Vận dụng phương pháp Bàn tay nặn bột vào dạy học bài “Từ thông. Cảm ứng điện từ”- Vật lí 11 Cơ bản
MỤC LỤC
TIÊU ĐỀ
Trang
2
3
3
1
2
3
Lời giới thiệu
Tên sáng kiến
Tác giả sáng kiến
4
Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến
3
5
6
Lĩnh vực áp dụng sáng kiến lần đầu
Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu
3
3
7
Mô tả bản chất của sáng kiến
3
7.1
Nội dung sáng kiến
3
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ PHƯƠNG PHÁP BÀN TAY NẶN
BỘT
4
1.Khái niệm phương pháp bàn tay nặn bột
4
2. Cơ sở khoa học của phương pháp BTNB
4
3. Các nguyên tắc cơ bản của phương pháp BTNB
7
4. Tiến trình dạy học theo phương pháp BTNB
8
5. Những vấn đề cần quan tâm khi vận dụng PP Bàn tay nặn bột vào thực
tiễn
10
6. Tầm quan trọng của dạy học theo phương pháp Bàn tay nặn bột
7. Sự khác biệt giữa dạy học theo quan niệm truyền thống và dạy học theo
PP BTNB
CHƯƠNG 2: SOẠN THẢO TIẾN TRÌNH DẠY HỌC THEO
PHƯƠNG PHÁP BÀN TAY NẶN BỘT BÀI “TỪ THÔNG. CẢM ỨNG
ĐIỆN TỪ” – VẬT LÝ 11 CƠ BẢN Ở TRƯỜNG THPT
1. Mục tiêu dạy học của bài “Từ thông. Cảm ứng điện từ” – Vật lý 11 Cơ
bản
2 Cấu trúc nội dung của bài “Từ thông. Cảm ứng điện từ” – Vật lý 11 Cơ
bản
3. Thực trạng dạy học bài: “Từ thông. Cảm ứng điện từ” - Vật lý 11 ở
trường THPT
4. Đề xuất biện pháp góp phần khắc phục khó khăn trên
5. Soạn thảo tiến trình dạy học theo Bàn tay nặn bột bài “Từ thông. Cảm
ứng điện từ”
CHƯƠNG 3: THỰC NGHIỆM
7.2 Khả năng áp dụng sáng kiến
8
Những thông tin cần thiết để bảo mật
9
Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến
10 Đánh giá lợi ích thu được sau khi áp dụng sáng kiến
11 Danh sách cá nhân đã tham gia áp dụng sáng kiến
TÀI LIỆU THAM KHẢO
0
12
13
15
15
16
16
18
18
26
30
30
30
31
32
34
Vận dụng phương pháp Bàn tay nặn bột vào dạy học bài “Từ thông. Cảm ứng điện từ”- Vật lí 11 Cơ bản
MỤC LỤC HÌNH
Tên hình
Trang
Hình 2. Sơ đồ cấu trúc nội dung bài “Từ thông. Cảm ứng điện từ”
16
Hình 3.1.Bộ dụng cụ thí nghiệm chuẩn bị day học theo Bàn tay nặn bột bài
“Từ thông. Cảm ứng điện từ”
Hình 3.2.Hoạt động khởi động của tiết học dạy theo Bàn tay nặn bột
24
Hình 3.3.Học sinh đang tiến hành thí nghiệm nam châm dịch chuyển bài
“Từ thông. Cảm ứng điện từ”
Hình 3.4. Học sinh đang tiến hành thí nghiệm khung dây biến dạng bài “Từ
thông. Cảm ứng điện từ”
Hình 3.5. Học sinh đang lắp ráp mô hình máy phát điện - ứng dụng bài “Từ
thông. Cảm ứng điện từ”
Hình 3.6. Học sinh đang chi chép kết quả thí nghiệm bài “Từ thông. Cảm
ứng điện từ”
26
DANH MỤC VIẾT TẮT
GV
HS
GD
THPT
PPDH
BTNB
SGK
PP
Giáo viên
Học sinh
Giáo dục
Trung học phổ thông
Phương pháp dạy học
Bàn tay nặn bột
Sách giáo khoa
Phương pháp
BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN
1. LỜI GIỚI THIỆU
1
27
27
27
28
Vận dụng phương pháp Bàn tay nặn bột vào dạy học bài “Từ thông. Cảm ứng điện từ”- Vật lí 11 Cơ bản
Đổi mới phương pháp dạy học là một trong những vấn đề trung tâm của nền giáo
dục thế giới trong nhiều năm gần đây và cũng là một trong những chủ trương quan
trọng về giáo dục của Đảng và Nhà nước ta. Luật giáo dục điều 24.2 đã ghi: “Phương
pháp dạy học phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của
học sinh; Phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; Bồi dưỡng phương pháp
tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; Tác động đến tình cảm,
đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”.
Khác các bộ môn khác, Vật lí là bộ môn khoa học thực nghiệm. Gắn liền với đời
sống của con người. Mục đích của việc Dạy – Học Vật lí không chỉ dừng lại ở việc
truyền thụ cho học sinh những kiến thức, kỹ năng Vật lí mà loài người đã tích lũy
được, mà còn đặc biệt quan tâm đến việc bồi dưỡng cho học sinh năng lực suy nghĩ
độc lập, không dập khuôn, năng lực sáng tạo, năng lực hành động thực tiễn để tạo ra
những kiến thức mới, phương pháp mới, những năng lực giải quyết vấn đề mới nhạy
bén, hiệu quả, thiết thực và phù hợp với thực tế.
Muốn đạt được mục đích này trong dạy học Vật lí thì việc dạy học vật lí phải
được tiến hành thông qua các hoạt động của học sinh. Muốn đổi mới cách học thì phải
đổi mới cách dạy, đổi mới cách dạy chính là đổi mới phương pháp. Thế nhưng việc
dạy học vật lí ở trường phổ thông hiện nay có một thực trạng là học sinh chủ yếu học lí
thuyết và vận dụng lí thuyết để giải bài tập mà ít có cơ hội tham gia tích cực vào các
hoạt động hình thành kiến thức như: hoạt động nhóm, hoạt động chế tạo, tiến hành thí
nghiệm hoặc các mô hình ứng dụng thực tế. Để cải thiện thực trạng này và đáp ứng
yêu cầu của xã hội thì chúng ta cần phải áp dụng những phương pháp dạy học tích cực
như phương pháp dạy học theo trạm, phương pháp dạy học giải quyết vấn đề, ... và đặc
biệt là phương pháp bàn tay bặn bột, một phương pháp dạy học đang rất phát triển
trên thế giới và được áp dụng nhiều tại Việt Nam trong một vài năm gần đây. Phương
pháp Bàn tay nặn bột là một phương pháp dạy học tích cực dựa trên thí nghiệm tìm tòi
- nghiên cứu, áp dụng cho việc giảng dạy các môn khoa học tự nhiên.
Mọi người hay nghĩ rằng PP BTNB chỉ áp dụng và phù hợp với cấp tiểu học.
Nhưng trong thực tế, trong quá trình giảng dạy tôi nhận thấy có thể áp dụng PP BTNB
cho một số bài thuộc chương trình Vật lí THPT, đem lại hiệu quả cao trong quá trình
giảng dạy và học tập, nổi bật lên cả là bài: “Từ thông. Cảm ứng điện từ”.
2. TÊN SÁNG KIẾN
2
Vận dụng phương pháp Bàn tay nặn bột vào dạy học bài “Từ thông. Cảm ứng điện từ”- Vật lí 11 Cơ bản
Vận dụng phương pháp Bàn tay nặn bột vào dạy học bài “Từ thông. Cảm ứng điện
từ” Vật lí 11 cơ bản
3. TÁC GIẢ SÁNG KIẾN.
- Họ và tên: Nguyễn Thị Thanh Hải.
- Địa chỉ tác giả sáng kiến: Trường THPT Tam Đảo – Vĩnh phúc.
- Số điện thoại: 0979142198
E_mail:
[email protected]
4. CHỦ ĐẦU TƯ TẠO RA SÁNG KIẾN.
Nguyễn Thị Thanh Hải – Trường THPT Tam Đảo – Vĩnh phúc.
5. LĨNH VỰC ÁP DỤNG SÁNG KIẾN.
- Vật lý cơ bản lớp 11, phương pháp dạy học bàn tay nặn bột
- Hoạt động dạy và học bài “ Từ thông. Cảm ứng điện từ”
6. NGÀY SÁNG KIẾN ĐƯỢC ÁP DỤNG LẦN ĐẦU
Trong giảng dạy chính khóa: tháng 2/2019 lớp 11A1 trường THPT Tam Đảo
7. MÔ TẢ BẢN CHẤT CỦA SÁNG KIẾN.
7.1 NỘI DUNG SÁNG KIẾN
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ PHƯƠNG PHÁP BÀN TAY NẶN BỘT
1. Khái niệm phương pháp bàn tay nặn bột
3
Vận dụng phương pháp Bàn tay nặn bột vào dạy học bài “Từ thông. Cảm ứng điện từ”- Vật lí 11 Cơ bản
Phương pháp dạy học "Bàn tay nặn bột" (BTNB), tiếng Pháp là La main à la pâte viết tắt là LAMAP; tiếng Anh là Hands-on, là phương pháp dạy học khoa học dựa trên cơ
sở của sự tìm tòi - nghiên cứu, áp dụng cho việc dạy học các môn khoa học tự nhiên.
Phương pháp này được khởi xướng bởi Giáo sư Georges Charpak (Giải Nobel Vật lí năm
1992). Theo phương pháp BTNB, dưới sự giúp đỡ của GV, chính HS tìm ra câu trả lời
cho các vấn đề được đặt ra trong cuộc sống thông qua tiến hành thí nghiệm, quan sát,
nghiên cứu tài liệu hay điều tra để từ đó hình thành kiến thức cho mình.
Phương pháp BTNB là một phương pháp dạy học tích cực dựa trên thí nghiệm
tìm tòi- nghiên cứu, áp dụng cho việc giảng dạy các môn khoa học tự nhiên.
BTNB chú trọng đến việc hình thành kiến thức cho học sinh bằng các thí
nghiệm tìm tòi nghiên cứu để chính các em tìm ra câu trả lời cho các vấn đề được đặt
ra trong cuộc sống thông qua tiến hành thí nghiệm, quan sát, nghiên cứu tài liệu hay
điều tra...
Cũng như các phương pháp dạy học tích cực khác, BTNB luôn coi học sinh là
trung tâm của quá trình nhận thức, chính các em là người tìm ra câu trả lời và lĩnh hội
kiến thức dưới sự giúp đỡ của giáo viên.
Mục tiêu của phương pháp BTNB là tạo nên tính tò mò, ham muốn khám phá
và say mê khoa học của HS. Ngoài việc chú trọng đến kiến thức khoa học, phương
pháp BTNB còn chú ý nhiều đến việc rèn luyện kĩ năng diễn đạt thông qua ngôn ngữ
nói và viết cho HS.
2. Cơ sở khoa học của phương pháp BTNB
2.1. Dạy học khoa học dựa trên tìm tòi - nghiên cứu
Dạy học khoa học dựa trên tìm tòi nghiên cứu là một phương pháp dạy và học
khoa học xuất phát từ sự hiểu biết về cách thức học tập của HS, bản chất của nghiên
cứu khoa học và sự xác định các kiến thức khoa học cũng như kĩ năng mà HS cần nắm
vững. Phương pháp dạy học này cũng dựa trên sự tin tưởng rằng điều quan trọng là
phải đảm bảo rằng HS thực sự hiểu những gì được học mà không phải đơn giản chỉ là
học để nhắc lại nội dung kiến thức và thông tin thu được. Không phải là một quá trình
học tập hời hợt với động cơ học tập dựa trên sự hài lòng từ việc khen thưởng, dạy học
khoa học dựa trên tìm tòi nghiên cứu đi sâu với động cơ học tập được xuất phát từ sự
hài lòng của HS khi đã học và hiểu được một điều gì đó. Dạy học khoa học dựa trên
4
Vận dụng phương pháp Bàn tay nặn bột vào dạy học bài “Từ thông. Cảm ứng điện từ”- Vật lí 11 Cơ bản
tìm tòi nghiên cứu không quan tâm đến lượng thông tin được ghi nhớ trong một thời
gian ngắn mà ngược lại là những ý tưởng hay khái niệm dẫn đến sự hiểu biết ngày
càng sâu hơn cùng với sự trưởng thành của HS.
2.1.1. Bản chất của nghiên cứu khoa học trong phương pháp BTNB
Tiến trình tìm tòi nghiên cứu khoa học trong phương pháp BTNB là một vấn đề
cốt lõi, quan trọng. Tiến trình tìm tòi nghiên cứu của học sinh không phải là một
đường thẳng đơn giản mà là một quá trình phức tạp. Học sinh tiếp cận vấn đề đặt ra
qua tình huống (câu hỏi lớn của bài học); nêu các giả thuyết, các nhận định ban đầu
của mình, đề xuất và tiến hành các thí nghiệm nghiên cứu; đối chiếu các nhận định
(giả thuyết đặt ra ban đầu); đối chiếu cách làm thí nghiệm và kết quả với các nhóm
khác; nếu không phù hợp học sinh phải quay lại điểm xuất phát, tiến hành lại các thí
nghiệm như đề xuất của các nhóm khác để kiểm chứng; rút ra kết luận và giải thích
cho vấn đề đặt ra ban đầu. Trong quá trình này, học sinh luôn luôn phải động não, trao
đổi với các học sinh khác trong nhóm, trong lớp, hoạt động tích cực để tìm ra kiến
thức.
2.1.2. Lựa chọn kiến thức khoa học trong phương pháp BTNB
Việc xác định kiến thức khoa học phù hợp với HS theo độ tuổi là một vấn đề
quan trọng đối với GV. GV phải tự đặt ra các câu hỏi như: Có cần thiết giới thiệu kiến
thức này không? Cần thiết giới thiệu kiến thức này vào thời điểm nào? Cần yêu cầu
HS hiểu kiến thức này ở mức độ nào? GV có thể tìm câu hỏi này thông qua việc
nghiên cứu chương trình, sách giáo khoa và tài liệu hỗ trợ GV (sách GV, sách tham
khảo, hướng dẫn thực hiện chương trình) để xác định rõ hàm lượng kiến thức tương
đối với trình độ cũng như độ tuổi của HS và điều kiện địa phương.
2.1.3. Cách thức học tập của HS
Phương pháp BTNB dựa trên thực nghiệm và nghiên cứu cho phép GV hiểu rõ
hơn cách thức mà HS tiếp thu các kiến thức khoa học. Phương pháp BTNB cho thấy
cách thức học tập của HS là tò mò tự nhiên, giúp các em có thể tiếp cận thế giới xung
quanh mình qua việc tham gia các hoạt động nghiên cứu. Các hoạt động nghiên cứu
cũng gợi ý cho HS tìm kiếm để rút ra các kiến thức cho riêng mình, qua sự tương tác
với các HS khác cùng lớp để tìm phương án giải thích các hiện tượng. Các suy nghĩ
5
Vận dụng phương pháp Bàn tay nặn bột vào dạy học bài “Từ thông. Cảm ứng điện từ”- Vật lí 11 Cơ bản
ban đầu của HS rất nhạy cảm ngây thơ, có tính lôgic theo cách suy nghĩ của HS, tuy
nhiên thường không chính xác về mặt khoa học.
2.1.4. Quan niệm ban đầu của HS
Quan niệm ban đầu là những biểu tượng ban đầu, ý kiến ban đầu của học sinh
về sự vật, hiện tượng trước khi được tìm hiểu về bản chất sự vật, hiện tượng. Đây là
những quan niệm được hình thành trong vốn sống của học sinh, là các ý tưởng giải
thích sự vật, hiện tượng theo suy nghĩ của học sinh, còn gọi là các "khái niệm ngây
thơ". Biểu tượng ban đầu không phải là kiến thức cũ, đã được học mà là quan niệm của
học sinh về sự vật, hiện tượng mới (kiến thức mới) trước khi học kiến thức đó.
Tạo cơ hội cho học sinh bộc lộ quan niệm ban đầu là một đặc trưng quan trọng
của phương pháp dạy học BTNB. Biểu tượng ban đầu của học sinh là rất đa dạng và
phong phú. Biểu tượng ban đầu là một chướng ngại trong quá trình nhận thức của học
sinh. Chướng ngại chỉ bị phá bỏ khi học sinh tự mình làm thí nghiệm, tự rút ra kết
luận, đối chiếu với quan niệm ban đầu để tự đánh giá quan niệm của mình đúng hay
sai.
2.2. Những nguyên tắc cơ bản của dạy học dựa trên cơ sở tìm tòi - nghiên cứu
Dạy học theo phương pháp BTNB hoàn toàn khác nhau giữa các lớp khác
nhau phụ thuộc vào trình độ của học sinh. Giảng dạy theo phương pháp BTNB bắt
buộc giáo viên phải năng động, không theo một khuôn mẫu nhất định (một giáo án
nhất định). Giáo viên được quyền biên soạn tiến trình giảng dạy của mình phù hợp với
từng đối tượng học sinh, từng lớp học. Tuy vậy, để giảng dạy theo phương pháp
BTNB cũng cần phải đảm bảo các nguyên tắc cơ bản sau:
- HS cần phải hiểu rõ câu hỏi đặt ra hay vấn đề trọng tâm của bài học. Để đạt
được yêu cầu này, bắt buộc học sinh phải tham gia vào bước hình thành các câu hỏi.
- Tự làm thí nghiệm là cốt lõi của việc tiếp thu kiến thức khoa học
- Tìm tòi nghiên cứu khoa học đòi hỏi học sinh nhiều kĩ năng. Một trong các kĩ
năng cơ bản đó là thực hiện một quan sát có chủ đích.
-. Học khoa học không chỉ là hành động với các đồ vật, dụng cụ thí nghiệm mà
học sinh còn cần phải biết lập luận, trao đổi; biết viết cho mình và cho người khác
hiểu.
- Dùng tài liệu khoa học để kết thúc quá trình tìm tòi - nghiên cứu.
6
Vận dụng phương pháp Bàn tay nặn bột vào dạy học bài “Từ thông. Cảm ứng điện từ”- Vật lí 11 Cơ bản
- Khoa học là một công việc cần sự hợp tác.
2.3. Một số phương pháp tiến hành thí nghiệm tìm tòi - nghiên cứu
2.3.1. Phương pháp quan sát:
Quan sát được sử dụng để:
- Giải quyết một vấn đề;
- Miêu tả một sự vật, hiện tượng;
- Xác định đối tượng;
- Kết luận.
2.3.2 Phương pháp thí nghiệm trực tiếp
Một thí nghiệm yêu cầu học sinh trình bày nên đảm bảo 4 phần chính:
- Vật liệu thí nghiệm;
- Bố trí thí nghiệm;
- Kết quả thu được;
- Kết luận.
2.3.3. Phương pháp làm mô hình
2.3.4 Phương pháp nghiên cứu tài liệu
3. Các nguyên tắc cơ bản của phương pháp BTNB
3.1. Nguyên tắc về tiến trình sư phạm
- Học sinh quan sát một sự vật hay một hiện tượng của thế giới thực tại, gần gũi
với đời sống, dễ cảm nhận và các em sẽ thực hành trên những cái đó.
- Trong quá trình tìm hiểu, học sinh lập luận, bảo vệ ý kiến của mình, đưa ra tập
thể thảo luận những ý nghĩ và những kết luận cá nhân, từ đó có những hiểu biết mà
nếu chỉ có những hoạt động, thao tác riêng lẻ không đủ tạo nên.
- Những hoạt động do giáo viên đề xuất cho học sinh được tổ chức theo tiến
trình sư phạm nhằm nâng cao dần mức độ học tập. Các hoạt động này làm cho các
chương trình học tập được nâng cao lên và dành cho học sinh một phần tự chủ khá lớn.
-. Cần một lượng tối thiểu là 2 giờ/tuần trong nhiều tuần liền cho một đề tài. Sự
liên tục của các hoạt động và những phương pháp giáo dục được đảm bảo trong suốt
thời gian học tập.
- Bắt buộc mỗi học sinh phải có một quyển vở thực hành do chính các em ghi
chép theo cách thức và ngôn ngữ của các em.
7
Vận dụng phương pháp Bàn tay nặn bột vào dạy học bài “Từ thông. Cảm ứng điện từ”- Vật lí 11 Cơ bản
- Mục tiêu chính là sự chiếm lĩnh dần dần các khái niệm khoa học và kĩ thuật
được thực hành, kèm theo là sự củng cố ngôn ngữ viết và nói của học sinh.
3.2. Những đối tượng tham gia
- Các gia đình, khu phố được khuyến khích thực hiện các công việc của lớp
học.
- Ở địa phương, các cơ sở khoa học (Trường Đại học, Cao đẳng, Viện nghiên
cứu…) giúp các hoạt động của lớp theo khả năng của mình.
- Ở địa phương, các viện đào tạo giáo viên (Trường Cao đẳng Sư phạm, Đại học
Sư phạm) giúp các giáo viên về kinh nghiệm và phương pháp dạy học.
- Giáo viên có thể tìm thấy trên internet các website có nội dung về những môđun
kiến thức (bài học) đã được thực hiện, những ý tưởng về các hoạt động, những giải
pháp thắc mắc. Giáo viên cũng có thể tham gia hoạt động tập thể bằng trao đổi với các
đồng nghiệp, với các nhà sư phạm và với các nhà khoa học. Giáo viên là người chịu
trách nhiệm giáo dục và đề xuất những hoạt động của lớp mình phụ trách.
4. Tiến trình dạy học theo phương pháp BTNB
Bước 1: Tình huống xuất phát và câu hỏi nêu vấn đề
* Tình huống xuất phát hay tình huống nêu vấn đề là một tình huống do giáo viên
chủ động đưa ra như là một cách dẫn nhập vào bài học. Tình huống xuất phát phải
ngắn gọn, gần gũi dễ hiểu đối với học sinh. Tình huống xuất phát nhằm lồng ghép câu
hỏi nêu vấn đề. Tình huống xuất phát càng rõ ràng thì việc dẫn nhập cho câu hỏi nêu
vấn đề càng dễ. Tuy nhiên có những trường hợp không nhất thiết phải có tình huống
xuất phát mới đề xuất được câu hỏi nêu vấn đề (tùy vào từng kiến thức và từng trường
hợp cụ thể)
* Câu hỏi nêu vấn đề là câu hỏi lớn của bài học (hay môdun kiến thức mà học
sinh sẽ được học). Câu hỏi nêu vấn đề cần đảm bảo yêu cầu phù hợp với trình độ, gây
mâu thuẫn nhận thức và kích thích tính tò mò, thích tìm tòi, nghiên cứu của học sinh
nhằm chuẩn bị tâm thế cho học sinh trước khi khám phá, lĩnh hội kiến thức. Giáo viên
phải dùng câu hỏi mở, tuyệt đối không được dùng câu hỏi đóng (trả lời có hoặc không)
đối với câu hỏi nêu vấn đề. Câu hỏi nêu vấn đề càng đảm bảo các yêu cầu nêu ra ở trên
thì ý đồ dạy học của giáo viên càng dễ thực hiện thành công.
Bước 2: Bộc lộ biểu tượng ban đầu
8
Vận dụng phương pháp Bàn tay nặn bột vào dạy học bài “Từ thông. Cảm ứng điện từ”- Vật lí 11 Cơ bản
Hình thành biểu tượng ban đầu từ đó hình thành các câu hỏi của học sinh là
bước quan trọng, đặc trưng của phương pháp BTNB. Trong bước này, giáo viên
khuyến khích học sinh nêu những suy nghĩ, nhận thức ban đầu của mình trước khi
được học kiến thức. Khi yêu cầu học sinh trình bày biểu tượng ban đầu, giáo viên có
thể yêu cầu nhiều hình thức biểu hiện của học sinh, có thể là bằng lời nói (thông qua
phát biểu cá nhân), bằng cách viết hay vẽ để biểu hiện suy nghĩ. Từ những quan niệm
ban đầu của học sinh, giáo viên giúp học sinh đề xuất các câu hỏi. Chú ý xoáy sâu vào
những quan niệm liên quan đến kiến thức trọng tâm của bài học (hay mô đun kiến
thức).
Giáo viên cần khéo léo chọn lựa một số quan niệm ban đầu khác biệt trong lớp
để giúp học sinh so sánh, từ đó giúp học sinh đặt câu hỏi liên quan đến nội dung bài
học. Đây là một bước khá khó khăn vì giáo viên cần phải chọn lựa các quan niệm ban
đầu tiêu biểu trong số hàng chục quan niệm của học sinh một cách nhanh chóng theo
mục đích dạy học, đồng thời điều khiển sự thảo luận của học sinh nhằm giúp học sinh
đề xuất các câu hỏi từ những sự khác biệt đó theo ý đồ dạy học. Việc chọn lựa các
quan niệm ban đầu không tốt sẽ dẫn đến việc so sánh và đề xuất câu hỏi của học sinh
gặp khó khăn.
Bước 3: Đề xuất câu hỏi và phương án thí nghiệm tìm tòi nghiên cứu
- Từ những khác biệt và phong phú về biểu tượng ban đầu của học sinh, giáo viên
giúp học sinh đề xuất các câu hỏi từ những sự khác biệt đó. Chú ý xoáy sâu vào những
sự khác biệt liên quan đến kiến thức trọng tâm của bài (hay mô đun kiến thức).
Ở bước này giáo viên cần khéo léo chọn lựa một số biểu tượng ban đầu khác
biệt trong lớp để giúp học sinh so sánh, từ đó giúp học sinh đặt câu hỏi liên quan đến
nội dung bài học. Đây là một bước khá khó khăn vì giáo viên cần phải chọn lựa các
biểu tượng ban đầu tiêu biểu trong số hàng chục biểu tượng của học sinh một cách
nhanh chóng theo mục đích dạy học, đồng thời linh hoạt điều khiển thảo luận của học
sinh nhằm giúp học sinh đề xuất các câu hỏi từ những sự khác biệt đó theo ý đồ dạy
học. Việc chọn lựa các biểu tượng ban đầu không tốt sẽ dẫn đến việc so sánh và đề
xuất câu hỏi của học sinh gặp khó khăn.
- Từ các câu hỏi được đề xuất, giáo viên nêu câu hỏi cho học sinh, đề nghị các
em đề xuất thí nghiệm tìm tòi - nghiên cứu để tìm câu trả lời cho các câu hỏi đó.
9
Vận dụng phương pháp Bàn tay nặn bột vào dạy học bài “Từ thông. Cảm ứng điện từ”- Vật lí 11 Cơ bản
- Sau khi học sinh đề xuất phương án thí nghiệm tìm tòi - nghiên cứu, giáo viên
nêu nhận xét chung và quyết định tiến hành phương án thí nghiệm đã chuẩn bị sẵn.
Trường hợp học sinh không đưa ra được phương án thí nghiệm tìm tòi - nghiên cứu
thích hợp, giáo viên có thể gợi ý hoặc đề xuất cụ thể phương án.
Lưu ý rằng phương án thí nghiệm tìm tòi - nghiên cứu ở đây được hiểu là các
phương án để tìm ra câu trả lời. Có nhiều phương pháp như quan sát, thực hành - thí
nghiệm, nghiên cứu tài liệu…
Bước 4: Tiến hành thí nghiệm tìm tòi - nghiên cứu
Từ các phương án thí nghiệm tìm tòi - nghiên cứu mà học sinh nêu ra, giáo viên
khéo léo nhận xét và lựa chọn thí nghiệm để học sinh tiến hành. Ưu tiên thực hiện thí
nghiệm trực tiếp trên vật thật. Một số trường hợp không thể tiến hành thí nghiệm trên
vật thật có thể làm cho mô hình, hoặc cho học sinh quan sát tranh vẽ.
Tiến hành thí nghiệm tương ứng với môđun kiến thức. Làm lần lượt các thí
nghiệm nếu có nhiều thí nghiệm. Mỗi thí nghiệm thực hiện xong nên dừng lại để học
sinh rút ra kết luận (tìm thấy câu trả lời cho các vấn đề đặt ra tương ứng).
Bước 5: Kết luận, hợp thức hóa kiến thức
Sau khi thực hiện thí nghiệm tìm tòi - nghiên cứu, các câu trả lời dần dần được
giải quyết, kiến thức được hình thành, tuy nhiên vẫn chưa có hệ thống hoặc chưa
chuẩn xác một cách khoa học. Giáo viên có nhiệm vụ tóm tắt, kết luận và hệ thống lại
để học sinh ghi vào vở coi như là kiến thức của bài học.
5. Những vấn đề cần quan tâm khi vận dụng PP Bàn tay nặn bột vào thực tiễn
5.1. Hiệu quả của phương pháp đối với GV và HS
5.1.1. Giáo viên
- Không phải tốn thời gian cho việc thuyết trình giảng giải.
- Kiến thức được HS tiếp nhận một cách tự nhiên, thoải mái, không gò ép.
- Rèn được kĩ năng xử lí tình huống.
5.1.2. Học sinh
- Có được kĩ năng phán đoán, lập luận , bảo vệ ý kiến cá nhân.
- Mạnh dạn tự tin trước đám đông.
- Phát huy khả năng tìm tòi, lòng say mê khoa học.
- Tự chiếm lĩnh kiến thức qua thực nghiệm sẽ nhớ lâu.
- Rèn luyện kĩ năng diễn đạt.
10
Vận dụng phương pháp Bàn tay nặn bột vào dạy học bài “Từ thông. Cảm ứng điện từ”- Vật lí 11 Cơ bản
5.2. Những vấn đề cần quan tâm khi vận dụng phương pháp vào thực tiến
5.2.1. Năng lực của GV
a. Khó khăn
- Trình độ GV chưa đồng đều.
- Năng lực ở một số GV còn hạn chế.
b. Biện pháp
- Nâng cao công tác tự học để có kiến thức sâu rộng, tìm hiểu kĩ các phương
pháp dạy học.
- Rèn luyện kĩ năng sử dụng tốt phương pháp dạy học mới và vận dụng phù
hợp.
5.2.2. Phương tiện dạy học
a. Khó khăn
- Trang thiết bị chưa đầy đủ phục vụ cho việc thí nghiệm hoặc TBDH chưa đảm
bảo tính khoa học, chính xác.
- Rất khó tổ chức cho các em đi thăm điểm hoặc điều tra.
b. Biện pháp
- GV tận dụng những nguyên vật liệu rẻ tiền có sẵn ở địa phương để phục vụ
cho việc giảng dạy.
- Tổ chức những buổi cho HS đi điều tra, thăm diểm có thể kết hợp với các lực
lượng GD khác trong và ngoài nhà trường.
5.2.3. Thời lượng tiết học
a. Khó khăn: 35 - 40 phút / tiết rất khó áp dụng cho phương pháp BTNB
Lí do: HS ghi vở thực nghiệm tốn thời gian.
Tốn nhiều thời gian cho việc trình bày ý tưởng cá nhân.
Làm thí nghiệm có thể thất bại nhiều lần.
b. Biện pháp:
- Cần giải quyết ít vấn đề trong một lần thí nghiệm.
-Sử dụng phương pháp này thường xuyên để rèn thói quen cho HS.
- Rèn cho HS có kĩ năng diễn đạt rõ ràng, ngắn gọn, mạch lạc để đảm bảo
thời gian.
- Trong quá trình thực nghiệm GV cần có mặt kịp thời nhằm giúp nhóm
trình bày ý tưởng, có thể điều chỉnh kịp thời để tránh thất bại nhiều lần.
11
Vận dụng phương pháp Bàn tay nặn bột vào dạy học bài “Từ thông. Cảm ứng điện từ”- Vật lí 11 Cơ bản
- Những vấn đề chưa cần thiết giải quyết trong tiết học GV hẹn dịp khác.
- Đề xuất ý kiến lên các cấp quản lí GD.
5.2.4. Sĩ số lớp học
a. Khó khăn
- Sĩ số đông ảnh hưởng đến việc tổ chức các hình thức dạy học.
b. Biện pháp
- Sắp xếp bàn ghế phù hợp.
- Bố trí nhóm từ 4 - 6 người.
- Có chỗ dành riêng để vật liệu thí nghiệm.
5.3. Những điều lưu ý khi sử dụng phương pháp BTNB
- Thực hiện phương pháp này không thể nóng vội, cần thực hiện từng bước để
tạo thói quen cho học sinh, lúc đó việc dạy học với phương pháp BTNB sẽ dễ dàng và
đem lại hiệu quả cao.
- Tất cả các câu hỏi của học sinh đưa ra ta không bỏ vào sọt rác mà sẽ trả lời qua
bài học (câu hỏi nào chưa có trong bài học ta cần khéo léo dẫn dắt, khi nào có kiến
thức ở các bài khác liên quan ta sẽ trả lời cho các em).
- Trước giờ ta vẫn làm củng cố bài là phải nhắc lại nội dung kiến thức để các em
nhớ được thì nay với phương pháp BTNB sẽ là những thử thách mới để các em tìm tòi
khám phá ở nhà và đây cũng là bước chuẩn bị cho bài sau.
6. Tầm quan trọng của dạy học theo phương pháp Bàn tay nặn bột
Đối với nhà trường:
- Nâng cao được chất lượng GD của trường, đào tạo những con người có các kĩ
năng tư duy cao, kĩ năng cộng tác, giao tiếp; tạo cho HS lòng tin vào kiến thức hàn
lâm.
- Tạo môi trường học tập thân thiện, HS tích cực và ganh đua trong quá trình học
tập.
- Tối ưu hóa sự bình đẳng giữa các cơ hội GD. Môi trường làm việc hợp tác sẽ tạo
cho mọi HS có ý thức làm việc; vai trò và trách nhiệm được phân chia theo khả năng phù
hợp với năng lực cá nhân nên ai cũng có cơ hội thể hiện mình.
Đối với giáo viên:
12
Vận dụng phương pháp Bàn tay nặn bột vào dạy học bài “Từ thông. Cảm ứng điện từ”- Vật lí 11 Cơ bản
- Đạt được mục tiêu: nâng cao chất lượng bài giảng và hình thành, phát triển
các kĩ năng sống, nhân cách cho HS. Góp một phần nhỏ vào việc đổi mới PPDH.
- Trong quá trình học tập luôn có sự trao đổi ý kiến qua lại về các vấn đề liên
quan đến nhiệm vụ học tập, từ đó tạo mối quan hệ gần gũi giữa thầy và trò, giúp nhiều
cho GV trong quá trình giáo dục HS, nhất là HS cá biệt.
- Với kiểu tổ chức dạy học theo BTNB, GV có cơ hội thể hiện nhiều vai trò khác
nhau, không chỉ là người truyền thụ kiến thức, mà còn là người tổ chức, quản lí, giám
sát, động viên cũng như nhắc nhở khi HS làm việc.
- GV có cơ hội phát hiện năng lực của HS, từ đó lên kế hoạch bồi dưỡng những
HS khá - giỏi, khắc phục những HS yếu kém.
Đối với học sinh:
- HS nắm được kiến thức bài học nhưng vẫn bảo đảm có tính thực tế, từ đó kết
quả học tập của HS sẽ được nâng cao nhờ sự hiểu biết sâu sắc.
- Trong quá trình làm việc, mỗi HS sẽ học hỏi được các hành vi ứng xử với
người khác, với tập thể; từ đó giúp cho mỗi HS dễ dàng hòa nhập với cuộc sống.
- Trong quá trình làm việc thông qua thảo luận, các HS sẽ được trao đổi, tranh
luận với các bạn trong nhóm, với nhóm khác; từ đó HS sẽ tự nhận xét về ưu và nhược
điểm của bản thân và có định hướng nghề nghiệp sau này cho bản thân.
7. Sự khác biệt giữa dạy học theo quan niệm truyền thống và dạy học theo PP
BTNB
Ngày nay, trong quá trình đổi mới phương pháp dạy học ở trường phổ thông,
chúng ta thấy xuất hiện khá nhiều phương pháp và hình thức dạy học mới như: Dạy
học giải quyết vấn đề; Dạy học nêu và giải quyết vấn đề; Dạy học theo lí thuyết kiến
tạo... với nhiều kĩ thuật tố chức hoạt động học tích cực cho học sinh. Tuy có những
điểm khác biệt nhau nhưng nhìn chung thì các chiến lược dạy học, phương pháp dạy
học đó đều được xây dựng trên tinh thần dạy học giải quyết vấn đề thông qua việc tổ
chức cho học sinh hoạt động tự chủ chiếm lĩnh kiến thức, hình thành và phát triển năng
lực trí tuệ cũng như quan điểm đạo đức, thái độ.
Đối chiếu với tiến trình sư phạm của phương pháp BTNB, chúng ta có thể nhận
thấy điểm tương đồng của phương pháp này so với các phương pháp dạy học tích cực
khác là ở chỗ đều nhằm tổ chức cho học sinh hoạt động tích cực, tự lực giải quyết vấn
đề. Về cơ bản thì tiến trình dạy học cũng được diễn ra theo 3 pha chính là: 1-chuyển
13
Vận dụng phương pháp Bàn tay nặn bột vào dạy học bài “Từ thông. Cảm ứng điện từ”- Vật lí 11 Cơ bản
giao nhiệm vụ cho học sinh; 2-học sinh hoạt động tự chủ giải quyết vấn đề; 3-báo cáo,
hợp thức hóa và vận dụng kiến thức mới. Điểm khác biệt của phương pháp BTNB so
với các phương pháp khác là ở chỗ các tình huống xuất phát và câu hỏi nêu vấn đề là
những sự vật hay hiện tượng của thế giới thực tại, gần gũi với đời sống, dễ cảm nhận
và các em sẽ thực hành trên những cái đó. Đặc biệt, phương pháp BTNB chú trọng
việc giúp cho học sinh bộc lộ quan niệm ban đầu để tạo ra các mâu thuẫn nhận thức
làm cơ sở đề xuất các câu hỏi và giả thuyết. Hoạt động tìm tòi - nghiên cứu trong
phương pháp BTNB rất đa dạng, trong đó các phương án thí nghiệm nếu được tiến
hành thì chủ yếu là các phương án được đề xuất bởi chính học sinh, với những dụng cụ
đơn giản, dễ kiếm. Đặc biệt, trong phương pháp BTNB, học sinh bắt buộc phải có mỗi
em một quyển vở thí nghiệm do chính các em ghi chép theo cách thức và ngôn ngữ
của chính các em. Thông qua các hoạt động như vậy, phương pháp BTNB nhằm đạt
được mục tiêu chính là sự chiếm lĩnh dần dần của học sinh các khái niệm khoa học và
kĩ thuật được thực hành, kèm theo là sự củng cố ngôn ngữ viết và nói.
14
Vận dụng phương pháp Bàn tay nặn bột vào dạy học bài “Từ thông. Cảm ứng điện từ”- Vật lí 11 Cơ bản
CHƯƠNG 2
SOẠN THẢO TIẾN TRÌNH DẠY HỌC THEO PHƯƠNG PHÁP BÀN
TAY NẶN BỘT BÀI “TỪ THÔNG. CẢM ỨNG ĐIỆN TỪ”
VẬT LÝ 11 CƠ BẢN Ở TRƯỜNG THPT
1. Mục tiêu dạy học của bài “Từ thông. Cảm ứng điện từ” – Vật
lý 11 Cơ bản
1.1. Kiến thức
- Viết được công thức và hiểu được ý nghĩa vật lí của từ thông.
- Phát biểu được định nghĩa và hiểu được khi nào có hiện tượng cảm ứng điện từ.
Đề xuất được những phương án thí nghiệm kiểm tra.
- Phát biểu được định nghĩa định luật Len- xơ theo những cách khác nhau và biết
vận dụng để xác định chiều dòng điện cảm ứng trong các trường hợp khác nhau.
- Phát biểu được định nghĩa và nêu được một số tính chất của dòng điện Fu- cô.
1.2. Kĩ năng
- Kĩ năng quan sát và quan sát có chủ đích.
- Có khả năng làm việc độc lập và kĩ năng làm việc nhóm.
- Kĩ năng đề xuất và sử dụng thành thạo các dụng cụ thí nghiệm, biết cách xử lí
kết quả thí nghiệm và từ kết quả rút ra kết luận cần thiết.
- Rèn luyện ngôn ngữ nói và viết, đặc biệt là thuật ngữ khoa học.
- Rèn kĩ năng tự lực học tập, độc lập tư duy và năng lực sáng tạo.
1.3. Thái độ
- Tích cực học tập, yêu thích môn vật lí nói riêng và khoa học nói chung.
- Có cái nhìn khoa học đối với các hiện tượng xảy ra trong tự nhiên và hứng thú
muốn tìm hiểu chúng.
- Có tinh thần đoàn kết, hợp tác, giúp đỡ nhau trong học tập.
- Có tinh thần trách nhiệm, khách quan, trung thực, tỉ mỉ và cẩn thận.
- Có tác phong làm việc như nhà khoa học.
1.4. Định hướng phát triển năng lực
- Năng lực giải quyết vấn đề;
- Năng lực hợp tác;
- Năng lực trình bày,trao đổi thông tin;
15
Vận dụng phương pháp Bàn tay nặn bột vào dạy học bài “Từ thông. Cảm ứng điện từ”- Vật lí 11 Cơ bản
- Năng lực tự học, tự nghiên cứu;
- Năng lực quan sát;
- Năng lực sáng tạo;
- Năng lực sử dụng công nghệ thông tin;
- Năng lực thực hành thí nghiệm;
2. Cấu trúc nội dung của bài “Từ thông. Cảm ứng điện từ” –
Vật lý 11 Cơ bản
Từ thông. Cảm ứng
điện từ
Từ thông
Định
nghĩa
Hiện tượng
cảm ứng
điện từ
Đơn
vị
Thí
nghiệm
Định luật
Len - xơ
Kết
luận
Thí
nghiệm
Nội
dung
Dòng điện
Fu - cô
Thí
nghiệm
Tính
chất
Hình 2. Sơ đồ cấu trúc nội dung bài “Từ thông. Cảm ứng điện từ”
3. Thực trạng dạy học bài: “Từ thông. Cảm ứng điện từ” - Vật lý 11 ở trường
THPT
- Về phương pháp giảng dạy của giáo viên.
Phương pháp giảng dạy của giáo viên chủ yếu là thuyết trình và đàm thoại, tiến
trình dạy học theo đúng trình tự của SGK. Các câu hỏi của giáo viên nêu ra chỉ mang
tính đơn thuần là tái hiện kiến thức cũ có liên quan, học sinh thụ động nghe và ghi
chép.
Mức độ sử dụng phương tiện thí nghiệm còn thấp, chưa được giáo viên quan tâm.
Một số giáo viên chỉ sử dụng thí nghiệm được trình bày theo kiểu thuyết trình,
mô tả định tính mà không được tiến hành trên lớp hoặc chỉ tiến hành biểu diễn trên
lớp, mặc dù các thí nghiệm trong bài tương đối đơn giản, không mất nhiều thời gian
và công việc chuẩn bị.
16
Vận dụng phương pháp Bàn tay nặn bột vào dạy học bài “Từ thông. Cảm ứng điện từ”- Vật lí 11 Cơ bản
Như vậy, với phương pháp giảng dạy truyền thống thì học sinh chỉ tiếp thu kiến
thức một các thụ động, máy móc, chưa phát huy được tính tích cực, chủ động, chưa
bồi dưỡng cho học sinh khả năng tư duy và năng lực sáng tạo.
-Về phương pháp học của học sinh.
Qua dự giờ một số tiết học trên lớp, đa số học sinh chỉ tiếp thu kiến thức một
cách thụ động, chủ yếu là lắng nghe và ghi chép nội dung bài học theo những gì giáo
viên ghi trên bảng.
Chỉ một số ít học sinh có thái độ hứng thú, tích cực tham gia vào bài học, phát
biểu ý kiến nhưng do câu hỏi của giáo viên chỉ mang tính tái hiện kiến thức cũ nên tư
duy của học sinh chỉ là ghi nhớ, tái hiện chưa thật sự phát huy được tính sáng tạo, tự
lực của học sinh. Khi kiểm tra, phần đông các em đều học thuộc lòng phần ghi chép
trong tập và giải những bài tập định lượng rất máy móc, không có ý nghĩa ứng dụng
vào thực tiễn cuộc sống.
Học sinh không được tham gia vào hoạt động thực hành thí nghiệm và rất ít được
quan sát giáo viên làm thí nghiệm biểu diễn, dẫn đến tâm lý nhàm chán, thụ động và
dễ dàng chấp nhận kiến thức mới, không có khả năng vận dụng kiến thức mới vào thực
tiễn.
- Những khó khăn học sinh thường gặp.
Học sinh không hiểu rõ về ý nghĩa của các đại lượng vật lí, đa số học sinh chỉ
biết tên và đơn vị của chúng.
Sử dụng ngôn ngữ khoa học chưa chuẩn xác, còn khó khăn trong việc lựa chọn
và sử dụng chúng.
Khả năng tự học kém, rất ít khi làm bài tập hoặc đọc trước bài ở nhà.
Học sinh chỉ đơn thuần học lí thuyết suông mà đôi khi không hiểu rõ về nó nên
không thấy sự ứng dụng của lý thuyết vào thực tiễn, làm học sinh cảm thấy môn học
nhàm chán, khô khan, khó hiểu.
Đa số học sinh học vật lí chỉ để thi, không thấy được lợi ích khi học tốt chúng.
4. Đề xuất biện pháp góp phần khắc phục khó khăn trên
- Trước hết cần đảm bảo các điều kiện cần thiết để cho GV và HS dạy và học tích
cực: cơ sở vật chất, thiết bị dạy học, giảm sĩ số HS trong mỗi lớp. Tạo phòng học bộ
môn để phục vụ cho GV thiết kế và tổ chức các giờ dạy theo phương pháp đổi mới.
17
Vận dụng phương pháp Bàn tay nặn bột vào dạy học bài “Từ thông. Cảm ứng điện từ”- Vật lí 11 Cơ bản
- Khuyến khích GV áp dụng các PPDH tích cực kết hợp với sử dụng dụng cụ thí
nghiệm vào dạy học nhằm phát huy tính tích cực và tự lực của HS.
- Cần đánh giá cả quá trình học tập của HS chứ không chỉ riêng đánh giá kết quả
học tập. Đồng thời cần phát huy vai trò tự đánh giá của HS và đánh giá qua bạn học.
- Tăng cường sử dụng các phương tiện dạy học hiện đại như: máy chiếu, các
phần mềm phục vụ cho việc dạy học.
5. Soạn thảo tiến trình dạy học theo Bàn tay nặn bột bài “Từ thông. Cảm ứng
điện từ”
5.1. Hệ thống các thiết bị dạy học
- Dụng cụ thí nghiệm: Một thanh nam châm vĩnh cửu, 3 vòng dây kín có số
vòng và diện tích khác nhau, một điện kế nhạy,các dây nối, mô hình máy phát điện.
- Văn phòng phẩm: Giấy Ao, bút viết, nam châm.....
5.2. Hệ thống các hoạt động hình thành kiến thức của bài
- Hoạt động 1: Tìm hiểu khái niệm từ thông.
- Hoạt động 2: Tìm hiểu hiện tượng cảm ứng điện từ.
- Hoạt động 3: Tìm hiểu định luật Len xơ.
- Hoạt động 4: Tìm hiểu về dòng Fu – cô.
Bài này áp dụng PP BTNB vào các hoạt động 2,3,4 của bài.
5.3. Tiến trình tổ chức dạy học cụ thể theo PP BTNB bài “Từ thông. Cảm ứng
điện từ” – Vật lí 11 Cơ bản
* HOẠT ĐỘNG KHỞI ĐỘNG
Hoạt động giáo viên
Hoạt động 1: Kiểm tra sĩ số
Lớp trưởng báo cáo sĩ số của lớp hôm nay?
Hoạt động 2: Kiểm tra bài cũ
Tổ chức HS chơi trò chơi mang tên TIẾP SỨC
18
Hoạt động học sinh
Báo cáo sĩ số lớp hôm nay.
HS lắng nghe
Vận dụng phương pháp Bàn tay nặn bột vào dạy học bài “Từ thông. Cảm ứng điện từ”- Vật lí 11 Cơ bản
Giới thiệu quy tắc tham gia trò chơi:
HS tham gia trò chơi
Lớp chia thành 4 nhóm, mỗi nhóm cử đại diện lên
bảng viết nội dung liên quan đến chủ đề “Viết các
công thức xác định từ trường tạo bởi dòng điện?”,
các thành viên ở dưới thảo luận.
Thành viên trên bảng viết xong, về vị trí của nhóm
mình, ngồi xuống, thành viết khác mới lên bảng viết
nội dung tiếp theo, khác nội dung đã được viết của
nhóm mình.
Trong khoảng thời gian 5 phút nhóm nào hoàn
thành được nhiều nội dung, chính xác, phù hợp với
chủ đề thì giành chiến thắng.
Nhận xét
Ghi nhận
Hoạt động 3: Đặt câu hỏi tình huống
Một số hình ảnh về máy phát điện
19