Nhật Chiêu
TTÀÍI
HỌC
NHẬT
BẨN
TỪ KHỞI THỦY ĐẾN 1868
TT TT-TV * ĐHQGHN
895.6
NH-C
2010
02030
NHÀ XUẤT BẢN GIÁO DỤC VIỆT NAM
a
■
N h ạ t C h iê u
■
U N HỌC NHẬT BẲN
TỪ KHỞI THỦY ĐẾN 1868
( T á i bẩn lần th ứ năm )
NHÀ XUẤT BẢN GIAO D ư c VIÊT NAM
Công ty CP Dịch vụ xuất bản Giáo dục Gia Định - Nhà xuất bản Giáo dục
Việt Nam giữ quyền công bố tác phẩm.
19 - 2010/CXB/626 - 2244/GD
Mã số : 7X344mO - DAI
LỜI NÓI ĐRll
Văn h ọ c Nhật Bản, nhất là những tác phẩm c ổ điển vẫn còn khá xa
lạ với chúng ta nếu so sảnh với sự p h ổ biến của vàn học Trung Quốc và
văn học m ột s ố nước phương Tây ở Việt Nam
Những năm gần đây, m ố i quan tâm đối vôi vần học xứ Phù Tang càng
ngày càng tảng. Sách biên soạn về chuyên đề này ồ Việt Nam đang thiếu,
ngoại trừ sách dịch. Nhu cầu tìm hiểu tinh hoa của nền vãn học Nhật Bản
ớã phát sinh trong nhà trường và xả hội.
Đáp ứng phần nào nhu cầu đó, chủng tôi biên soạn cuốn sách này.
Đây là chuyên luân được đúc kết và phát triển từ những bài giảng về vàn
học Nhật Bản của chúng tôi ở Dại học Khoa học xã hội và Nhân vãn mà
dạng đầu tiên là một tập sách mỏng mang tên "Văn học Nhật Bản giản yếu
từ khỏi thủy đến 1868" ấn hành nảm 1994, lưu hành nội bộ như một giáo
trình đầu tiên về vần học Nhật Bản bằng tiếng Việt.
Cuốn sách này bao gồm hai phân :
PHẢN THỨ N H ẤT : gồm 4 nội dung bao quát quá trình hình thành
phát
và
triển của vãn học Nhật Bản từ khởi thủy đến 1868.
PHẢN THỬ H AI : trích tuyển một số tác phẩm kinh điển gồm các
thể
loại : thơ, tiểu thuyết, chiến kí, sân khấu và truyện ngắn.
Nếu ban thích đọc cuốn sách này như một bộ lịch s ù vànhọc c ổ điển
cùng được. Câu chuyện vân chương của chúng tôi đi theo diễn trình lịch sử
nhưng nó lưởt trên sân băng m ột cách nhẹ nhàng, tránh những dậm chân
quá lâu không cấn thiết và những điểm cổng kềnh sự kiện.
3
Hoặc /á, bạn có th ể đọc tác phẩm này như một hợp tuyển nhỏ những
chân dung trong thế giới vân chương Phù Tang : Hitomaro và Komachi,
Murasaki và Bashó, Zeami và Saikaku, Ikku và Akinari. Nhan sắc của hoa
đào, thế giới của niềm bi cảm, con đường sâu thẳm, bông hoa huyền diệu,
trào tiếu và ma ảo... là th ế giới vàn chương duy tình của Nhật, nơi cải đẹp
được thảnh hóa và niềm đau được thanh tẩy, nơi giấc mộng chính là cuộc
đời này.
Hơn mười thế k ỉ vản chương Nhật Bản được trình bày qua các thời đại,
qua các tác phẩm c ổ điển. Phần vản học hiện đại Nhật Bản sẽ được giới
thiệu trong m ột dịp khác.
*
*
Xin trân trọng cảm ơn Giáo sư
*
NGUYỄN TẤN ĐẮC
đã đọc và đóng góp
nhiều ý kiến quý báu đ ế cuốn sách được trọn vẹn hơn.
Chúng tôi xin chân thành cảm ơn
N H À X U Ấ T B Ả N G IÁ O D Ụ C
cho cuổn sách được ra đời.
TÁC GIẢ
4
đâ giúp
DÂN NHÂP
Buổi đầu, khi mới tiếp xúc với văn học N hật Bản, người ta
dễ có những ấn tượng sai lạc. Chẳng hạn, vào năm 1888, bộ Từ
đ iể n Bách K h o a của Chambers vẫn còn viết về nền văn học Viễn
Đồng ấy như th ế này : ‘"Vãn chương N hật Bản nghèo nàn và vô
vị khi so sánh với văn chương châu Âu. Thơ ca của nó chỉ là cách
xoay từ đảo ngừ... Văn chương ấy trà n đầy sự vô luân” .
Sự đánh giá ấy tấ t nhiên chẳng có một căn cứ xác đáng
nào mà chỉ chứng tỏ sự mờ mịt chung chung về văn học Nhật
thời đó.
Nhưng rồi hơn một thập kỉ sau, năm 1899, xuất hiện một
biên khảo giá trị về vãn học N hật bằng tiếng Anh. Đó là cuốn
Lịch sử văn học N hật Bản (A History of Japanese Literature) của
W.G. Aston. Nó góp phần đánh tan sự ngộ nhận về văn học xứ
Phù Tang mà ta đọc thấy qua cuốn từ điển của Chambers.
Đứng trước một nền văn hóa xa lạ, thay vì cố gắng tìm
hiểu và đồng cảm, người ta thường xem xét nó qua lăng kính
cố hữu của mình. Cả Hegel, một trí tuệ xuất chúng, cũng từng
vướng phải điều đó khi nhận xét về triết học Trung Quốc cổ
đại.
(1)
Trích d ần theo E.B.Ceadel trong cuốn Literatures o f the East, Grove, 1959,
trang 161.
5
Đôi với ông, Kinh Dịch và Khổng Tử đều chẳng có ý Iigliĩa
gì, chỉ là sản phẩm của “người Trung Quốc xiết bao hời hợt" ! (1).
Nhắc lại điều đó để thấy rằng nếu đọc văn chương một cách
vội vã, thiếu sự kiên trì tìm hiểu, thì không sao tránh được ngộ
nhận, n h ất là khi nó thuộc về một nền văn hóa, với chúng ta, tuy
gần mà xa như N hạt Bản.
Là một quần đâo ở xa lục địa, N hật có đủ khoảng cách dô
tránh xâm lăng nhưng cũng gần đủ đế tiêp nhận ảnh hưởng của
văn hóa đại lục.
. Cái th ế biệt lạp tốt dẹp ấy khiến cho dan tộc Nhật dễ dùng
tiếp nhận cái mới từ bên ngoài đến; nhưng do cách biệt mà họ
cũng thích gìn giữ nền xưa nếp cQ hơn ai hết. Chính “thái độ kép”
ấy đã tạo liên nền văn hóa độc đáo, gay nhiều sự ngạc nhiên, thán
phục; tạo nên các ấn tượng khác nhau về các “phép lạ” của 11Ó.
Theo Kazantzaki, văn hào Hi Lạp, thì “tâm hồn người Nhạt
chấp nhận tư tướng ngoại lai rấ t dễ dàng; I1 Ó chấp nhận một cách
không phái là I1 Ô lệ; nó lãnh hội tư tưởng, một khi tư tưưng đưực
lành hội, 11 Ó tháp nhập tư tưởng một cách gán bó vào toàn thế
truyền thông của I1Ó và tấ t cả lại trở nên đồng nhất” (2).
Một cái nhìn tổng quan về văn hóa Nliật cũng đủ cho chúng
ta nhận ra các yếu tô" đã cấu thành I1 Ó, các nguồn mạch của truyền
thông Phù Tang : Văn hóa bản địa, văn hóa Trung Quốc và vãn
hóa Ân Độ.
Cdc yếu tó* ấy không tồn tại rời rạc mà đưực kết hợp rất
thành công. Các tín ngưỡng dân gian, th ế giới quan Thần dạo,
nhân sinh quan vỏ Sĩ đạo, P hạt giáo đại thừa, tư tưởng Lão Trang,
(1)
Xem T ư tưởng văn hục T ru n g Quốc cổ xưa, Ỉ.S.Lisevich bàn dịcli cùa Trần ỉ)ì IIỈỈ
Sử, Trường Dại liọc Sư phạm TP.1ICM, 1994, trang 8 và 9.
(2)
6
Vườn dứ tảng, Kazantzaki, bán (lịch cùa Bửu Ý, An Tiêm, 19G7, trang 247
Khổng giáo, Thiền tông, nghệ thuật phương Đông, thơ văn Trung
Quốc... tấ t cả được thu nliập, dung hợp, chuyến hóa và hòa tan vào
tính cách N h ật Bản.
Văn hóa An Độ thiên về tư duy và thần bí. Văn hóa Trung
Quôc thiên về hành động và thực tiễn. Văn hóa Nhạt Bản thì
thiên về tình cảm và cái đẹp.
Chính vì vậy văn chương N hật không có kinh điển và sử thi
như Ấn Độ, không có Bách gia chư tử như Trung Quốc; đó là một
nền văn chương của tình cám và thiên nhiên.
Văn chương Nhạt, đó là “sự rung cảm, sự phập phồng nhịp
nhang theo vận tiết của vũ trụ. Chỉ vỏn vẹn có mấy chữ, một bài
thơ N hật muốn Iihắc ta nhớ lại nhịp rung của vQ trụ vô hình mà
chúng ta thường quên; thơ N hật muôn gợi cho tâm hồn nỗi niềm
tưởng nhớ một quê hương vô hình” (Osawa) (1).
Quê hương vô hình mà Osawa nhắc tới chẳng qua là một thiên
nhiên ở sau thiên nhiền, một thiên nhiên ở trong ta, ở trong trái
tim. Sự phập phồng của vũ trụ cũng là sự phập phồng của trái tim.
ở Nhật, nghệ sĩ và thi nhân biết cách dùng “cái vô hình” và
“chân không” (khoảng trông trên bức tranh, khoảng trông trong
ngôn từ) như một phương tiện diễn đạt đầy hiệu quả. Đó là một nghệ
thuật thấm nhuần tư tưởng Thiền tông : “trực chỉ nhân tâm”. Từ thơ
tanka, haiku đến văn phẩm của Kavvabata, ta đều nhận thấy “sự
rung cảm, sự phập phồng nhịp nhàng theo vận tiết của vũ trụ” ấy.
Đ Ặ C ĐIỂM VẢN HỌC
Đặc điểm đầu tiên của một nền văn học là đặc diểm về ngôn
ngữ.
(1)
ỉlua dạo, Osavva, bản (lịch cùa Ngô Tliàiỉh N hân và Nguyỗn Mồng Giao, nhà
xutìt bán văn ngh ệ T R IIC M , 1992. Lraug 84 vA 8G.
7
Cung như Việt Nam thời xưa, vì không có chữ viêt riêng,
người N hật phải mượn văn tự Trung Quốc. Nhưng tiếng N hật là
một ngôn ngữ liên âm, khác xa ngôn ngữ đơn ám của Trưng Quôc
và Việt Nam. Vì vậy, mượn chừ Hán mà ghi tiếng N hật thì thật
là phiền hà, rôi rắm.
Đến th ế kỉ thứ IX, người N hật mới thành công trong việc xây
dựng hệ thông văn tự phiên âm, gọi là kana, phan tích tiêng Nhật
thành 50 âm.
Tuy văn tự kana có thể phiên âm mọi từ ngữ trong tiêng Nhật
nhưng không bao giờ người N h ật từ bỏ hẳn chừ viết tượng hình
của Trung Quôc. Văn tự N hạt k ết hợp ca hai hệ thông chừ viết là
chữ Hán và chữ kana(1).
Việc sáng tác thơ văn ở Nhật, ngay từ khởi nguyên, không
bao giờ là dặc quyền của một giai cấp, thành phần xã hội hay của
riêng giới tính nào. TrêII văn đàn Nhạt, tính chất dan chú là điều
h ết sức tự nhiên. Vì vạy, trong các bộ “ngự tuyến” văn chương
(sách soạn theo lệnh Thiên hoàng : Chokusen-shu = sắc soạn tạp)
có m ặt mọi tầng lớp xã hội và tấ t nhiên, cả nam lẫn nữ.
Người ta thường cho rằng thiên tài sáng tạo của N hật thường
tự giới hạn trong những công trình bé nhỏ, tiêm tế. Xét về văn
học, điều đó không giải thích được vì sao vào đầu tliê kỉ XI, bộ
trường thiên tiểu thuyết Genjỉ monogatari lại có th ể ra đời. Bước
vào th ế giới văn chương Phù Tang, người ta có thể bắt gặp những
(1)
Tiếiig N h ậ t có ba loại chừ viết truyền thống, dó là Kanji (cliữ Hán), ỉlirugana
vù Kalakaria. Ngoài ra, Rotiuụi (c*l»ữ La tin h ) crtng dược (lùng, chù yêu dành clio
người nước ngoài vì dề (lục. llíìu hết. (lanh từ, Lính t.ừ và cân của (lộng Lừ dược viẽt
bằng chừ Hán. Các th àn h pliần khác đưực ghi bằng Hirâgana. Riêng chữ KaUkana
thường dùng ghi các từ ngoại lai.
Hầu h ế t các chừ Kanji c*ó th ể (lục theo hai cách. Dọc tlieo T ru ng văn là cách
dọc “O n” và dọc theo cáclì (lục NliẠt. 1A cách dọc “Kim". Người N h á t cũng sáng chê
ra một sô* chữ Kanịi dặc biệt cho mình.
8
bộ tiểu thuyết trường thiên dài bạc nhất, những bài
bạc nhất, những thể loại sản khấu độc đáo, những
và tùy bút của phụ nữ... Nói tóm lại là người Nhạt
thể loại văn học từ xưa và dài hay ngắn đôi với họ
vấn dề.
thơ ngắn gọn
cuốn nhật kí
quen với mọi
không thành
Thơ văn Nhật thế hiện ở mức độ cao nhất cái “tín ngưỡng”
đáng yêu này : tôn thờ Cái Đẹp. Cái đẹp là tiêu thức, là chuẩn tắc
trong cuộc sông của người N h ạt từ bao dời. Từ chữ viết, áo quần
đến ăn uống đều phai đẹp. Cho đến tự sđt cũng thế. Trà đạo, cắm
hoa, đốt hương... là các loại nghi thức của tín ngưỡng Cái Đẹp ấy.
Tín ngưỡng ấy tuy không có tên gọi chính thức nhưng lại thấm
sâu vào tâm tưởng, dòng máu của người Nhật hơn bất kì tôn giáo
nào khác.
Lòng sùng tín cái đẹp ây nhiều khi di ngược lại những điều
câm kị của tôn giáo và luân lí. Điều đó đã từng gây ngộ nhận là
“van chương ấy tràn đầy sự vô luân” mà ta đã nhắc tới từ lúc đầu.
Hơn ngàn năm văn học N hật Bản, nếu được tìm hiếu thấu
đáo, chắc chắn sẽ gây một ân tượng khác hẳn. Sự phong phú và
đa dạng của nó sẽ không tràn đầy sự vô luân ây, cũng không phải
là những điều kì quđi, mà là cái đẹp, một cái đẹp hòa hợp của
thiên nhiên và tam hồn.
Cái bí ẩn của sự hòa hợp ây là điều kì diệu nhất mà thiên
tài N hật Bản đã vươn tới.
9
PHẨN MỘT
THỜ! NARA
( T H Ế K Ỉ T H Ứ V III)
R
Ì iV
H
>
l l \ l l
V Ă \ HỌC PH Ủ TAStG
CHƯƠNG M Ô T
KHÁI QUÁT
K IN H Đ Ồ N A R A
Khi kinh đô Nara còn gọi là Heijokyo, được khởi công xây
dựng vào năm 710, người N hật đã tiến được những bước dài trong
cuộc kiến tạo văn minh trên xứ sở của mình. Chấm dứt thời kì “di
đô" nay đây mai đó của hoàng gia làm cho nhân dân không an cư
lạc nghiệp. Trước thời Nara, do chế độ di đô ấy, tính ra đã có hơn
60 “kinh đô” trên đất nước !
Khoảng đầu Công nguyên, N hật Bản bao gồm nhiều xứ nhỏ.
Theo sử liệu Trung Quốc Hậu Hán thư thì có trên 100 xứ. Thật
ra, đó chỉ là những bộ tộc tranh giành quyền lực với nhau. Trong
sô" đó, Yamato (Đại Hòa) trở thành xứ hùng mạnh nhất và là nơi
khởi nghiệp của các Thiên hoàng. Cho nên, Yamato cũng là danh
từ để chỉ nước N hật xưa.
Quyền lực mà Yamato dạt được cũng là nhờ liên kết vđi một
số thị tộc (Uji) khác như Otomo, Mononobe, Nakatomỉ, Imibe...
Sau này, các th ị tộc quyền th ế dần dần lấn lướt triều đình.
S ự T R U Y Ề N B Á P H Ậ T G IÁO
Vào giữa th ế kỉ VI, khi Phật giáo theo người Triều Tiên du
nhập N hật Bản tlù gặp sự chông dối mạnh mẽ của các thị tộc
Nakatomi và Mononobe. Nhưng thị tộc Soga lại quyết tâm đón nhận
tín ngưỡng mới. Dù vậy, phải đến năm 587, Soga mới toàn thắng.
Biến cô" quan trọng trong lịch sử cổ đại N hật Bản là năm 593,
th á i tử Shotoku trở thành nhiếp chính. Nhân vật lỗi lạc này làm
cho đất nước tiến bước về nhiều phương diện, ô n g đă soạn thảo
13
và ban hành bộ luật thành văn đầu tiên gọi là Hiến Pháp Thập
Thất Điêu, trong đó thề hiện lòng tín mộ đỏi với P hật giáo, nhân
sinh quan Khổng giáo vả tạp tục dân tộc.
Từ năm 607, thái tử Shotoku đã thiết lập bang giao binh đẳng
với Trung Quôc nhằm mục đích vận dụng văn hóa đại lục vào việc
“duy tá n ” xứ sở của mình. Nhiều phái đoàn được cử sang Trung
Quốc du học và sau này, một sô' người trở thành các quân sư cho
công cuộc Đại Hóa Cái Tân (Taika no kaishin).
Hình 1 - T hai tứ Shotoku (5 74-622),
nguôi
14
đá
gầy dụng Phật giảo tại N hật Ban.
Không chỉ đem lại làn gió mới về chính trị, thái tử Shotoku
còn là người nhiệt tâm vô song về việc truyền bá Phạt giáo. Là
người uyên bđc, đích thân thái tử giảng kinh, nhất là kinh Pháp
Hoa và Duy Ma. Tác phẩm Scuikyo Gisho (Tam kinh nghĩa sớ)
của ông là cuôn sách đầu tiên do một người N hật biên soạn.
Nhờ vào nỗ lực của thái tử mà khu vực Asuka trở thành
trung tâm văn hóa, nơi phát triển rực rỡ của tư tưởng và nghệ
thuật P hật giáo đầu thê kỉ VII.
Thái tử Shotoku xứng đdng dược gọi là người sáng lập Phật
giáo ở N hật Bản.
Văn hóa P h ật giáo từ đấy cắm sâu cội rễ vào đất Nhật. Thời
Nara, P h ật gido đã là quốc giđo. Khắp 60 xứ ở Nhật đều xây
chùa, đắp tượng Phạt, Ngôi Todaiji (Đông Đại tự) ở Nara và tượng
Daibutsu (Đại Phật) h ế t sức nổi tiếng. Horyoji (Pháp Long tự) là
kiệt tác kiến trúc thời Nara. Pho tượng Đại P hật Rushana (Lư
Xá Na) là biểu tượng cho một tôn giáo đã thấm nhuần toàn thể
xứ sở.
Đến C U Ố I thời Nara, P hật giđo ở Nhạt đã phát triển thành
sáu tông phái, theo trình tự là Tam Luận tông, Thành Thực
tông, Phđp Tướng tông, Câu Xá tông, Luật tông và Hoa Nghiêm
tông. Có thể thấy P h ật giáo chiếm dịa vị độc tôn dù rằng các
tín ngưỡng dân gian, như Thần đạo, không hề bị xóa bỏ. Tín
ngưỡng dân gian có khi được kết hợp với Phật giáo một cách tự
nhiên và kì lạ. Chẳng hạn, vị thần chiến tranh của Thần đạo,
trở thành Bồ T át : Hachỉman Bosatsu. Khi đền thờ của vị thần
này được dời từ Kyushu về Nara, có dến 5000 nhà sư dự lễ. Và
thần còn đươc triều dinh sắc phong tưđc vị cao nhất. Ví du nhỏ
này có ý nghĩa vì nó cho thấy các yếu tó văn hóa của bản địa
và ngoại lai đã hòa nhập : Thần dạo, P hật giáo và thiết chế
Trung Quốc.
15
T IẾ P T H U V Ă N H Ó A
Công cuộc tiếp thu vàn hóa nước ngoài ngay từ thời N ara là
một hiện tượng đáng chú ý nh ất vì những chuyển biến nhanh
chóng và tốt đẹp mà nó dã tạo ra.
Việc tiếp nhận ảnh hưởng văn hóa diễn ra khắp nơi trên
th ế giới nhưng khi so sánh với Nhật Bản, ta thấy có khác, ơ
Bắc Ảu, sự tiếp thu các yếu tố văn hóa Hi-La diễn ra vô cùng
chậm chạp(1).
ơ một sô nước Viễn Đông, sự tiếp thu các yếu tô văn hóa
Trung Quốc, như Triều Tiên đã làm, thì lại quá lệ thuộc hình
thức, từng đưa đến “một chứng bệnh Khổng giáo”, “những nguy
cơ chết người của Khổng giáo” như nhận định của G.B.Sansom(2).
Tuy nhờ vào Triều Tiên mà ban đầu người N hật mới biết đến
chữ Hán và P hật giáo nhưng không có ảnh hưởng đáng kê của
văn học Triều Tiên đối với N hật Bản. Thơ văn Triều Tiên trước
đây dù sao cũng khá xa lạ dôi với người Nhật.
Ngay cả vàn chương Trung Quốc, dù rấ t phổ biến ở Nhật
cùng không bao giờ lấn á t ’nền vàn chương của dân tộc. Dù lúc
đầu, mượn âm chừ Hán dể ghi chép thơ ca của mình, thơ ca
N hật vẫn phát triển độc lập. Điều đó một phần do ngôn ngừ hai
xứ rất khác biệt.
Nói thế, không có nghĩa là thơ ca N hật không sử dụng một
số hình tượng hay motip của thơ ca Trung Quốc, về điểm này,
nhà nghiên cứu người Nga Conrad có ý kiến dứt khoát : “Nhưng
ngay cả khi chấp nhận t ấ t cả các hiện tượng đó, tính độc lập
(1)
Theo n h ận định cùa các tác giả cuốn East A sia The Great Tradition, tập I,
N h ật Bản. 1964, tra n g 488.
(2)
Lược sử văn hóa N h ậ t B ả n , tập I, bản dịch của N hà xuất bán Khoa học xả hội,
1990, trang 129.
16
hoàn t.oàn của thơ ca N hạt Bản cùng là điều rõ ràng, không phải
bàn cãi” (1).
Không chỉ riêng thơ mà văn xuôi N hạt cùng thế. Các loại
tiếu thuyết, tùy bút, n h ật kí... nở rộ sau thời Nara, đi trước cả
Trung Quốc và th ế giói. Sán khấu Nhạt Bản sau này cũng là sản
phẩm độc đáo của thiên tài N hật Bản.
Sự tiêp thu văn hóa nước ngoài của N hật Ban, tóm lại là
một cảm hứng tuyệt diệu. Không bị cưỡng bách, xâm lược, nó
đem từ đại lục trở về quần đảo biết bao là hoa trái...
Những văn bản đầu tiên được tìm thấy ở Nhật Bản hẳn
nhiên được viết bằng chữ Hán khi mà người N hật chưa nghĩ ra
được hệ thông văn tự phiên âm.
Trên một thanh gươm cổ, xuất hiện vào khoảng năm 440,
người ta thây chữ Hán đã được dùng để ghi lại các tên riêng và
vài cách nòi đặc biệt trong tiếng Nhạt.
Sau khi chừ Hán đã thông dụng, triều đinh ra lệnh tập hợp
các truyền thuyết dân gian, biên soạn thành sách. Công việc ấy
đưưc khởi sự vào đầu th ế kỉ thứ VII, nhưng những văn bản đầu
tiên ấy đà bị m ất mát. Đến thời Thiên hoàng Tenmu (672-686),
dựa vào những gì còn sót lại, một công trình sưu tạp mới lại tiếp
tục thực hiện. Tuy nhiên, mãi đến năm 712, công việc mới hoàn
thành và tác phẩm được gọi là Kojiki.
Đó cũng là năm, có thể nói, văn học Nhật ra đời.
(1)
Văn học N h ậ t Bản, Oonrađ, Iihà xuất bàn Klioa học Malxcơva 1974 - trích
theo bản dịch tiếng Viột, lưu hàn h nội bộ, không rõ người (lịch. Xin dôi chiếu với
bản dịcli của T rịn h Bá Đĩnh {Văn học N hật Bản từ c ổ d ế n cận dụi, NXB. Dà Nẵng,
1999), tra n g 3G.
17
K C U ỈK I (C Ổ S ự Kí)
Kojiki có nghĩa là “ghi chép chuyện xưa”. Đây là một cô gắng
biên soạn lại các huyền thoại và truyện kế truyền miệng dân gian.
Viết bằng tiếng Nliạt, Kojiki khi thì dùng chừ Hán thuần túy, khi
thì mượn chừ Hán như ngữ âm, khi thì mượn chừ Hán như ngữ
nghĩa. Điều đổ tạo thành một vãn bán khó đọc đồi với ca người
Nhật.
Tđc pliẩni trộn lẫn những huyền thoại về việc sáng tạo đất
Iiước và nguồn góc của dan tộc vói những biêu cô lịch sử và khó
mà pliân biệt sự th ật với tưởng tượng. Nhưng chính vì th ế mà
Kojiki là tác phẩm vãn chương, là một kho tàng của huyền thoại,
truyện kế và thơ ca trong buổi đầu dựng nước. Đây lò tác phẩm
mở đầu cho vãn xuôi Nliạt Bán. Nội dung phong phủ, da dạng và
giá trị văn chương của 11 Ó xứng đáng cho ta tìm hiểu kĩ lưỡng hơn.
N IH O N G Ỉ ( N H Ậ T B Ả N KỈ)
Tám năm sau, một bộ sách mới có nội dung tương tự Kojiki
cung được hoàn thành, tức là vào năm 720 và mang tềII là N ikon
shoki (Nhạt Ban thư kỉ), CÒI1 được gọi vắn tắ t hơn là Nihongi
(Nhật Ban kỉ). Nihongỉ dài gấp đôi Kojiki.
Khác với tác phẩm đi trước mình, Nihongi được vièt bằng
Hán ngữ.
Huyền thoại và truyền thuyết không chỉ có m ặt trong Kojiki
và Nihoỉigi n.ià còn có thề tìm thây trong nhiều bộ sách khác nhau
của th ế kỉ thứ VIII vù thứ IX.
F U D O K l (P H O N G T H Ổ K Í)
Sau khi tác phả 111 Kojiki hoàn tliànli dược một năm, triều đình
lại hạ chiếu cho bay đạo gồm 60 xứ trên toàn quốc phái tường trình
về địa thế, lễ nghi, phong tục, truyền thuyết... của địa phương nành
để tạp hợp thành bộ Fudoki (Phong thổ kí) của N hạt Ban.
18
Không rõ điều đó có thực hiện đầy đủ không vi hiện nay chỉ
còn giữ được năm văn bản của năm xứ mà thôi. Và trong đó, chỉ
có bản của xứ Izumo, năm 733, là còn lại nguyên vẹn.
Fudoki là loại sách địa phương chí. Cđc truyền thuyết dân
gian trong đó thường gắn bò với các địa danh và được kế lại một
cách giản dị, ít “chỉnh lí” hơn cdc bộ sử đưực biên soạn ơ triều
đình. Như nhiều thư tịch ldidc thời Nara, Fudoki được viết phần
lớn bằng Hán ngừ.
K O G O S H U i (C Ổ N G Ữ T H Ậ P DI)
Cũng hướng về huyền sử, thần thoại, một bộ sách ra đời muộn
màng hơn, vào năm 807, là Kogoshui (Cổ ngữ thập di). Tác phẩm
do Hironari biên soạn với ý muôn phục hồi uy thê về thần quyền
cho gia tộc mình, một giồng họ cổ nhất nắm giữ việc tê' tự trong
Thần đạo.
Nguyên Hironari là người thuộc thị tộc Iinibe từ xưa đã đảm
nhận việc gìn giừ những truyền thông thần quyền. Sau cuộc Đại
Hóa Cái Tân vào giữa thê kỉ VII, do ưu thê chính trị thị tộc
Nakatonii cũng chiếm được ưu th ế về thần quyền. Việc tế tự ngày
xưa rấ t quan trọng, được xem là một đại sự quốc gia, và đến lúc
này thị tộc Iniibe bị đáy xuông hàng thứ yêu.
Trong tình hình đó, các thần thoại nghiêng về truyền thông
gia tộc cổ xưa của Hironari bị bỏ rơi, không đưực đưa vào hai bộ
Kojiki và Nihoìigi. Bởi lẽ các tác giả của chúng, Yasuniaro và
Toneri, đều giừ địa vị cao trong triều dìnli, chí biên soạn những
gì phù hợp với quyền lợi lịch sử của họ.
Do vạy, đại diện cho giòng họ Iniibe, Hironari muốn “bổ sung
cho những điều đã nói về thời cổ”, mới dặt tên cho công trình sưu
tập huyền thoại của nùnh là Cổ ngữ thập di.
Như thế, sự tranh chấp của các thị tộc ở N hật Bản không chỉ
diễn ra ở chiến trường, trong tín ngưởng mà cả trong văn học.
19
- Xem thêm -