Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Khoa học xã hội Xây dựng chuyên đề dạy học lịch sử 12 phần quan hệ quốc tế từ năm 1945 đến nay...

Tài liệu Xây dựng chuyên đề dạy học lịch sử 12 phần quan hệ quốc tế từ năm 1945 đến nay

.DOCX
32
15
87

Mô tả:

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VĨNH PHÚC TRƯỜNG THPT TAM DƯƠNG II =====***===== BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN Tên sáng kiến: XÂY DỰNG CHUYÊN ĐỀ DẠY HỌC LỊCH SỬ 12 PHẦN QUAN HỆ QUỐC TẾ TỪ NĂM 1945 ĐẾN NAY Tác giả sáng kiến: Nguyễn Thị Thu Hiền Mã sáng kiến: 08.57.02 Tam Dương, Năm 2019 BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN 0 1. Lời giới thiệu Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc (1945), là khởi điểm cho sự tiến triển của một giai đoạn lịch sử mới. Quan hệ quốc tế đã từ lâu là một yếu tố ảnh hưởng lớn tới quá trình tiến triển của lịch sử loài người. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, quan hệ quốc tế trở nên khá phức tạp với sự hình thành của trật tự hai cực Ianta, cuộc chiến tranh lạnh cùng với xu thế hòa hoãn , hòa dịu trong quan hệ mở của thế giới. Qua những quan hệ phức tạp, rối ren, phong phú vô cùng ấy ta nắm được sâu sắc và cụ thể nội dung căn bản của thời đại. Bên cạnh đó, những năm tháng diễn biến phức tạp của tình hình thế giới trùng với thời kì kháng chiến vô cùng oanh liệt của dân tộc. Hơn thế nữa, đây là phần nội dung kiến thức rất quan trọng, thường xuyên thi . Là một giáo viên dạy bộ môn lịch sử ở cấp THPT, tôi luôn trăn trở làm sao để quá khứ qua đi còn ghi dấu lại trong thế hệ trẻ của đất nước. Thông qua việc tìm hiểu vềchuyên đề quan hệ quốc tế từ năm 1945 đến naymuốn các em hiểu hơn về diễn biến phức tạp của tình hình thế giới kể từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, đồng thời hiểu được những tác động qua lại giữa lịch sử thế giới với lịch sử dân tộc, rèn luyện tư duy nắm bắt được sự thay đổi đang diễn ra từng ngày, từng giờ của tình hình thế giới và hiểu hơn những thay đổi kịp thời trong chính sách của Đảng và nhà nước, bồi dưỡng cho các em những kiến thức nâng cao hơn, trang bị cho các em kiến thức vững vàng trong kì thi Trung học phổ thông Quốc gia, giáo dục một cách sâu sắc tình yêu nước, yêu hòa bình, tình đoàn kết quốc tế cho các em. 2. Tên sáng kiến: “XÂY DỰNG CHUYÊN ĐỀ DẠY HỌC LỊCH SỬ 12 PHẦN QUAN HỆ QUỐC TẾ TỪ NĂM 1945 ĐẾN NAY” 3. Tác giả sáng kiến: - Họ và tên: Nguyễn Thị Thu Hiền - Địa chỉ tác giả sáng kiến:Trường THPT Tam Dương II - Số điện thoại: 0917309188 - E_mail: [email protected] 4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Nguyễn Thị Thu Hiền 5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Lịch sử 12 6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử: 18/10/2018 7. Mô tả bản chất của sáng kiến 1 PHẦN I: MỤC TIÊU CỦA CHUYÊN ĐỀ 1. Kiến thức - Nhận thức được những nét chính trong quan hệ quốc tế sau chiến tranh thế giới thứ hai, sự hình thành hai khối Tư bản chủ nghĩa & Xã hội chủ nghĩa đối đầu nhau. -Sự hình thành trật tự thế giới mới sau Chiến tranh:Trật tự hai cực Ianta, sự ra đời, hoạt động và vai trò của Liên hợp quốc; - Nêu và phân tích được nguồn gốc của "Chiến tranh lạnh" ; Những sự kiện dẫn đến tình trạng chiến tranh lạnh. - Khái niệm "Chiến tranh lạnh" - Trình bày được những sự kiện trong xu thế hòa hoãn Đông – Tây giữa hai phe Tư bản chủ nghĩa và Xã hội chủ nghĩa , những biến đổi của tình hình thế giới sau khi "Chiến tranh lạnh" kết thúc 2. Về thái độ, tình cảm, tư tưởng - Lên án giới cầm quyền Mĩ , các nước tư bản phương Tây trong việc gây nên "Chiến tranh lạnh" và Chiến tranh cục bộ ở Triều Tiên và Việt Nam. -Về hoà bình thế giới vẫn được duy trì, nhưng tình hình thế giới vẫn căng thẳng, trong thực tế nhiều cuộc chiến tranh khu vực bùng nổ, nhất là ở Đông Nam Á và Trung Đông. -Từ đó thấy được cuộc đấu tranh của các dân tộc vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội còn đầy khó khăn và phức tạp. Ta tự hào đã góp phần to lớn vào cuộc đấu tranh giành bốn mục tiêu lớn của thời đại qua các cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ. 3. Kỹ năng Rèn luyện kỹ năng tư duy, phân tích các sự kiện, khái quát tổng hợp các vấn đề lớn… 4. Định hướng các năng lực hình thành Thông qua chuyên đề hướng tới hình thành các năng lực: - Năng lực chung: Giải quyết vấn đề, sử dụng ngôn ngữ, sáng tạo - Năng lực chuyên biệt: + Năng lực thực hành bộ môn: Khai thác kênh hình có liên quan đến nội dung chuyên đề: Lược đồ, sơ đồ, bảng hệ thống lịch sử. +Tái hiện kiến thức, xác định mối quan hệ giữa các sự kiện, hiện tượng lịch sử, so sánh, phân tích, nhận xét, đánh giá. PHẦN II:NỘI DUNG CHUYÊN ĐỀ 2 A. QUAN HỆ QUỐC TẾ TỪ NĂM 1945 ĐẾN NAY I. QUAN HỆ QUỐC TẾ TỪ NĂM 1945 ĐẾN NỬA ĐẦU NHỮNG NĂM 70 CỦA THẾ KỈ XX 1. SỰ HÌNH THÀNH TRẬT TỰ THẾ GIỚI MỚI SAU CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ HAI 1.1. Hội nghị Ianta và việc hình thành “Trật tự hai cực Ianta” Đầu năm 1945,cục diện chiến tranh thế giới thứ hai bước vào giai đoạn kết thúc. Nhiều mâu thuẫn,nhiều tranh chấp trong nội bộ phe Đồng minh chống phát xít nổi lên gay gắt trong đó nổi bật lên ba vấn đề bức xúc phải giải quyết: Việc nhanh chóng kết thúc chiến tranh ở Châu Âu và Châu Á- Thái Bình Dương,việc tổ chức lại trật thế giới sau chiến tranh,việc phân chia khu vực đóng quân theo chế độ quân quản ở các nước phát xít chiến bại và phân chia phạm vi thế lực giữa các nước tham gia chiến tranh chống phát xít. Trong bối cảnh đó, Hội nghị tam cường Liên Xô, Mĩ, Anh đã họp tại Ianta (Liên Xô) từ ngày 4 đến 11/2/1945. Tham dự hội nghị có chủ tịch Hội đồng bộ trưởng Liên Xô (Xta-lin), Tổng thống Mĩ (Rudơven) và Thủ tướng Anh (Sơcsin). Hội nghị diễn ra gay go, quyết liệt vì thực chất nội dung hội nghị là cuộc tranh giành và phân chia thành quả thắng lợi chiến tranh giữa các lực lượng tham chiến có liên quan mật thiết tới hòa bình, an ninh, trật tự thế giới sau này mà trước hết là lợi ích riêng của mỗi một nước tham chiến. Cuối cùng, hội nghị đã đi đến những quyết định: + Về việc kết thúc chiến tranh ở Châu Âu và Châu Á, ba cường quốc đã thống nhất mục đích là tiêu diệt tận gốc chủ nghĩa phát xít Đức và chủ nghĩa quân phiệt Nhật, nhanh chóng kết thúc chiến tranh ở Châu Âu và Liên Xô đã tham gia chiến tranh chống Nhật ở Châu Á sau khi chiến tranh kết thúc ở Châu Âu. + Ba cường quốc thống nhất thành lập tổ chức Liên hợp quốc dựa trên nền tảng và nguyên tắc cơ bản là sự nhất trí giữa năm cường quốc Liên Xô, Mĩ, Anh, Pháp, Trung Quốc để giữ gìn hòa bình, an ninh và trật tự thế giới sau chiến tranh. + Hội nghị đã đi đến thỏa thuận việc đóng quân tại các nước nhằm giải giáp quân đội phát xít và phân chia phạm vi ảnh hưởng ở Châu Âu và Châu Á. Ở Châu Âu,quân đội Liên Xô sẽ chiếm đóng vùng Đông Đức,Đông Béclin và Đông Âu,còn quân đội Mĩ,Anh,Pháp chiếm đóng vùng Tây Đức,Tây Beclin,Italia và một số nước Tây Âu khác.Vùng Đông Âu thuộc phạm vi ảnh hưởng của Liên Xô,vùng Tây Âu thuộc phạm vi ảnh hưởng của Mĩ trong đó Áo,Phần Lan trở thành hai nước trung lập. 3 Ở Châu Á,hội nghị chấp nhận những điều kiện để đáp ứng việc Liên Xô tham gia chiến tranh chống Nhật,bao gồm: Bảo vệ nguyên trạng và công nhận quyền độc lập của Mông Cổ;trả lại Liên Xô những quyền lợi của đế quốc Nga ở Viễn Đông trước chiến tranh Nga-Nhật 1904, cụ thể: trả lại Liên Xô miền nam đảo Xa-kha-lin và tất cả những đảo nhỏ thuộc đảo này, quốc tế hóa thương cảng Đại Liên (Trung Quốc) và khôi phục việc Liên Xô thuê cảng Lữ Thuận(Trung Quốc) làm căn cứ hải quan, trả lại Liên Xô đường sắt Xibia-Trường Xuân, cùng sử dụng đường sắt Hoa Đông và đường sắt Xuân Mãn - Đại Liên; Liên Xô chiếm bốn đảo Curin, ngoài ra ba cường quốc cũng đã thỏa thuận để quân đội Mĩ chiếm đóng Nhật Bản, quân đội Liên Xô chiếm đóng miền Bắc Triều Tiên, quân đội Mĩ chiếm đóng Nam Triều Tiên, lấy vĩ tuyến 38 làm ranh giới. Nhật Bản thuộc phạm vi ảnh hưởng của Mĩ, Trung Quốc tiến tới thành lập chính phủ liên hiệp bao gồm Đảng cộng sản Trung Quốc và Mĩ với Liên Xô cùng có quyền lợi ở Trung Quốc. Các vùng còn lại của Châu Á(Đông Nam Á,Nam Á,Tây Á…) vẫn thuộc phạm vi ảnh hưởng truyền thống của các nước phương Tây. Những quyết định của Hội nghị cấp cao Ianta tháng 2/1945 đã trở thành những khuôn khổ của trật tự thế giới mới từng bước được thiết lập trong những năm 1945-1947 sau khi chiến tranh kết thúc thường được gọi là “Trật tự hai cực Ianta”(hai cực chỉ Mĩ và Liên Xô phân chia nhau phạm vi thế lực trên cơ sở thỏa thuận của hội nghị Ianta). 1.2. Hội nghị cấp cao Pôtxđam(từ 17/7/1945 đến 2/8/1945) Sau khi chiến tranh kết thúc ở Châu Á, nhiều mâu thuẫn mới và nhiều vấn đề mới lại nổi lên trong đó quan trọng nhất là vấn đề Đức và vấn đề kết thúc chiến tranh ở Viễn Đông. Để giải quyết vấn đề này từ ngày 17/7 đến 2/8/1945 những người cầm đầu 3 cường quốc là Liên Xô, Mĩ,Anh đã họp hôi nghị ở Pôtxđam(Đức). Trong hội nghị cấp cao Pôtxđam đã diễn ra cuộc đấu tranh gay gắt,phức tạp giữa Liên Xô, Mĩ, Anh trên tất cả các vấn đề quốc tế được nêu lên, cuối cùng hội nghị đã thỏa thuận thông qua những nghị quyết quan trọng có lợi cho hòa bình và cách mạng thế giới. Về vấn đề Đức,hội nghị Pôtxđam đã có những quyết định: - Tiêu diệt tận gốc chủ nghĩa quân phiệt và chủ nghĩa phát xít Đức,không để cho Đức đe dọa hòa bình,an ninh của các dân tộc; - Quy định nền công nghiệp của Đức phải được chuyển hoàn toàn sang công nghiệp hòa bình; 4 - Coi nước Đức là một quốc gia thống nhất toàn vẹn về kinh tế cũng như về chính trị; - Khuyến khích sự phát triển của các công đoàn dân chủ tự do,quyền tự do báo chí ngôn luận…; - Quy định Đức phải bồi thường ở mức tối đa về những thiệt hại mà Đức gây ra cho các nước Đồng minh; - Quy định việc tổ chức xử tội các tội phạm chiến tranh; Xác nhận những quyết định về việc thành lập Hội đồng kiểm soát,quyết định về các khu vực đóng quân. Ngày 26/7/1945 hội nghị Pôtxđam đi đến thỏa thuận những nguyên tắc trong việc giải quyết vấn đề Nhật Bản sau chiến tranh và ra bản “Tuyên cáo Pôtxđam kêu gọi Nhật Bản đầu hàng”. Ngoài ra, hội nghị Pôtxđam còn giải quyết được nhiều việc quan trọng khác như thành lập hội đồng ngoại trưởng các cường quốc (Liên Xô, Mĩ, Anh, Pháp, Trung Quốc) để giải quyết vấn đề dự thảo hòa ước với các nước phát xít chiến bại và tiếp tục giải quyết vấn đề Ba Lan theo nghị quyết của hội nghị Ianta. Hội nghị Pôtxđam đã cụ thể hóa vấn đề Đức, Nhật Bản và việc kí hòa ước với các nước phát xít chiến bại…nhằm bổ sung và hoàn chỉnh các nghị quyết của hội nghị Ianta để xây dựng một trật tự mới sau chiến tranh thế giới thứ hai.Việc “hòa bình hóa” và “dân chủ hóa” nước Đức và nước Nhật là một thắng lợi to lớn của hòa bình và cách mạng thế giới. 1.3. Hội nghị Xan Phranxixcô và việc thành lập Liên hợp quốc Từ ngày 25/4 đến 26/6/1945 hội nghị đại biểu của 50 nước đã họp tại Xan Phranxixcô (Mĩ) để thông qua Hiến chương Liên hợp quốc và thành lập tổ chức Liên hợp quốc. Sau hai tháng làm việc,qua các cuộc đấu tranh gay gắt giữa nhiều ý kiến và khuynh hướng khác nhau, hiến chương Liên hợp quốc được đại biểu của 50 nước kí kết ngày 26/6/1945. Hiến chương bắt đầu có hiệu lực kể từ ngày 24/10/1945 và ngày này cũng được coi là ngày Liên hợp quốc chính thức thành lập. Hiến chương Liên hợp quốc quy định mục đích cao nhất của Liên hợp quốc là nhằm duy trì hòa bình, an ninh thế giới, thúc đẩy sự phát triển quan hệ hữu nghị giữa các nước trên cơ sở tôn trọng quyền bình đẳng giữa các dân tộc và nguyên tắc dân tộc tự quyết. 5 Để thực hiện những mục đích trên, Hiến chương quy định Liên hợp quốc sẽ hành động dựa theo những nguyên tắc: chủ quyền bình đẳng giữa các quốc gia và quyền dân tộc tự quyết, tôn trọng toàn vẹn lãnh thổ và độc lập chính trị của tất cả các nước,giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng biện pháp hòa bình,chung sống hòa bình và đảm bảo sự nhất trí giữa 5 cường quốc(Liên Xô, Mĩ, Anh, Pháp, Trung Quốc), không can thiệp vào công việc nội bộ của bất cứ nước nào. Các cơ quan chính của Liên hợp quốc gồm: Đại hội đồng (tức hội nghị của tất cả các nước hội viên) họp mỗi năm một lần để thảo luận những vấn đề có liên quan thuộc phạm vi Hiến chương đã quy định. Trong hội nghị,quyết định của các vấn đề quan trọng nhất phải được thông qua với 2/3 tổng số phiếu, với vấn đề ít quan trọng hơn thì thông qua với đa số thuận. Hội đông bảo an: Cơ quan chính trị quan trọng nhất và hoạt động thường xuyên của Liên hợp quốc chịu trách nhiệm chính về việc hòa bình và an ninh quốc tế.Mọi nghị quyết của Hội đồng bảo an phải được thông qua với sự nhất trí của 5 cường quốc. Những quyết nghị của hội đồng bảo an được thông qua hoàn toàn phù hợp với hiến chương thì bắt buộc các nước hội viên phải thi hành. Hội đồng bảo an không phục tùng Đại hội đồng. Ban thư kí là cơ quan hành chính của Liên hợp quốc, đứng đầu có Tổng thư kí (do Đại hội đồng bầu ra theo sự giới thiệu của Hội đồng bảo an). Ngoài ra, Liên hợp quốc còn có nhiều tổ chức và cơ quan chuyên môn khác như Hội đồng kinh tế xã hội,Hội đồng quản thác, Tòa án quốc tế, Cao ủy người tị nạn (UNHCR), quỹ nhi đồng Liên hợp quốc(UNICEF)… Đến nay, Liên hợp quốc đã có 189 thành viên(2005).Xét theo tôn chỉ,mục đích và nguyên tắc hành động, Liên hợp quốc là một tổ chức quốc tế có vị trí quan trọng trong sinh hoạt quốc tế hiện nay. Hơn 60 năm tồn tại và phát triển của mình, Liên hợp quốc đã có những đóng góp quan trọng trong việc gìn giữ hòa bình và an ninh thế giới,có những đóng góp đáng kể vào tiến trình phi thực dân hóa cũng như có nhiều nỗ lực trong việc giải trừ quân bị và hạn chế sản xuất vũ khí hạt nhân. Ngoài ra, Liên hợp quốc cũng có những đóng góp đáng kể vào việc thúc đẩy mối quan hệ hợp tác về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội giữa các nước hội viên và trợ giúp cho các nước đang phất triển, thực hiện cứu trợ nhân đạo cho các nước hội viên khi gặp khó khăn. Hiện nay, khi cuộc “chiến tranh lạnh” kết thúc, tình hình thế giới đã chuyển biến khác trước, nhiều vấn đề đang được đặt ra đối với Liên hợp quốc: Vấn đề cải tổ và dân 6 chủ hóa các cơ cấu của Liên hợp quốc sao cho phù hợp với tình hình mới, vấn đề giữ gìn hòa bình và an ninh, vấn đề tài chính, bệnh tật, nghèo đói… 1.4. Hội nghị ngoại trưởng 5 cường quốc tại Mátxcơva Sau khi chiến tranh thế giới thứ hai chấm dứt,nhân cơ hội lực lượng Anh, Pháp bị suy yếu, không đủ khả năng để duy trì những vị trí cũ, Mĩ đã lợi dụng ưu thế về kinh tế, quân sự của mình để bành trướng thế lực ở Viễn Đông không đếm xỉa gì đến những điều đã cam kết trong các hội nghị quốc tế trước đây. Do âm mưu của Mĩ, tình hình Viễn Đông trở nên căng thẳng,phức tạp nhưng Mĩ đã gặp phải sức đấu tranh kiên quyết của Liên Xô và sự phản kháng mãnh liệt của nhân dân Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản nên buộc phải đồng ý đưa vấn đề Viễn Đông ra thảo luận tại hội nghị ngoại trưởng các nước Liên Xô, Mĩ, Anh, Pháp, Trung Quốc ở Mátxcơva từ ngày 16 đến 26/12/1945. Về vấn đề Nhật Bản, Mĩ buộc phải đồng ý đề nghị của Liên Xô để tất cả các nước đồng minh được tham gia việc định đoạt chính sách đối với Nhật và kiểm tra việc thực hiện chính sách đó. Để thực hiện nhiệm vụ này, hội nghị đã thành lập hai cơ quan đặc biệt: Hội đồng đồng minh ở Tôkiô và ủy ban Viễn Đông. Về vấn đề Triều Tiên, Hội nghị đã thông qua những quy định: - Xây dựng một nước Triều Tiên độc lập, thành lập chính phủ dân chủ lâm thời để đảm nhiệm việc phát triển nông nghiệp, công nghiệp, văn hóa…; - Ủy ban Liên hợp quốc ở Triều Tiên được thành lập; Thời gian ủy trị của 4 cường quốc không được kéo dài quá 5 năm. Việc ủy trì chỉ là một biện pháp để giúp đỡ và khuyến khích sự tiến bộ về chính trị, kinh tế, xã hội… Về vấn đề Trung Quốc, hội nghị đề ra những quy định: - - Trung Quốc phải là một nước thống nhất và dân chủ; - Chấm dứt cuộc nội chiến ở Trung Quốc; Chính phủ Quốc dân đảng cần phải tổ chức lại và mở rộng cho các đảng phái dân chủ tham gia; - Các cường quốc không tham gia vào công việc nội bộ của Trung Quốc và trong một thời gian ngắn, quân đội nước ngoài phải rút khỏi Trung Quốc. Nhờ sự đấu tranh kiên quyết của Liên Xô và nhân dân các nước Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản, hội nghị đã thu được những kết quả có lợi cho cách mạng, những quy định của hội nghị về vấn đề Viễn Đông đã góp phần bảo vệ nền hòa bình ở khu vực này 7 đồng thời tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho phong trào cách mạng của nhân dân Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản phát triển mạnh mẽ. 2. MÂU THUẪN ĐÔNG – TÂY VÀ SỰ KHỞI ĐẦU "CHIẾN TRANH LẠNH" 2.1.Nguyên nhân dẫn tới tình trạng "Chiến tranh lạnh" Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, hai cường quốc Mĩ và Liên Xô nhanh chóng chuyển sang đối đầu và đi tới tình trạng "Chiến tranh lạnh". + Sự đối lập nhau về mục tiêu và chiến lược của hai cường quốc. Liên xô muốn duy trì hòa bình,an ninh thế giới, bảo vệ những thành quả của Chủ nghĩa xã hội và đẩy mạnh phong trào cách mạng thế giới.Ngược lại Mĩ ra sức chống phá Liên Xô và các nước Xã hội chủ nghĩa, đẩy lùi phong trào cách mạng thế giới, nhằm bá chủ thế giới. + Mĩ hết sức lo ngại trước sự phát triển của Chủ nghĩa xã hội, đã trở thành một hệ thống thế giới trải dài từ Châu Âu sang Châu Á. + Sau chiến tranh thế giới thứ hai, Mĩ vươn lên thành một nước tư bản giàu mạnh nhất, nắm ưu thế về vũ khí hạt nhân. Mĩ tự cho mình có quyền lãnh đạo thế giới. "Chiến tranh lạnh" là chính sách thù địch, căng thẳng trong quan hệ giữa Mĩ và các nước phương Tây với Liên Xô và các nước Xã hội chủ nghĩa. 2.2.Những sự kiện khởi đầu "Chiến tranh lạnh" 2.2.1."Học thuyết Truman"và âm mưu của Mĩ Việc tiêu diệt tận gốc chủ nghĩa phát xít và thực hiện những cải cách dân chủ ở các nước phát xít chiến bại đã thúc đẩy phong trào phát triển mạnh mẽ. Đầu năm 1947, ở các nước Anbani, Bungari, Rumani, Đông Đức, chính quyền dần dần thật sự chuyển vào tay nhân dân lao động. Ở châu Á, quân giải phóng Trung Quốc giáng cho quân đội Tưởng Giới Thạch những đòn chí mạng. Để đối phó lại, tháng 3-1947, Tổng thống Mĩ-Truman đã đọc diễn văn trước Quốc hội Mĩ, chính thức đưa ra "Học thuyết Truman". Theo Truman thì các nựớc Đông Âu "vừa mới bịCộng sản thôn tính" và những đe dọa tương tự đang diễn ra trên nhiều nước khác ở châu Âu, ở Italia, Pháp và cả ở nước Đức nữa. Vì vậy, Mĩ phải đứng ra "đảm nhiệm sứ mạng lãnh đạo thế giới tự do", phải "giúp đỡ" cho các dân tộc trên thế giới chống lại "sự đe doạ" của Chủ nghĩa Cộng sản, chống lại sự "bành trướng" của Liên Xô, giúp đỡ bằng mọi biện pháp kinh tế, quân sự. Tổng thống Mĩ 8 Truman đã phát động cuộc "Chiến tranh lạnh" chống Liên Xô và các nước Xã hội chủ nghĩa. Với sự ra đời của "Học thuyết Truman", mối quan hệ đồng minh giữa Liên Xô với Mĩ và các nước phương Tây trong thời kì chiến tranh chống phát xít đã tan vỡ và thay vào đó là cuộc "Chiến tranh lạnh''. Để phát động "Chiến tranh lạnh", Mĩ tìm cách lôi kéo các nước Đồng minh vào những tổ chức kinh tế, chính trị, quân sự để qua đó khống chế, thao túng các nước này... 2.2.2. Kế hoạch Mác-san phục hưng châu Âu Ngày 5-6-1947, ngoại trưởng Mĩ- Macsan đọc diễn văn đưa ra "Phương án phục hưng châu Âu", trong đó nhấn mạnh chỉ cần một bộ phận hoặc toàn bộ các nước châu Âu cùng nhau xây dựng một kế hoạch "phục hưng" thì Mĩ sẽ vui lòng mở rộng "viện trợ" đến châu Âu. Ngày 12-7-1947, các nước Anh, Pháp triệu tập ở Pari hội nghị 16 nước tư bản châu Âu chấp nhận "viện trợ" của Mĩ, thành lập "Uỷ ban hợp tác kinh tế châu Âu" và yêu cầu Mĩ "viện trợ" 29 tỉ đô la trong 4 năm (sau giảm xuống khoảng 17 tỉ). Tháng 4-1948, Quốc hội Mĩ thông qua "đạo luật, viện trợ nước ngoài" với những quy định như: các nước nhận viện trợ buộc phải kí với Mĩ những hiệp định tay đôi có lợi cho Mĩ, phải thi hành "hết sức nhanh chóng" các chính sách kinh tế, tài chính mà Mĩ yêu cầu; phải bảo đảm quyền lợi cho tư nhân Mĩ đầu tư kinh doanh; phải cung cấp nguyên liệu chiến lược cho Mĩ,… Ngoài ra, đạo luật còn dùng những lời lẽ kín đáo buộc các nước nhận "viện trợ" phải thủ tiêu việc buôn bán với các nước Xã hội chủ nghĩa và gạt các lực lượng tiến bộ ra ngoài chính phủ của các nước nhận "viện trợ" đã phục hồi rồi sau đó phát triển nhanh chóng, nhưng bị lệ thuộc vào Mĩ về kinh tế, chính trị quân sự. Để đối phó với "Học thuyết Truman" và "Kế hoạch Macsan", tháng 9 - 1947, theo sáng kiến của Đảng Cộng sản Liên Xô, tại Vacxava đã tiến hành hội nghị đại biểu các Đảng Cộng sản Liên Xô, Bungari, Hunggari, Ba Lan... Hội nghị đã thông qua bản tuyên bố, trong đó phân tích tình hình thế giới lúc này đã chia thành hai phe: phe "đế quốc" và "tư bản" (do Mĩ đứng đầu) và phe chống đế quốc, chống tư bản (do Liên Xô đứng đầu). Hội nghị quyết định thành lập cơ quan thông tin của một số Đảng Cộng sản và công nhân gọi là Cục thông tin quốc tế (KOMINFORM) với nhiệm vụ tổ chức việc thông tin, trao đổi kinh nghiệm và phối hợp hành động đấu tranh cách mạng giữa các Đảng một cách tự nguyện. 9 Sau khi các nước Đông Âu đã hoàn thành Cách mạng Dân chủ nhân dân và tiến lên xây dựng Chủ nghĩa xã hội, ngày 8-1-1949, Liên Xô và các nước Anbani, Ba Lan, Bungari, Hunggari, Rumani, Tiệp Khắc đã quyết định thành lập tổ chức kinh tế của các nước xã hội chủ nghĩa: Hội đồng tương trợ kinh tế ( SEV) để thúc đẩy sự hợp tác và sự giúp đỡ lẫn nhau giữa các nước. Như thế, trên thế giới đã xuất hiện hai khối kinh tế đối lập nhau: khối kinh tế của các nước Xã hội chủ nghĩa (khối SEV) với thị trường riêng của nó và khối kinh tếTư bản chủ nghĩa. 2.2.3. Sự xuất hiện hai khối quân sự và cuộc chạy đua vũ trang giữa hai khối Để tiến thêm một bước nữa trong việc thực hiện âm mưu thống trị thế giới và chống lại các nước xã hội chủ nghĩa, chống lại phong trào giải phóng dân tộc, Mĩ tiến hành thành lập các khối quân sự xâm lược nhằm tập hợp các lực lượng phản cách mạng đặt dưới sự chỉ huy của Mĩ để bao vây Liên Xô, các nước dân chủ nhân dân Đông Âu và các nước có cao trào giải phóng dân tộc. Bước đầu tiên trên con đường xây dựng các khối quân sự xâm lược là "Hiệp định phòng thủ Tây bán cầu" kí giữa Mĩ và các nước chư hầu Mĩ ở hội nghị Riô đơ Gianêrô (Rio de Janeiro) tháng 9-1947. Tiếp theo hiệp định trên, Anh, Pháp và các nước phương Tây bắt đầu thương lượng xây dựng liên minh quân sự - chính trị giữa các nước phương Tây. Ngày 17-3-1948, hiệp ước "Liên hiệp Tây Âu" đã được kí kết giữa 5 nước (Anh, Pháp, Hà Lan, Bỉ, Lucxembua) ở Brucxen. Mĩ hoan nghênh việc thành lập liên minh quân sự phương Tây, nhưng không thoả mãn vì liên minh này không có tác dụng lớn về mặt quân sự và Anh lại chiếm địa vị lãnh đạo trong khối này. Hơn nữa, Mĩ không thể tham gia vào khối liên hiệp Tây Âu được cho nên Mĩ cố gắng nắm lấy khối này và dựa vào đó làm nòng cốt cho việc xây dựng "Khối Bắc Đại Tây Dương" rộng lớn hơn, trong đó Mĩ sẽ giữ vai trò lãnh đạo. Để xúc tiến việc thành lập, Mĩ đã tiến hành những cuộc vận động trong Quốc hội Mĩ và thương lượng giữa Mĩ với khối liên hiệp Tây Âu. Kết quả ngày 11-61948, Quốc hội Mĩ đã thông qua quyết định Vanđenbơ cho phép chính phủ Mĩ, lần đầu tiên trong lịch sử, có quyền được kí kết những liên minh quân sự với các nước ngoài châu Mĩ trong thời bình. Cuối cùng, tháng 4/1949, hiệp ước Bắc Đại Tây Dương đã được 12 nước kí kết. Tháng 9 - 1949, khoá họp đầu tiên của Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương đã họp ở Oasinhtơn, lập ra ban phòng thủ và uỷ ban quân sự. Như vậy, Tổ chức hiệp ước Bắc Đại Tây Dương, gọi là NATO (North Atlantic Treaty Organisation) đã ra đời. Đây là liên minh quân sự do Mĩ cầm đầu nhằm chống Liên Xô và các nước Đông Âu. 10 Sau "Học thuyết Truman" và "Kế hoạch Macsan", việc thành lập Tổ chức hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) là một bước tiến mới và cũng là một bộ phận quan trọng trong việc thực hiện những kế hoạch thống trị thế giới của Mĩ. Thực chất, khối NATO là một công cụ của chính sách bành trướng xâm lược của Mĩ. Vì thế, ngay sau khi thành lập, khối NATO đã chứa chất những mâu thuẫn nội bộ gay gất: Anh và Mĩ tranh giành nhau quyền lãnh đạo và ảnh hưởng trong khối NATO; sau khi vươn lên, Pháp và Tây Đức cũng đấu tranh gay gắt đòi Mĩ chia sẻ quyền lãnh đạo. Năm 1954, sau khi chia cắt nước Đức và thành lập nước Cộng hoà liên bang Đức, Mĩ và các nước phương Tây đã kí hiệp ước Pari nhằm vũ trang lại Tây Đức và đưa Tây Đức vào khối quân sự NATO, biến Tây Đức thành "một lực lượng xung kích" chống lại Cộng hoà dân chủ Đức, Liên Xô và các nước Đông Âu xã hội chủ nghĩa. Trước tình hình đó, các nước Anbani, Bungari, Hunggari, Cộng hoà dân chủ Đức, Ba Lan, Rumani, Liên Xô và Tiệp Khắc đã tổ chức hội nghị ở Vácxava từ ngày 11 đến 14-5-1955 nhằm giữ gìn an ninh của các hội viên, duy trì hoà bình ở châu Âu và củng cố hơn nữa tình hữu nghị và sự hợp tác vững bền giữa các nước hội viên. Tổ chức Hiệp ước Vácsava được thành lập để tăng cường sự phòng thủ và chống lại sự đe doạ của Mĩ và phương Tây. Như vậy, sự ra đời của NATO và Tổ chức Hiệp ước Vácsava là những sự kiện đánh dấu sự xác lập của cục diện hai cực, hai phe do hai siêu cường Mĩ và Liên Xô đứng đầu mỗi cực, mỗi phe. "Chiến tranh lạnh" đã bao trùm thế giới. Sau khi thành lập, cả hai khối quân sự đều ra sức chạy đua vũ trang, trang bị những vũ khí hết sức hiện đại để tăng cường sức mạnh của khối mình. Mĩ đã tiếp tục thành lập các khối quân sự, liên minh quân sự ở các khu vực khác nhằm hỗ trợ cho khối NATO và bao vây Liên Xô, các nước xã hội chủ nghĩa: hiệp định an ninh Mĩ - Nhật (9-1951), khối ANZUS (Mĩ - Oxtrâylia - Niu Dilan, 9-1951), khối SEATO ở Đông Nam Á (9-1954), khối CENTO ở Trung Cận Đông (1959). Mĩ đã thiết lập trên 2000 căn cứ quân sự, đưa hàng chục vạn quân Mĩ đóng rải rác khắp mọi nơi (năm 19681969, Mĩ có 1,5 triệu quân đóng ở nước ngoài trong tổng số 3.477.000 quân thường trực của Mĩ, trong đố có 60 vạn quân ở Đông Dương... Phía Liên Xô cũng đưa hàng chục vạn quân ra đóng ở các nước Đông Âu (tập trung ở Đông Đức), ở Mông Cổ và biên giới Xô - Trung. 11 Cuộc chạy đua vũ trang giữa hai nước Xô - Mĩ đã lên tới đỉnh cao vào những năm 70. Theo ước tính của các nhà quân sự thì chỉ cần phóng ra 1/2 số kho vũ khí hạt. nhân của Mĩ hoặc của Liên Xô, cũng đủ để huỷ diệt toàn bộ sự sống con người và nền văn minh của toàn nhân loại. Ngoài ra, những cuộc xung đột quân sự ở các khu vực trong thời kì này như: chiến tranh cục bộ ở Triều Tiên (1950-1953); vụ quốc hữu hoá kênh Xuyê và cuộc chiến tranh xâm lược Ai Cập của Anh, Pháp, Ixraen (1956); việc kí kết hiệp định an ninh Mĩ - Nhật (9-1951); thất bại của Mĩ trong âm mưu can thiệp và mở rộng chiến tranh xâm lược ở Đông Dương (7-1954); sự cạnh tranh gay gắt giữa các cường quốc ở khu vực Trung Cận Đông từ cuối thập niên 40 nhằm tranh chấp độc quyến thăm dò và khai thác dầu lửa... đều có liên quan đến sự đối đầu của hai cực Xô - Mĩ và lôi cuốn nhiểu nước trên thế giới tham gia. II. QUAN HỆ QUỐC TẾ TỪ NỬA SAU NHỮNG NĂM 70 ĐẾN NAY 1. Xu thế hòa hoãn Đông- Tây và chiến tranh lạnh chấm dứt Từ đầu những năm 70 (thế kỉ XX), xu hướng hoà hoãn Đông – Tây đã xuất hiện với những cuộc gặp gỡ thương lượng Xô – Mĩ. + Trên cơ sở những thoả thuận Xô – Mĩ, Hiệp định về những cơ sở của quan hệ giữa Đông Đức và Tây Đức được kí kết (tháng 11-1972).Theo đó hai bên tôn trọng không điều kiện chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau cũng như cảu các nước Châu Âu trên đường biên giới hiện tại.Hai bên thiết lập quan hệ láng giềng thân thiện trên cơ sở bình đẳng và giả quyết các vấn đề tranh chấp hoàn toàn bằng biện pháp hòa bình . Nhờ đó tình hình căng thẳng ở Châu Âu giảm đi rõ rệt. + Năm 1972, Liên Xô và Mĩ kí Hiệp ước về việc hạn chế hệ thống phòng chống tên lửa (ABM) và Hiệp định hạn chế vũ khí tiến công chiến lược (SALT-1). + Tháng 8-1975, 33 nước châu Âu cùng Mĩ và Canađa kí Định ước Henxinki, khẳng định những nguyên tắc trong quan hệ giữa các quốc gia và tạo nên một cơ chế giải quyết các vấn đề liên quan đến hoà bình, an ninh ở châu Âu và sự hợp tác giữa các nước về kinh tế, khoa học kĩ thuật, bảo vệ môi trường…Định ước Henxinki(1975) đã tạo nên một cơ chế giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng phương pháp hòa bình. Từ nửa sau những năm 80, đặc biệt, từ khi Gooc-ba-chôp lên cầm quyền ở Liên Xô, quan hệ Xô - Mĩ đã thực sự chuyển từ "đối đầu" sang "đối thoại". Để giải quyết các 12 vấn đề tranh chấp, Liên Xô và Mĩ đã tiến hành nhiều cuộc gặp gỡ cấp cao giữa Rigân và Gooc-ba-chôp, giữa Busơ và Gooc-ba-chôp qua đó nhiều văn kiện về hợp tác trên các lĩnh vực kinh tế, buôn bán, văn hóa và khoa học - kĩ thuật, được kí kết, nhưng quan trọng nhất là việc kí kết Hiệp ước thủ tiêu tên lửa tầm trung ở châu Âu năm 1987 .Cũng từ năm 1987, hai nước Mĩ và Liên Xô đã thỏa thuận cùng giảm một bước quan trọng cuộc chạy đua vũ trang, từng bước chấm dứt cục diện "chiến tranh lạnh", cùng hợp tác với nhau giải quyết các vụ tranh chấp và xung đột quốc tế. Cuối năm 1989, tại cuộc gặp gỡ không chính thức giữa Busơ và Gooc-ba-chôp trên đảo Manta, Mĩ và Liên Xô đã chính thức tuyên bố chấm dứt cuộc "Chiến tranh lạnh" kéo dài trên 40 năm giữa hai nước này. Sở dĩ Mĩ và Liên Xô chấm dứt "Chiến tranh lạnh" vì: Thứ nhất, trải qua hơn 40 năm, với gánh nặng "chạy đua vũ trang" và "bao" về chi tiêu quân sự hầu khắp thế giới (thời gian này hai nước Xô - Mĩ phải gánh chịu từ 50 đến 55% chi tiêu quân sự của toàn thế giới), bản thân hai nước này bị suy giảm "thế mạnh" của họ về nhiều mặt so với các cường quốc khác; Thứ hai, Mĩ và Liên Xô đều đứng trước những khó khăn và thách thức hết sức to lớn: hai nước Đức và Nhật Bản - hai nước phát xít chiến bại nay vươn lên mạnh mẽ, trở thành đối thủ nguy hiểm đối với Mĩ và Liên Xô; các nước trong "Khối thị trường chung châu Âu (EEC)" trở nên rất mạnh, cuộc "Chiến tranh kinh tế" mang tính toàn cầu mà cả thế giới đang ra sức chạy đua; cuộc cách mạng công nghệ và kĩ thuật đang diễn ra sôi nổi .v.v... Do vậy, muốn vươn lên kịp các nước khác, cả hai nước cần phải thoát khỏi thế "đối đầu" với nhau và có cục diện ổn định; Thứ ba, kinh tế của Mĩ và Liên Xô đều giảm sút so với Nhật Bản và Tây Âu (đặc biệt, Liên Xô lúc này đã lâm vào khủng hoảng trầm trọng). Như thếthời kì “Chiến tranh lạnh" đã chấm dứt và quan hệ quốc tế đã bước sang một thời kì mới, "thời kì sau Chiến tranh lạnh". 2. Quan hệ hai nước Xô - Mĩ từ sau "Chiến tranh lạnh" (1989 - 1991) Từ sau năm 1989, Liên Xô và Mĩ đã thực sự từ "đối đầu” chuyển sang "đối thoại" hợp tác với nhau để giải quyết những tranh chấp quốc tế và những vụ xung đột quân sự mang tính đối địch giữa "hai cực" trước đây ở các khu vực trên thế giới. Liên Xô và Mĩ đã đi đến thỏa thuận giải quyết cuộc xung đột quân sự ở Apganixtan bằng việc quân đội Liên Xô rút ra khỏi Apganixtan, giải quyết vấn đề 13 Campuchia (thương lượng và kí kết hiệp định Pari về Campuchia năm 1991), giải quyết vấn đề Namibia ở Tây Nam Phi... Trong những thỏa thuận với Mĩ, Liên Xô đã có những thỏa hiệp, nhượng bộ không có lợi cho cách mạng thế giới, như thực hiện chính sách "không can thiệp" vào Đức và các nước Đông Âu, chính sách không thực hiện những cam kết với các nước đồng minh cũ của Liên Xô (ngừng viện trợ cho Cuba, Việt Nam, Mông Cổ, v.v...). Ngày 31-7-1991, Liên Xô kí với Mĩ một hiệp ước nhằm hạn chế và giảm bớt vũ khí tiến công chiến lược (gọi tắt là hiệp ước START), mà theo đó, 1/3 kho vũ khí hạt nhân của hai nước sẽ được thủ tiêu trong vòng 7 năm tới. Kí kết hiệp định này, phía Liên Xô đã bị bất lợi trong việc duy trì thế cân bằng về sức mạnh vũ khí hạt nhân với Mĩ. Nhìn chung, những thỏa hiệp và nhượng bộ của Liên Xô đối với Mĩ từ 1989 - 1991 đã làm suy giảm sức mạnh và vị trí của Liên Xô ở khắp các khu vực trên thế giới. 3. Sự sụp đổ của "Trật tự hai cực Ianta" Trong những năm 1989 - 1991, chế độ xã hội chủ nghĩa đã sụp đổ ở Đông Âu, làm mất đi khu vực "phạm vi ảnh hưởng" của Liên Xô ở châu Âu. Tiếp đến, ngày 19-8-1991, ở Liên Xô đã diễn ra đảo chính nhằm lật đổ Tổng thống Gooc-ba-chôp. Ngày 21-12-1991, 11 nước Cộng hòa trong Liên bang Xô viết cũ đã kí hiệp định thành lập Cộng đồng các quốc gia độc lập (SNG). Sự ra đời của SNG buộc Tổng thống Liên Xô Gooc-ba-chôp phải từ chức ngày 25-12-1991. Như thế, chế độXã hội chủ nghĩa đã sụp đổ ở Liên Xô và Liên bang Xô viết tan vỡ. Sự kiện này dẫn đến một "cực" - "cực Liên Xô" - đã bị sụp đổ. Sự sụp đổ của chế độXã hội chủ nghĩa ở các nước Đông Âu, Liên Xô dẫn đến việc khối quân sự Vacxava tự tuyên bố giải thể từ ngày 1-7-1991 và Hội đồng tương trợ kinh tế (khối SEV) ngừng hoạt động ngày 28-6-1991. Trải qua hơn 40 năm, "Trật tự hai cực Ianta” đã từng bước bị xói mòn: thắng lợi của cách mạng Trung Quốc năm 1949 đã tạo ra một "đột phá” đối với trật tự này là đập tan âm mưu của Mĩ khống chế Trung Quốc và Liên Xô buộc phải bỏ những đặc quyền ở vùng Đông Bắc Trung Quốc; sự lớn mạnh về kinh tế của các nước tư bản Tây Âu, đặc biệt sự ra đời của Khối thị trường chung châu Âu (EEC) từ giai đoạn trước làm suy giảm nghiêm trọng phạm vi ảnh hưởng của Mĩ ở Tây Âu; thắng lợi của phong trào giải phóng dân tộc làm thay đổi căn bản bộ mặt của khu vực Á - Phi - Mĩ latinh mà theo "khuôn khổ Ianta" thuộc ảnh hưởng truyền thống của Mĩ và các nước Tây Âu; sự phát triển mạnh mẽ 14 về kinh tế của Nhật Bản, Tây Âu dẫn đến viêc hai trung tâm kinh tế - tài chính là Tây Âu và Nhật Bản cạnh tranh với Mĩ (trước đây Mĩ là trung tâm kinh tế, tài chính duy nhất của cả thế giới) v.v...Tuy thế, "trật tự hai cực Ianta" về căn bản vẫn được duy trì. Nhưng sau những biến động lớn ở Đông Âu và Liên Xô trong những năm 1989 - 1991, "trật tự hai cực Ianta" thực sự bị phá vỡ, thể hiện trên các mặt: + "Hai cực", tức hai siêu cường Mĩ và Liên Xô, trong trật tự thế giới cũ đã bị phá vỡ: Liên Xô bị sụp đổ hoàn toàn từ góc độ một nhà nước, Mĩ tuy vẫn giữ được vị trí đứng đầu thế giới về sức mạnh kinh tế và sức mạnh quân sự nếu tính riêng từng nước một, nhưng gộp lại cả Tây Âu và Nhật Bản thì về nhiều mặt, Mĩ đã bị suy kém hoặc đứng ở hàng thứ hai (nửa sau những năm 40 và trong những năm 50, Mĩ mạnh hơn tất cả các nước tư bản cộng lại về kinh tế và quân sự); + Phạm vi ảnh hưởng của Liên Xô ở châu Âu và châu Á đã bị mất hết, còn Mĩ thì bị thu hẹp rất nhiều ở khắp mọi nơi; + Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Liên Xô và Mĩ là hai nước chiến thắng chủ yếu và thu được những quyền lợi lớn nhất, trong "trật tự hai cực Ianta", còn Đức và Nhật Bản là hai nước phát xít chiến bại chủ yếu và bị sụp đổ về kinh tế - quân sự, nhưng qua 45 năm, Nhật Bản và nước Đức (đã thống nhất trở lại) vươn lên hùng mạnh về kinh tế và địa vị chính trị, đang trở thành mối lo ngại đối với các cường quốc thắng trận trước đây (Mĩ, Nga, Anh, Pháp...). 4. Thế giới sau “Chiến tranh lạnh” Sau khi "Trật tự hai cực" bị phá vỡ, Mĩ ra sức vươn lên "thế một cực” trong trật tự thế giới mới, còn các cường quốc khác cố gắng duy trì "thế đa cực", trong đó Đức và Nhật Bản đang đòi hỏi trở thành "hai cực nữa" trong trật tự "đa cực" này. Từ đầu những năm 90, một trật tự thế giới mới đang dần dần được hình thành. Trật tự thế giới mới này được hình thành như thế nào, còn tùy thuộc ở nhiễu nhân tố: + Sự phát triển về thực lực kinh tế, chính trị, quân sự của các cường quốc Mỉ, Nga, Trung Quốc, Anh, Pháp, Nhật Bản, Đức trong cuộc chạy đua về sức mạnh quốc gia tổng hợp (tức sức mạnh tổng hợp về mọi mặt của một nước, trong đó kinh tế là sức mạnh trụ cột); + Sự lớn mạnh của lực lượng cách mạng thế giới (sự thành bại của công cuộc cải cách, đổi mới ở các nước xã hội chủ nghĩa; + Sự vươn lên của các nước Á - Phi - Mĩ latinh sau khi giành được độc lập; 15 + Sự phát triển của phong trào đấu tranh vì hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội trên toàn thế giới v.v...); + Sự phát triển của cách mạng khoa học - kĩ thuật sẽ còn tiếp tục tạo ra những "đột phá" và biến chuyển trên cục diện thế giới. Sau khi "Chiến tranh lạnh" chấm dứt, Trật tự hai cực Ianta sụp đổ, tình hình thế giới có những thay đổi lớn và phức tạp, phát triển theo các xu thế chính sau đây: + Một là, trật tự thế giới hai cực đã tan rã, trật tự thế giới mới đang trong quá trình hình thành và ngày càng theo xu thế đa cực với sự vươn lên của Mĩ, Liên minh châu Âu, Nhật Bản, Nga và Trung Quốc…; + Hai là, các quốc gia đều điều chỉnh chiến lược phát triển, tập trung vào phát triển kinh tế, xây dựng sức mạnh thực sự của quốc gia; + Ba là, sự tan rã của Liên Xô tạo cho Mĩ có lợi thế tạm thời, Mĩ ra sức thiết lập trật tự thế giới “đơn cực” để làm bá chủ thế giới. Nhưng trong so sánh lực lượng giữa các cường quốc, Mĩ không dễ dàng thực hiện được tham vọng đó; + Bốn là, sau Chiến tranh lạnh, tuy hoà bình thế giới được củng cố, nhưng xung đột, tranh chấp và nội chiến lại xảy ra ở nhiều khu vực như bán đảo Bancăng, châu Phi và Trung Á. + Năm là, chính sách đối ngoại của các nước lớn được điều chỉnh theo hướng đối thoại, thỏa hiệp, tránh xung đột; + Sáu là, cuộc cách mạn khoa học và công nghệ nửa sau thế kỉ XX và xu thế toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ. – Thời cơ và thách thức: + Bước sang thế kỉ XXI, với sự tiến triển của xu thế hoà bình, hợp tác và phát triển, các dân tộc hi vọng về một tương lai tốt đẹp của loài người; + Xu thế “liên kết khu vực” đi đôi với xu thế “toàn cầu hóa”phát triển nhanh như Liên minh Châu Âu(EU),Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN),…Một thời kì mới trong quan hệ quốc tế đã bắt đầu,trong đó tất cả các quốc gia,dân tộc đều đang đứng trước những thử thách,thời cơ để đưa vận mệnh đất nước mình tiến lên kịp với thời đại mới.Sự nghiệp bảo vệ hòa bình-mối quan tâm hàng đầu của toàn nhân loại đang ngày càng tiến triển,mặc dù nguy cơ chiến tranh chưa phải đã chấm dứt.Những cuộc xung đột diễn ra ở 16 nhiều nơi trên thế giới nhưng đã xuất hiện khả năng hiện thực để ngăn chặn cuộc chiến tranh thế giới hủy diệt bảo vệ sự sống con người và nền văn minh nhân loại; + Nhưng cuộc tấn công khủng bố bất ngờ vào nước Mĩ ngày 11-9-2001đã mở đầu cho một thời kì biến động lớn, đặt các quốc gia dân tộc đứng trước những thách thức của chủ nghĩa khủng bố. Nó đã gây ra những tác động to lớn, phức tạp đối với tình hình thế giới và các quan hệ quốc tế. B.BÀI TẬP VẬN DỤNG I. Câu hỏi tự luận: Câu 1: Quan hệ Mĩ - Liên Xô trong và sau Chiến tranh thế giới thứ hai có gì khác nhau? Tại sao có sự khác nhau đó? * Quan hệ Mĩ - Liên Xô:Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Mĩ và Liên Xô là đồng minh. Sau chiến tranh, Mĩ và Liên Xô nhanh chóng chuyển sang thế đối đầu và đi tới tình trạng “Chiến tranh lạnh”. * - Giải thích Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, chủ nghĩa phát xít là kẻ thù chung của cả Liên Xô và Mĩ nên hai nước buộc phải liên minh với nhau. - Sau chiến tranh, Mĩ và Liên Xô có sự đối lập về mục tiêu và chiến lược: Liên Xô chủ trương duy trì hòa bình và an ninh thế giới, bảo vệ thành quả của Chủ nghĩa xã hội; Mĩ chống phá Liên Xô và các nước Xã hội chủ nghĩa, âm mưu làm bá chủ thế giới. Từ sự đối lập trên, Mĩ và Liên Xô đã nhanh chóng chuyển sang thế đối đầu. Câu 2:Vì sao Liên Xô và Mĩ tuyên bố chấm dứt “Chiến tranh lạnh”? Nêu các xu thế phát triển của thế giới sau Chiến tranh lạnh. Các xu thế phát triển đó, đặt ra cho dân tộc Việt Nam trước những thời cơ và thách thức gì? a. Liên Xô và Mĩ tuyên bố chấm dứt “Chiến tranh lạnh” vì: - Sau bốn thập niên chạy đua vũ trang quá tốn kém làm cho cả hai nước bị suy giảm thế mạnh của họ trên nhiều mặt so với các cường quốc khác… - Nhiều khó khăn và thách thức to lớn đã đặt ra trước hai nước do sự vươn lên mạnh mẽ của Nhật Bản, các nước Tây Âu… Còn nền kinh tế Liên Xô lúc này ngày càng lâm vào trì trệ khủng hoảng… - Để thoát khỏi thế đối đầu nhằm ổn định và củng cố vị thế của mình, tháng 12-1989 Liên Xô và Mĩ đã cùng nhau tuyên bố chấm dứt Chiến tranh lạnh. b.Các xu thế phát triển của thế giới sau Chiến tranh lạnh: 17 - Một là, xu thế hoà hoãn và hoà dịu trong quan hệ quốc tế… Hai là, sự tan rã của Trật tự hai cực I-an-ta và thế giới đang tiến tới xác lập một trật tự thế giới mới, đa cực, nhiều trung tâm… - Ba là, từ sau Chiến tranh lạnh và dưới tác động to lớn của cách mạng khoa học – kỹ thuật, hầu hết các nước đều ra sức điều chỉnh chiến lược phát triển lấy kinh tế làm trọng điểm… - Bốn là, tuy hoà bình thế giới được củng cố, nhưng từ đầu những năm 90 của thế kỉ XX, ở nhiều khu vực lại xảy ra những vụ xung đột quân sự hoặc nội chiến giữa các phe phái… - Năm là, chính sách đối ngoại của các nước lớn được điều chỉnh theo hướng đối thoại, thỏa hiệp, tránh xung đột; - Sáu là, cuộc cách mạn khoa học và công nghệ nửa sau thế kỉ XX và xu thế toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ. c. Các xu thế phát triển đó, đặt ra cho dân tộc Việt Nam trước những thời cơ và thách thức : - Thời cơ: + Nguồn vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lí, thị trường rộng lớn…tạo cơ hội cho Việt Nam. + Chúng ta có thể mở rộng quan hệ hợp tác hữu nghị, tận dụng những thành tựu khoa học – công nghệ và các nguồn lực khác của thế giới, nhanh chóng đưa nước ta tiến lên kịp thời đại. - Thách thức: + + Thách thức lớn nhất là trình độ lực lượng sản xuất của ta còn kém… Ngoài ra, còn âm mưu diễn biến hoà bình, nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa, nguy cơ suy thoái đạo đức, đánh mất bản sắc dân tộc, tình trạng ô nhiễm môi trường, bệnh tật, tai nạn giao thông… Câu 3: Trình bày những quyết định của hội nghị Ianta tháng 2/1945?Thỏa thuận Ianta đã tác động như thế nào đến tình hình thế giới trong những năm 19451947? 1.Hoàn cảnh triệu tập: -Đầu năm 1945,chiến tranh thế giới thứ hai sắp kết thúc,nhiều vấn đề bức thiết đặt ra trước các nước đồng minh đòi hỏi phải giải quyết,đó là: 18 +Việc nhanh chóng đánh bại các nước phát xít; +Việc tổ chức lại trật tự thế giới sau chiến tranh; +Việc phân chia thành quả chiến thắng giữa các nước thắng trận; -Từ 4 đến 11/2/1945 hội nghị quốc tế được triệu tập tai Ianta(Liên Xô) với sự tham dự của những người đứng đầu 3 cường quốc Liên Xô,Mĩ,Anh. 2. Nội dung: Hội nghị đã đưa ra những quyết định quan trọng: -Thống nhất mục tiêu chung:Tiêu diệt tận gốc chủ nghĩa phát xít Đức,chủ nghĩa quân phiệt Nhật.Để nhanh chóng kết thúc chiến tranh,Liên Xô se tham gia chống Nhật ở Châu Á; -Thành lập tổ chức Liên hợp quốc nhằm duy trì hòa bình,an ninh thế giới; -Thỏa thuận việc đóng quân tại các nước nhằm giải giáp quân đội phát xít,phân chia phạm vi ảnh hưởng ở châu Âu,châu Á; +Châu Âu: +Châu Á: 3.Hệ quả: Những thỏa thuận quyết định trên đã trở thành khuân khổ của một trật tự thế giới mới mà thế giới gọi là trật tự hai cực Ianta do Liên Xô và Mĩ đứng đầu mỗi cực 4.Tác động của thỏa thuận Ianta: *Tác động tích cực: -Thúc đẩy cuộc chiến tranh thế giới thứ hai nhanh chóng đi đến kết thúc ở châu Âu,châu Á. -Các nước đồng minh thi hành những biện pháp dân chủ,xóa bỏ những chính sách kinh tế,chính trị,xã hội,tiêu diệt tận gốc chủ nghĩa phát xít. *Hạn chế: -Việc phân chia phạm vi ảnh hưởng của các cường quốc dẫn đến sự hình thành trật tự thế giới hai cực đối đầu,căng thẳng. -Duy trì nguyên trạng hệ thống thuộc địa của các nước đế quốc. Câu 4:Tổ chức Liên hợp quốc?Mối quan hệ giữa Việt Nam và Liên hợp quốc? HD: hs cần trình bày 1.Sự thành lập: 2.Mục đích, nguyên tắc hoạt động: 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan