Dạng 2: Chứng minh sự phân hóa của nhiệt độ nước ta (các vùng, miền) - Dạng 3: Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến chế độ nhiệt của nước ta (các vùng, miền) - Dạng 4: So sánh đặc điểm chế độ nhiệt của các trạm khí hậu. - Dạng 5: Phân tích mối quan hệ giữa yếu tố nhiệt với các thành phần tự nhiên khác. 2.1. Dạng 1: Trình bày đặc điểm chế độ nhiệt nước ta (các vùng, miền) Mở bài: Giới thiệu về ranh giới, phạm vi các miền (nếu là vùng, miền), khái quát về đặc điểm chế độ nhiệt vùng đó: - Nền nhiệt cao - Sự phân hóa Riêng tính thất thường của chế độ nhiệt nước ta, ít được thể hiện rõ Atlat Bài tập: Dựa vào Átlát địa lý Việt Nam và kiến thức đã học, hãy trình bày đặc điểm chế độ nhiệt của nước ta? Mở bài: Giới thiệu khái quát về đặc điểm chế độ nhiệt nước ta và đặc điểm đó được hình thành do tác động tổng hợp của nhiều nhân tố a. Nền nhiệt độ trung bình năm của nước ta cao: + Phần lớn lãnh thổ nước ta có nhiệt độ trung bình năm trên 20 0 C (trừ vùng núi cao) + Ở đa số các trạm hầu hết là các tháng có nhiệt độ trên 20 0 C . Hà Nội có 9 tháng nhiệt độ >20 0 C, . Từ Đà Nẵng trở vào ở đồng bằng không có tháng nào nhiệt độ < 20 0 C b. Chế độ nhiệt của nước ta có sự phân hóa theo không gian và thời gian * Theo thời gian + Tháng 1 hầu hết diện tích lãnh thổ có nhiệt độ < 24 0 C + Tháng 7 hầu hết diện tích lãnh thổ có nhiệt độ cao >24 0 C => Nhiệt độ tháng 1 thấp hơn nhiệt độ tháng 7, biểu hiện rõ rệt nhất ở miền Bắc. Ví dụ tại trạm Lạng Sơn từ tháng 11 đến tháng 3 nhiệt độ xuống dưới 20 0 C và 7 tháng có nhiệt độ cao >20 0 C * Theo không gian - Phân hoá theo chiều bắc- nam . Nhiệt độ trung bình năm tăng dần . Biên độ nhiệt giảm dần 18 . Nhiệt độ trung bình tháng 1 tăng dần . Số tháng nhiệt độ < 20 0 C giảm dần . Biến trình nhiệt: Miền Bắc có 1 cực đại, miền Nam có hai cực đại - Phân hoá theo độ cao: Càng lên cao nhiệt độ càng giảm (dẫn chứng bằng cách so sánh nhiệt độ của cặp trạm khí hậu Hà Nội- Sapa hoặc Nha Trang- Đà Lạt) - Phân hoá theo hướng sườn : . Bắc Bộ: lấy dẫn chứng cặp Lạng Sơn (đón gió) với trạm Điện Biên (khuất gió) . DHMT: Sườn khuất gió mùa tây nam nhiệt độ cao hơn sườn đón gió Bài tập: Dựa vào Atlat địa lí Việt Nam và kiến thức đã học, hãy trình bày đặc điểm chế độ nhiệt của miền khí hậu phía Bắc? 2.2. Dạng 2: Chứng minh sự phân hóa của nhiệt độ nước ta (các vùng, miền) Mở bài: Giới thiệu phạm vi ranh giới (nếu là vùng, miền), khái quát đặc điểm chế độ nhiệt nước ta có sự phân hóa ở các khía cạnh: - Nhiệt độ trung bình năm - Nhiệt độ trung bình tháng cao nhất, thấp nhất - Biên độ nhiệt trung bình năm - Số lần nhiệt độ đạt cực trị, .. Bài tập: Dựa vào Atlat địa lí Việt Nam và kiến thức đã học, hãy chứng minh tính phân hóa theo chiều Bắc - Nam của chế độ nhiệt nước ta? Mở bài: Khái quát về chế độ nhiệt nước ta có sự phân hóa, một trong những biểu hiện của sự phân hóa đó là phân hóa theo chiều Bắc Nam: - Nhiệt độ trung bình năm tăng dần từ Bắc vào Nam (dựa vào bản đồ nhiệt độ trung bình năm và các trạm khí hậu). - Nhiệt độ trung bình tháng 1 tăng dần từ Bắc vào Nam (Bản đồ nhiệt độ trung bình tháng 1 và các trạm khí hậu) - Số lần nhiệt độ đạt cực trị của các miền (dựa vào các trạm khí hậu). - Biên độ nhiệt năm: dựa vào đường biểu diễn nhiệt độ các trạm. Bài tập: Dựa vào Atlat địa lí Việt Nam và kiến thức đã học, hãy chứng minh tính phân hóa theo độ cao của chế độ nhiệt nước ta? Bài tập: Dựa vào Atlat địa lí Việt Nam và kiến thức đã học, hãy chứng minh tính phân hóa theo Đông-Tây của chế độ nhiệt nước ta? 2.3. Dạng 3: Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến chế độ nhiệt của nước ta (các vùng, miền)? Mở bài: Giới thiệu về ranh giới, phạm vi các miền (nếu là vùng, miền), khái quát về đặc điểm chế độ nhiệt của vùng vùng lãnh thổ nghiên cứu và khẳng định đặc điểm đó chịu chi phối tổng hợp của nhiều nhân tố: - Vị trí địa lí, hình dạng lãnh thổ - Địa hình: đai cao, hướng sườn - Gió mùa 19 - Nhân tố khác (nếu có) Bài tập: Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến chế độ nhiệt nước ta? Mở bài: Giới thiệu đặc điểm chế độ nhiệt nước ta thuộc chỉ tiêu vùng nhiệt đới và có sự phân hóa đa dạng. Đặc điểm này do tác động đồng thời của các nhân tố: vị trí, địa hình, gió mùa... * Vị trí và hình dạng lãnh thổ: + Vị trí: NCT của BBC-> BBC + Hình dạng lãnh thổ hẹp ngang, kéo dài -> sự phân hóa B – N + 3 mặt giáp biển: chế độ nhiệt điều hòa. * Gió mùa: 2 loại gió tính chất khác nhau chi phối chế độ nhiệt phân hóa theo mùa * Địa hình: + Độ cao địa hình tạo nên sự phân hóa nhiệt độ theo đai cao: + Địa hình chủ yếu đồi núi thấp: nhiệt độ đạt chỉ tiêu của KH nhiệt đới. + Các dãy núi lớn là ranh giới khí hậu giữa các vùng miền làm chế dộ nhiệt phân hóa: Hoàng Liên Sơn, dãy Hoành Sơn, Dãy Bạch Mã... Bài tập: Dựa vào Atlat địa lí Việt Nam và kiến thức đã học, hãy phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến chế độ nhiệt của vùng khí hậu Bắc Trung Bộ? 2.4. Dạng 4: So sánh đặc điểm chế độ nhiệt của các trạm khí hậu. Mở bài: giới thiệu vị trí địa lí hai trạm, khái quát về đặc điểm chế độ nhiệt có nhiều khác nhau về: - Nhiệt độ trung bình năm - Nhiệt độ trung bình tháng cao nhất, thấp nhất - Biên độ nhiệt trung bình năm - Số lần nhiệt độ đạt cực trị, ... Bài tập: Hãy phân tích sự khác biệt trong chế độ nhiệt của trạm Hà Nội và Tp. Hồ Chí Minh? Mở bài: Giới thiệu vị trí địa lí của trạm Hà Nội và Tp. Hồ chí Minh - Hà Nội có nền nhiệt độ thấp hơn Tp Hồ Chí Minh (nhiệt độ trung bình năm o 23,5 C so với 27,1oC) - Hà Nội có 3 tháng (tháng 12, 1, 2) nhiệt độ xuống dưới 20 oC, thậm chí có 2 tháng nhiệt độ xuống dưới 18oC - Hà Nội có 4 tháng (tháng 6, 7 , 8, 9) nhiệt độ cao hơn Tp. Hồ Chí Minh - Tp. Hồ Chí Minh quanh năm nóng, không có tháng nào nhiệt độ xuống dưới o 25,7 C - Biên độ nhiệt độ ở Hà Nội cao, tới 12,5 oC, biên độ nhiệt ở Tp. hồ Chí Minh thấp, chỉ có 3,1oC - Nhiệt độ cao nhất ở Hà Nội là tháng 7 trong khi TP. Hồ Chí Minh là tháng 4 Bài tập: Hãy phân tích sự khác biệt trong chế độ nhiệt của trạm Nha Trang và Đà Lạt? 2.5. Dạng 5: Phân tích tác động của chế độ nhiệt đến các thành phần tự nhiên khác 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan