Bài tiểu luận
SVTH: Phan Thị Bích Huệ
GVHD: Nguyễn Văn Hùng
Page 1
Bài tiểu luận
SVTH: Phan Thị Bích Huệ
GVHD: Nguyễn Văn Hùng
Page 2
Bài tiểu luận
GVHD: Nguyễn Văn Hùng
A. Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài:
Vấn đề dân tộc là một trong những vấn đề có tính quy luật của chủ nghĩa xã hội khoa
học, có ý nghĩa chiến lược của cách mạng xã hội chủ nghĩa đối vs dân tộc ta, sự
nghiệp dựng nước và giữ nước là sự nghiệp của dân tộc trong trường kỳ lịch sử suốt
mấy nghìn năm. Sự nghiệp ấy chỉ được thắng lợi khi dân tộc ta một lòng chống giặc
giữ nước, khi mọi người cùng quyết tâm chiến đấu với thiên nhiên xây dựng đất
nước. Trong quá khứ, những “vua sáng, tôi hiền” sở dĩ làm nên sự nghiệp lớn chính
là vì hiểu được cái chân lý “lấy dân làm gốc, dân là dân nước, nước là nước dân”,
“đẩy thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân”, vì vậy phải thực hiện “thân dân”,
“khoan thư sức dân để làm kế sâu rể bền gốc”. Quả thật không có dân làm gốc thì
Việt Nam cũng không thể tồn tại và phát triển như ngày nay. Bên cạnh đó, Đảng và
nhà nước luôn coi đại đoàn kết dân tộc là đường lối chiến lược cách mạng Việt Nam,
là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa đảm bảo thắng lợi bền
vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. chính vì vậy, vấn đề dân tộc và
chính sách dân tộc luôn là mối quan tâm hàng đầu của nước ta nói riêng và cũng là
toàn thể mọi quốc gia trên thế giới nói chung
2. Mục đích nghiên cứu
Đi sâu nghiên cứu vấn đề dân tộc là nhằm giải quyết mối quan hệ giữa các cộng
đồng trong một quốc gia dân tộc và mối quan hệ của các quốc gia dân tộc khác nhau
trên thế giới, từ đó có chính sách đúng đắn.
3. Đối tượng nghiên cứu
Biểu hiện của vấn đề dân tộc và các chính sách của Đảng và nhà nước đối với nó
hiện nay
4. Phạm vi nghiên cứu
Vấn đề dân tộc và các chính sách dân tộc
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Làm rõ vấn đề dân tộc hiện nay, thấy được mối quan hệ giữa các cộng đồng trong
một quốc gia, và những mối quan hệ giữa các dân tộc với nhau trên thế giới, thấy
được thực trạng, những vấn đề của nó từ đó đưa ra những chính sách phù hợp để
khắc phục tình trạng dân tộc.
SVTH: Phan Thị Bích Huệ
Page 3
Bài tiểu luận
GVHD: Nguyễn Văn Hùng
6. Phương pháp nghiên cứu.
Chủ nghĩa Mac-Lenin, chủ nghĩa xã hội khoa học, thực tiễn cuộc sống.
B. Nội dung:
I.
Cơ sở lý luận của vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc của Đảng cộng sản
1. Dân tộc và hai xu hướng khách quan của sự phát triển dân tộc
a. Khái niệm dân tộc và đặt trung cơ bản của dân tộc
- Khái niệm dân tộc:
Cho đến nay, khái niệm dân tộc được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau, trong đó
có hai nghĩa được dùng phổ biến nhất:
Nghĩa thứ nhất: dân tộc là cộng đồng người có mối liên hệ chặc chẽ và bền vững,
có sinh hoạt kinh tế chung, có ngôn ngữ riêng và những nét văn hóa đặc thù, xuât
hiện sau bộ lạc, bộ tộc, kế thừa và phát triển cao hơn những nhân tố tộc người ở bộ
tộc, bộ lạc và thể hiện thành ý thức tự giác tộc người của dân cưa cộng đồng đó.
Nghĩa thứ hai: dân tộc là cộng đồng người ổn định hợp thành nhân dân một nước,
có lãnh thổ, có quốc gia, có nên kinh tế thống nhất, quốc ngữ chung và có ý thức về
sự thống nhất quốc gia của mình, gắn bó với nhau bởi lợi ích chính trị, kinh tế,
truyền thống văn hóa và truyền thống đấu tranh chung cho suốt quá trình lịch sử lâu
dài dựng nước và giữ nước.
Với nghĩa thứ nhât, dân tộc là một bộ phận của quốc gia, với nghĩa thứ hai, dân tộc
là toàn thể nhân dân của quốc gia đó_Quốc gia dân tộc. Dưới góc độ môn chử nghĩa
xã hội khoa học, dân tộc được hiểu theo nghĩa thứ nhất. Tuy nhiên, chỉ khi đặt nó
bên cạnh nghĩa thứ hai, trong mối quan hệ với nghĩa thứ hai thì sắc thái nội dung của
nó mới được bộc lộ đầy đủ.
- Đặc trưng của dân tộc:
Dân tộc thường được nhận biết thông qua 4 đặc trưng chủ yếu sau đây:
o Dân tộc có chung một phương thức sinh hoạt kinh tế:
Một dân tộc trong các tập thể của nhân loại muốn tồn tại cần có mối
quan hệ với nhau về mặt kinh tế, tức là có chung một phương thức sinh
hoạt kinh thế. Đây là đặc trưng quan trọng nhất của dân tộc. Bơi các mối
quan hệ kinh tế là cơ sở liên kết các bộ phận, các thành viên của dân tộc,
tạo nên nền tảng vững chắc của cộng đồng dân tộc.
SVTH: Phan Thị Bích Huệ
Page 4
Bài tiểu luận
GVHD: Nguyễn Văn Hùng
o Mỗi dân tộc có một lãnh thổ riêng cho mình:
Lãnh thổ là điều kiện bắt buộc cho sự xuất hiện của bất kì một tộc
người nào. Mỗi dân tộc luôn luôn có sự thăng trầm trong lịch sử. Các dân
tộc mạnh thì luôn có khái niệm phải mở rộng lãnh thổ để nâng cao sức
mạnh, các dân tộc yếu và nhỏ thì luôn cố gắng bảo vệ lãnh thổ của mình.
Dân tộc có thể cư trú tập trung trên một vùng lãnh thổ của một quốc gia,
hoặc cư trú đan xen với nhiều dân tộc anh em. dân tộc một phần rất quan
trọng gắn với việc xác lập và bảo vệ lãnh thổ đất nước.
o Mỗi dân tộc có một thứ ngôn ngữ riêng biệt:
Ngôn ngữ là công cụ cơ bản cho sự giao tiếp của các cá nhân bao gồm
một tộc người phù hợp, phân định họ với đại bộ phận các tộc người khác.
Nói cách khác ngôn ngữ là dấu hiệu để người ta phân biệt các dân tộc khác
nhau.
Như một qui tắc, tất cả thành viên gắn bó với nhau trong một tộc người
thì cùng nói một thứ tiếng gọi là tiếng mẹ đẻ. Nhưng điều đó không có
nghĩa là trên thế giới có bao nhiêu tộc người thì có bấy nhiêu ngôn ngữ.
Thực tế, có nhiều ngôn ngữ của tộc người khác lại sự dụng với tư cách
là ngôn ngữ tộc người. Có một số ngôn ngữ được nhiều bộ phận cư dân sử
dụng với tư cách là ngôn ngữ tộc người mặc dù họ là những tộc người
riêng biệt và sống ở các quốc gia khác nhau, bên cạnh đó cũng có các dân
tộc mà các nhóm riêng biệt của nó lại nói những thứ tiếng khác nhau.
Mỗi dân tộc có ngôn ngữ riêng và cũng có thể có chữ viết riêng (trên cơ
sở ngôn ngữ chung của quốc gia) làm công cụ giao tiếp trên mọi lĩnh vực.
o Mỗi dân tộc có một tâm lý riêng:
Nét tâm lý dân tộc biểu hiện kết tinh trong nên văn hóa dân tộc (thể
hiện qua lối sống, phong trào, tập quán, tín ngưỡng..) và tạo nên bản sắc
riêng của nền văn hóa dân tộc, gắn bó với nền văn hóa của cộng đồng các
dân tộc (quốc gia dân tộc).
Như vậy, cộng đồng người ổn định chỉ trở thành dân tộc khi có đủ các đặc trưng
trên, các đặc trưng của dân tộc là một chỉnh thể gắn bó với nhau, đồng thời mỗi
đặc trưng có một vị trí xác định, làm cho những nhân tố tộc người đan kết, hòa
quyện vào các nhân tố xã hội.
SVTH: Phan Thị Bích Huệ
Page 5
Bài tiểu luận
GVHD: Nguyễn Văn Hùng
b. Hai xu hướng của sự phát triển các dân tộc và biểu hiện của hai xu hướng
khách quan đó trong thời đại ngày nay:
Nghiên cứu vấn đề dân tộc và phong trào dân tộc trong điều kiện của chủ nghĩa
tư bản, V.I.Lênin đã phát hiện ra hai xu hướng khách quan của sự phát triển các dân
tộc:
Xu hướng thứ nhất: do sự thức tỉnh, sự trưởng thành của ý thức dân tộc mà
các cộng đồng dân cư muốn tách ra để xác lập các cộng đồng dân tộc độc lập. Trong
thực tế, xu hướng này đã biểu hiện thành phong trào dấu tranh chống áp bức dân tộc,
thành lập các quốc gia dân tộc độc lập. Xu hướng này phát huy tác động nổi bật
trong giai đoạn của chủ nghĩa tư bản và vẫn còn tác động trong giai đoạn đế quốc
chủ nghĩa.
Xu hướng thứ hai: các dân tộc trong từng quốc gia, thậm chí các dân tộc ở
nhiểu quốc gia muốn liên kết lại với nhau. Xu hướng này phát huy tác động nổi bật
trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Chính sự phát triển của lực lượng sản xuất của
khoa học và công nghệ, của giao lưu kinh tế và văn hóa trong xã hội tư bản đã làm
xuất hiện nhu cầu xóa bỏ hàng rào ngăn cách giữa các dân tộc, tạo nên mối liên hệ
quốc gia và quốc tế rộng lớn giữa các dân tộc, thúc đẩy các dân tộc xích lại gần
nhau.
Hai xu hướng này vận động trong điều kiện của chủ nghĩa đế quốc gặp nhiều trở
ngại, vì nguyện vọng của các dân tộc được sống độc lập tự do bị chính sách xâm
lược của chủ nghĩa đế quốc xóa bỏ.
Vì vậy chủ nghĩa Mác_Lênin cho rằng: chỉ trong điều kiện của chủ nghĩa xã hội,
khi chế độ người bóc lột người bị xóa bỏ thì tình trạng dân tộc này áp bức, đô hộ các
dân tộc khác mới bị xóa bỏ và chỉ khi đó hai xu hướng khách quan của sự phát triển
dân tộc mới có điều kiện để thể hiện đầy đủ.
Hai xu hướng khách quan của phong trào dân tộc do V.I.Lênin đang phát huy tác
dụng trong thời đại ngày nay với những biểu hiện rất đa dạng và phong phú.
-
Xét trong phạm vi các quốc gia xã hội chủ nghĩa có nhiều dân tộc:
Ở các quốc gia xã hội chủ nghĩa, hai xu hướng phát huy tác động cùng chều,
bổ sung, hỗ trợ cho nhau và diễn ra trong từng dân tộc, trong cả cộng đồng quốc gia
và đến tất cả các mối quan hệ dân tộc. Sự xích lại gần nhau trên cơ sở tự nguyện,
bình đẳng giữa các dân tộc đi nhanh tới sự tự chủ và phồn vinh bởi vì: nó sẽ tạo điều
kiện cho dân tộc đó có thêm điều kiện vật chất tinh thần để hợp tác chặc chẽ hơn với
các dân tộc anh em, đồng thời nó cho phép mỗi dân tộc không chỉ sử dụng tiềm năng
của các dân tộc mình mà còn sử dụng gắn kết hữu cơ với tiềm năng của các dân tộc
SVTH: Phan Thị Bích Huệ
Page 6
Bài tiểu luận
GVHD: Nguyễn Văn Hùng
anh em trong một nước để tiến lên phía trước. Sự xích lại gần nhau của các dân tộc
trong cùng một quốc gia có nghĩa là những tinh hoa, những giá trị của các dân tộc đó
thâm nhập vào nhau, bổ sung cho nhau, hòa nguyện vào nhau để tạo thành những giá
trị chung. Tuy nhiên, sự hòa nguyện đó không xóa bỏ bản sắc của từng dân tộc,
không xóa bỏ những đặc thù dân tộc, ngược lại, nó bảo lưu , gìn giữ và phát huy
những tinh hoa, bản sắc của từng dân tộc. Trong chế dộ xã hội chủ nghĩa, cả hai xu
hướng trên đều loại trừ các tư tưởng và hành vi kì thị dân tộc, chia rẻ dân tộc, tự ti
dân tộc, dân tộc hẹp hòi, xung đột dân tộc. Trong văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VI, Đảng ta đã khẳng định: “Sự phát triển mọi mặt của từng dân tộc đi liền
với cũng cố, phát triển của cộng đồng các dân tộc trên nước ta. Sự tăng cường tính
cộng đồng, tính thống nhất là một quá trình hợp qui luật, nhưng tính cộng đồng tính
thống nhất không mâu thuẫn, không bài trừ tính đa dạng, tính độc đáo trong bản sắc
của mỗi dân tộc”.
Mọi sự vi phạm quan hệ biện chứng giữa hai xu hướng khách quan nêu trên
đều dẫn đến những hậu quả tiêu cực.
Xét trên phạm vi toàn thế giới, sự tác động của hai xu hướng khách quan thể
hiện nổi bật:
Thời đại hiện nay là thời đại các dân tộc bị áp bức đã vùng dậy, xóa bỏ ách đô
hộ của chủ nghĩa đế quốc và giành lấy quyền tự quyết định vận mệnh của dân tộc
mình, bao gồm quyền tự chọn chế độ chính trị và con đường phát triển dân tộc,
quyền được bình đẳng với các dân tộc khác. Đây là một trong những mục tiêu chính
trị chủ yêu của thời đại_ mục tiêu độc lâp dân tộc_là xu hướng khách quan, là chân lí
thời đại, là sức mạnh hiện thực tạo nên quá trình phát triển cả mỗi nên dân tộc, sẽ
làm tiêu tan tất cả nhưng cản trở nó.
Thời đại ngày nay còn có xu hướng các dân tộc xích lại gần nhau để trở lại
hợp nhất thành một quốc gia thống nhất theo nguyên trạng đã được hình thành trong
lịch sử. Xu hướng đó tạo nên sức mạnh hút các dân tộc vào các liên minh được hình
thành trên cơ sở lợi ích chung nhất định. Các dân tộc có những lợi ích mang tính khu
vực, dựa trên những yếu tố gần nhau về địa lý, giống nhau về một số giá trị văn hóa,
trùng hợp nhau về lịch sử và hiện tại trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung bên
ngoài.
Nhận thức rõ điều này, mỗi dân tộc, quốc gia phải biết thực hiện chính sách
độc lập tự chủ để mở cửa hội nhập vào dòng vận động chung của nhân loại đồng
thời phải tìm được giải pháp hữu hiệu để gìn giữ, phát huy bản sắc dân tộc mình.
Dựa trên sự phân tích hai xu hướng khách quan của phòng trào dân tộc trong thời
đại hiện nay, Đảng ta đã khẳng định: “Giữ vững độc lập tự chủ đi đôi với mở rộng
SVTH: Phan Thị Bích Huệ
Page 7
Bài tiểu luận
GVHD: Nguyễn Văn Hùng
hợp tác quốc tế, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại”. là nguyên tác
thống nhất của đường lối đối ngoại của Đảng và nhà nước ta.
2. Nội dung cương lĩnh của Đảng cộng sản:
Dựa trên cơ sở:
-
Tư tưởng của C.mác và Ph.Ăngghen về vấn đề dân tộc.
Sự tổng kết kinh nghiệm đấu tranh của phong trào cách mạng thế giới và cách
mạng Nga.
Phân tích sâu sắc hai xu hướng khách quan của phong trào dân tộc gắn liền
với quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản, nhất là khi chủ nghĩa tư bản chuyển
sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, Lênin đã khái quát lại thành “Cương lĩnh dân tộc”
của Đảng cộng sản với nội dung sau:
a. Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng:
Đó là quyền thiêng liêng của các dân tộc (kể cả cá cộng đồng bộ tộc) trong
mối quan hệ giữa các dân tộc. Các dân tộc hoàn toàn được bình đẳng có nghĩa là các
dân tộc lớn hay nhỏ (kể cả các bộ tộc và chủng tộc) không phân biệt trình độ phát
triển cao hay thấp đều có nghĩa vụ và quyền lợi ngang nhau, không một dân tộc nào
được giữ đặc quyền đặc lợi và đi áp bức bóc lột dân tộc khác, trước luật pháp mỗi
nước và luật pháp quốc tế.
Trong một quốc gia có nhiều dân tộc, quyền bình đẳng giữa các dân tộc phải
được pháp luật bảo vệ và được thể hiện trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội,
trong đó việc phấn đấu khắc phục sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế, văn
hóa do lịch sử để lại có ý nghĩa cơ bản.
Quyền bình đẳng giữa các dân tộc gắn liền với cuộc đấu tranh chống chủ
nghĩa phân biệt chủng tộc, chống sự kì thị dân tộc, chống sự tự ti dân tộc, nêu cao
lòng tự hào dân tộc, chống sự áp bức, bóc lột của nước tư bản chủ nghĩa đối với các
nước kém phát triển.
Thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc là cơ sở dể thực hiện quyền dân
tộc tự quyết và xây dựng mối quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa các dân tộc.
b. Các dân tộc được quyền tự quyết.
Quyền dân tộc tự quyết là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của các dân
tộc. Thực chất quyền dân tộc tự quyết là quyền làm chủ mỗi dân tộc, quyết định đối
với vận mệnh của dân tộc mình. Quyền tự quyết bao gồm quyền tự do độc lập về
SVTH: Phan Thị Bích Huệ
Page 8
Bài tiểu luận
GVHD: Nguyễn Văn Hùng
chính trị tách ra thành một quốc gia dân tộc độc lập vì lợi ích của dân tộc và cũng
bao gồm quyền tự nguyện liên hiệp với các dân tộc khác trên cơ sở bình đẳng cùng
có lợi để có đủ sức mạnh chống nguy cơ xâm lược tự bên ngoài, giữ vững độc lập
chủ quyền và có thềm những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển quốc gia dân tộc.
Khi xem xét giải quyết quyền tự quyết của các dân tộc cần đứng trên lập
trường của giai cấp công nhân, có quan điểm biện chứng, ủng hộ những phong trào
dân tộc tiến bộ, kiên quyết đấu tranh chống mọi âm mưu thủ đoạn của các thế lực để
quốc và phản động can thiệt vào công việc nội bộ của các nước, giúp đở các thế lực
phản động dân tộc chủ nghĩa đàn áp các lực lượng tiến bộ, đòi li khai và đòi đi vào
quỉ đạo của chủ nghĩa thực dân mới, chủ nghĩa tư bản.
c. Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc.
Đây là nguyên tắc cơ bản nhất, là tư tưởng chủ đạo, nội dung cơ bản trong
cương lĩnh dân tộc của Lênin: nó phản ánh bản chất quốc tế của giai cấp công nhân,
phản ánh mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, phản ánh sự thống
nhất giữa sự nghiệp giải phóng dân tộc và sự nghiệp giải phóng giai cấp. Nó đảm
bảo cho phong trào dân tộc có đủ sức mạnh để giành thắng lợi.
Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc qui định mục tiêu hướng đến, đường
lối, phương pháp xem xét cách giải quyết quyền dân tộc tự quyết, quyền bình đẳng
dân tộc. Đồng thời là yếu tố sức mạnh đảm bảo cho giai cấp công nhân và các dân
tộc bị áp bức chiến thắng kẻ thù của mình
Đoàn kết, Liên hiệp công nhân các dân tộc là cơ sở vững chắc để đoàn kết các
tầng lớp nông dân lao động rộng rãi thuộc các dân tộc trong công cuộc đấu tranh
chống chủ nghĩa đế quốc vì độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội.
C.Mác và Anwgghen đã khẳng định rằng: xóa bỏ nạn người bóc lột người thì
nạn dân tộc này đi áp bức dân tộc khác sẽ không còn nữa, khi mâu thuẫn giai cấp
trong nội bộ dân tộc không còn nữa thì sự thù địch trong các dân tộc cũng theo đó
mất đi.
Cương lĩnh dân tộc của đảng cộng sản là một bộ phận trong cương lĩnh cách
mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trong sự nghiệp đấu tranh giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, là cơ sở lý luận của đường lối, chính sách dân
tộc của Đảng cộng sản và nhà nước xã hội chủ nghĩa.
3. Kết luận:
Vấn đề đân tộc trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội cũng là một trong
những vấn đề quan trọng, có ý nghĩa chiến lược của cách mạng xã hội chủ nghĩa.
SVTH: Phan Thị Bích Huệ
Page 9
Bài tiểu luận
GVHD: Nguyễn Văn Hùng
Giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc, thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc sẽ tạ
ên sức mạnh to lớn, bảo đảm cho sự thắng lợi của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
II.
Thực trạng của vấn đề dân tộc ở Việt Nam và chính sách dân tộc của Đảng
và nhà nước trong giai đoạn hiện nay.
1. Đặc điểm của dân tộc Việt Nam
Xuất phát từ đặc thù riêng đó là chống thiên tai và chống giặc ngoại xâm, các cộng
đồng người ở Việt Nam đã tự nguyện cố kết nhau lại, trở thành truyền thống đoàn
kết, gắn bó từ lâu. Sự cố kết đó đã hình thành những đặc điểm riêng của dân tộc Việt
Nam.
a. Dân tộc Việt Nam là đại gia đình 54 dân tộc anh em.
Việt Nam là một quốc gia thống nhất gồm 54 dân tộc anh em. Dân tộc Kinh
chiếm 87% dân số, 53 dân tộc còn lại chiếm 13% dân số, phân bố rãi rác trên địa
phận cả nước. Trong đó:
- Có 10 dân tộc có dân số từ 100 ngàn đến dưới 1 triệu người đó là: Tầy, Nùng,
Thái, Mường, Khơ me, Mông, Dao, Gia rai, Bana, Ê đê.
- Có 20 dân tộc có dân số dưới 100 ngàn người.
- Có 16 dân tộc có dân số từ 1 ngàn đến dưới 10 ngàn người.
- Có 6 dân tộc có dân số dưới 1 ngàn người: Cống, Sila, Pu Péo, Rơ Măm, Ơ Đu,
Brâu.
b. Các dân tộc trên đất nước ta có truyền thống đoàn kết trong đấu tranh dựng
nước và giữ nước, xây dựng một cộng đồng dân tộc thống nhất.
Đây là đặc trưng nổi bật trong quan hệ giữa các dân tộc ở nước ta. Trong cộng
đồng dân tộc Việt Nam nhiều đân tộc có chung cội nguồn, cũng có dân tộc khác
nhau về nguồn gốc lịch sử như: La Hủ, Lô Lô, Vân Kiều, Sán Dùi… Song dù cùng
hay không cùng một nguồn gốc sinh ra, có sự khác nhau về tâm lí, phong tục, tập
quán…thì đều là người trong một nước, con trong một nhà, vận mệnh gắn chặt với
nhau, các dân tộc nước ta luôn kề vai sát cánh bên nhau, yêu thương đùm bọc lẫn
nhau.
Là một nền nông nghiệp lúa nước, nằm ở khu vực địa lý có nhiều thuận lợi song
điều kiện tự nhiên cũng rất khắc nghiệt, hằng năm thường bị lũ lụt, hạn hán, vì thế
cư dân phải gắn kết lại, hợp sức để khai phá đất hoang, chống thú dữ, xây dựng các
SVTH: Phan Thị Bích Huệ
Page 10
Bài tiểu luận
GVHD: Nguyễn Văn Hùng
hệ thống thủy lợi, đê điều nhằm bảo đảm cho sự phát triển sản xuất. Trải qua nhiều
thế kỉ dựng nước và giữ nước, sư gắn bó trong lao động sản xuất của đồng bào các
dân tộc đã được coi như một tiêu chuẩn đạo đức.
Bên cạnh đó, nhân dân ta còn có lịch sử chống giặc ngoại xâm vô cùng oanh liệt.
Đặc điểm nổi bật của lịch sử Việt Nam là lịch sử chống giặc ngoại xâm liên tục và
nhiều lần, trong đó có nhiều cuộc đấu tranh chống lại những thế lực thù địch hùng
mạnh, hung bạo nhất thế giới. Chính vì vậy mà cộng đồng các dân tộc Việt Nam
luôn sát cánh bên nhau, liên tục đúng lên chống giặc, đánh thắng quân xâm lược.
Chính nhờ truyền thống đoàn kết đó mà đất nước ta đã đạt được những thành tựu
rất to lớn và đáng tự hào, từ đó thấy được khối đại đoàn kết dân tộc ở nước ta đã có
tầm cao mới và chiều sâu mới, là động lực to lớn thúc đẩy sự phát triển đất nước làm
cho thế và lực của cách mạng nước ta ngày càng tăng cường.
Tuy nhiên, bên cạnh sự đoàn kết là căn bản, có nơi vẫn xảy ra những va chạm
trong mối quan hệ dân tộc. Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch lại luôn luôn
dùng thủ đoạn chia rẽ dân tộc và can thiệt vào nội bộ nước ta. Dó đó, việc tăng
cường đoàn kết, nâng cao cảnh giác, kịp thời đập tan mọi âm mưu và hành động chia
rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc là nhiệm vụ của mỗi người dân Việt Nam.
c. Các dân tộc Việt Nam cư trú phân tán và xen kẽ nhau.
Ở một số vùng nhất định có dân tộc cư trú tương đối tập trung. Song nhìn chung
các dân tộc nước ta sống xen kẽ nhau, không có lãnh thổ riêng biệt như một số nước
trên thế giới. Địa bàn cư trú của người Kinh chủ yếu ở đồng bằng, ven biển và trung
du. Còn các dân tộc ít người cư trú chủ yếu ở các vùng miền núi và vùng cao. Các
dân tộc thiểu số có sự tập trung ở một số vùng, xen kẽ với các dân tộc khác. Ở miền
núi hầu như không có tỉnh huyện nào chỉ có một dân tộc cư trú. Nhiều tỉnh có tới 20
dân tộc cư trú như: Lai Châu, Lào Cai… Phần lớn các huyện có từ 5 dân tộc trở lên
cư trú.
Tình trạng cư trú phân tán, xen kẽ nhau giữa các dân tộc ở nước ta, một mặt có
điều kiện để tăng cường hiểu biết nhau, hòa hợp và xích lại gần nhau, mặt khác cần
đề phòng trường hợp do chưa hiểu nhau, khác nhau về phong tục tập quán nên xuất
hiện mâu thuẫn, tranh chấp. Ngày nay, tình trạng cư trú xen kẽ của các dân tộc chủ
yếu dẫn tới sự giao lưu kinh tế, văn hóa giữa các dân tộc cũng như sự hỗ trợ giúp đỡ
nhau, từ đó có thêm điều kiện đoàn kết và hòa hợp giữa các dân tộc anh em.
d. Các dân tộc ít người ở nước ta chủ yếu cư trú trên các vùng rừng núi, có vị trí
quan trọng về kinh tế, chính trị, an ninh, quốc phòng, môi trường sinh thái.
SVTH: Phan Thị Bích Huệ
Page 11
Bài tiểu luận
GVHD: Nguyễn Văn Hùng
Phần lớn các dân tộc ít người ở nước ta cư trú ở miền núi, chiếm ¾ diện tịch cả
nước. Đây là khu vực có tiềm năng phát triển kinh tế, ngoài ra còn có vai trò đặc biệt
quan trọng về môi trường sinh thái đối với cả nước như điều hòa khí hậu, điều tiết
nguồn nước, bảo vệ lớp đất màu trong mùa mưa lũ.
Rừng núi đã từng là căn cứ địa cách mạng trong kháng chiến chống Thực dân
Pháp, Đế quốc Mỹ, các thế lực thù địch ngoài đều sử đựng địa bàn miền núi để xâm
lược, phá hoại đất nước ta. Vì vậy, hiện nay miền núi_biên giới là thành lũy vững
chắc của tổ quốc, là địa bàn chiến lược về quốc phòng, an ninh tỏng việc bảo vệ
vững chắc chủ quyền quốc gia.
Ở vùng biên giới, một số dân tộc có quan hệ đồng tộc với dân tộc các nước láng
giềng, nên quan khách có nhu cầu thăm thân, mở rộng giao lưu kinh tế, văn hóa giữa
các dân tộc hai bên biên giới. Bởi vậy, chính sách dân tộc của Đảng và nhà nước ta
là vì lợi ích của cả nước, không chỉ về kinh tế - xã hội, mà cả về chính trị, quốc
phòng, an ninh quốc gia.
e. Các dân tộc ở Việt Nam có trình độ kinh tế - xã hội không đồng đều.
Do những nguyên nhân lịch sử, xã hội và hoàn cảnh tự nhiên nên các dân tộc
Việt Nam có trình độ phát triển kinh tế không đồng đều. Các dân tộc sống ở vùng
thấp có trình độ phát triển kinh tế - xã hội cao hơn các dân tộc ít người sống ở vùng
sâu, vùng xa, vùng cao. Nhiều vùng dân tộc thiểu số canh tác còn ở trình độ thấp,
chủ yếu dựa vào khai thác tự nhiên. Đời sống vật chất của người dân dân tộc thiểu số
còn thiếu thốn, trình trạng nghèo kéo dài, thuốc chữa bệnh khan hiếm, nạn mù chữ
còn ở nhiều nơi. Đường giao thông và phương tiện đi lại nhiều vùng rất khó khăn,
điện nước phục vụ cho sản xuất đời sống nhiều vùng còn rất thiếu, thông tin, bưu
biện nhiều nơi chưa đáp ứng yêu cầu của đời sống, nhất là vùng cao vùng xa xôi hẻo
lánh.
Bên cạnh đó còn có nguyên nhân chủ yếu là do hậu quả của sự áp bức, bóc lột
của chế độ thực dân, phong kiến và đất nước phải liên tục đối phó với chiến tranh
xâm lược trong nhiều năm. Đây là nguồn gốc của sự không bình đẳng của các dân
tộc trong thực tế. Giải quyết hậu quả lịch sử này phải có quá trình phấn đấu tích cự,
bền bỉ, lâu dài mới làm cho các dân tộc từng bước tiến kịp trình độ chung.
f. Nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất trong đa dạng, mỗi dân tộc
anh em có giá trị và sắc thái văn hóa riêng.
Cùng với nền văn hóa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, mỗi dân tộc đều có
nền văn hóa mang bản sắc riêng từ lâu dài, phản ánh truyền thống, lịch sử và niềm tự
hào dân tộc. Đặc trưng của sắc thái văn hóa dân tộc bao gồm ngôn ngữ, văn hóa,
SVTH: Phan Thị Bích Huệ
Page 12
Bài tiểu luận
GVHD: Nguyễn Văn Hùng
nghệ thuật, phong tục, tập quán,… được sáng tạo trong quá trình phát triển lâu dài
của lịch sử. Sự phát triển rực rỡ bản sắc văn hóa mỗi dân tộc cũng làm phong phú
nền văn hóa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Thống nhất trong đa dạng và nét
riêng, độc đáo của nền văn hóa các dân tộc Việt Nam.
Xuất phát từ tình hình đặc điểm của dân tộc Việt Nam, Đảng và nhà nước ta luôn
luôn quan tâm đến vấn đề chính sách dân tộc xem xét nó như là vấn đề xã hôi –
chính trị rộng lớn, toàn diện gắn liền với các mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội, và
bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
2. Thực trạng của vấn đề dân tộc ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Từ khi Đảng cộng sản Việt Nam ra đời, đến nay Đảng ta luôn luôn đánh giá đúng
đắn vị trí chiến lược của vấn đề dân tộc, kế thừa và phát huy truyền thống sức mạnh
khối đại đoàn kết dân tộc. Vì vậy, Đảng đã có những chính sách dân tộc phù hợp cho
từng thời kì cách mạng ở Việt Nam.
Tầm quan trọng, vị trí của vấn đề dân tộc, trước hết xuất phát từ tầm quan trọng,
vị trí của các tộc người thiểu số - với tư cách là một bộ phận quan trọng hợp thành
động lực cách mạng để thực hiện nhiệm vụ, mục tiêu của cách mạng đặt ra cho từng
thời kì.
Hầu hết các kì Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam đặc biệt các văn kiện Đảng trong
thời kì đổi mới đã đề cao, coi trọng vị trí chiến lược của vấn đề dân tộc. Trong văn
kiện Đại hội VI, Đảng ta đã khẳng định: “Sự phát triển về mọi mặt của từng dân tộc
đi liền với sự củng cố, phát triển của cộng đồng các dân tộc trên đất nước ta.Sự tăng
cường tính cộng đồng, tính thống nhất là một quá trình hợp qui luật, nhưng tính cộng
đồng, tính thống nhất ấy không mâu thuẫn, không bài trừ tính đa dạng, tính độc đáo
trong bản sắc của mỗi dân tộc”.
Văn kiên Đại hội VIII của Đảng cũng chỉ rõ: “ vấn đề có vị trí chiến lược. Thục
hiện bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc trong sự nghiệp đổi mới công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Vị trí, tầm quan trọng có ý nghĩa chiến lược của
vấn đề dân tộc đặc biệt được chú ý coi trọng những năm gần đây, khi đời sống chính
trị - xã hội diễn biến phức tạp, liên quan trực tiếp đến các xung đột dân tộc, xung
đột tôn giáo, can thiệp lật đỗ khủng bố.
Tầm quan trọng, vị trí chiến lược của vấn đề dân tộc được đặt trong mối quan hệ
với việc phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đảng ta đã sớm xác định xây dựng khối đại đoàn kết
dân tộc là một nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam. Khối đại đoàn kết của
dân tộc của nước ta hiện nay như sau:
SVTH: Phan Thị Bích Huệ
Page 13
Bài tiểu luận
GVHD: Nguyễn Văn Hùng
- Phương hướng: “Đoàn kết bình đẳng, giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc, cùng
xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc, đồng thời giữ gìn và phát huy bản sắc tốt
đẹp của dân tộc là chính sách nhất quán của Đảng và nhà nước ta”.
- Chủ trương cụ thể:
Có chính sách phát triển kinh tế hàng hóa ở các vùng dân tộc thiểu số phù hợp
với điều kiện và đặc điểm từng vùng, từng dân tộc, bảo đảm cho đồng bào các
dân tộc khai thác được thế mạnh của địa phương để làm giàu cho mình và đóng
góp vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.
Tôn trọng lợi ích, truyền thống, văn hóa, ngôn ngữ, tập quán tín ngưỡng của
đồng bào các dân tộc.
Tiếp tục phát huy truyền thống đoàn kết và đấu tranh kiên cường của các dân
tộc vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh,
chống tư tưởng dân tộc lớn và dân tộc hẹp hòi, nghiêm cấm các hành vi miệt thị
và chia rẽ dân tộc.
Tăng cường bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số.
Trong thư gởi cho Đại hội đại biểu các dân tộc miền Nam, Bác viết: “Dân tộc Việt
Nam là một, đất nước Việt Nam là một, sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân
lí đó không bao giờ thay đổi”, “Đồng bào Kinh hay Tày, Mường hay Dao, Gia Rai
hay Ê Đê, Xê Đăng hay Ba Na và các dân tộc thiểu số khác đều là con cháu Việt
Nam, đề là anh em ruột thịt, chúng ta sống có nhau, sướng khổ cùng nhau, no đói
giúp nhau”, không kẻ thù nào có thể chia rẽ, phá hoại được khối đại đoàn kết mà ta
đã xây dựng nên.
Vì vậy, Đảng ta quan điểm rằng: “Vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc là vấn đề
chiến lược cơ bản, lâu dài, đồng thời cũng là vấn đề cấp bách hiện nay của cách
mạng Việt Nam”.
Trong những năm gần đây, bên cạnh những thành quả đạt được trong công tác dân
tộc, hàng loạt vấn đề liên quan đến quan hệ dân tộc được đặt ra: kinh tế ở miền núi
và các vùng dân tộc còn chậm phát triển, tập quan canh tác còn lạc hậu, chất lượng,
hiểu quả giáo dục còn thấp, một số tập quán lạc hậu, mê tín dị đoan có xu hướng
phát triển…nếu không có những biện pháp hữu hiệu thì sẽ không có lợi cho sự phát
triển bền vững của đất nước.
Trong điều kiện hiện nay, vấn đề dân tộc ở nước ta đòi hỏi phải được xem xét và
giải quyết theo nhiều phương diện, đối nội và đối ngoại. Bởi vậy, một mặt bản thân
quan hệ dân tộc, di điều kiện lịch sử, kinh tế, văn hóa, xã hội đã rất phức tạp, mặt
SVTH: Phan Thị Bích Huệ
Page 14
Bài tiểu luận
GVHD: Nguyễn Văn Hùng
khác, do vấn đề dân tộc, quan hệ dân tộc là vấn đề nhạy cảm liên quan đến tâm lí,
tình cảm của dân tộc, ý thức tự giác dân tộc, cho nên các thế lực thù địch luôn luôn
lợi dụng những khó khăn về đời sống của đồng bào các dân tộc thiểu số, lợi dụng,
khai thác những hạn chế, yếu kém của chúng ta trong thực hiện chính sách dân tộc
để kích động phá hoại khối đại đoàn kết các dân tộc, gây mất ổn định chính trị, thực
hiện “Diễn biến hòa bình”. Điển hình là cuộc xung đột dân tộc Tây Nguyên ở miên
Trung Việt Nam và tháng 2/2001, là sự kiện gây náo động trong dư luận quốc tế.
Đây là cuộc xuống đường phản đối của dân tộc Tây Nguyên đòi trả tự do cho hai tín
đồ Tin Lành người Giarai, đó là ông Rahlan Pon và Rahlan huyện Chư Prong, với
tội “kích động gây chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc” vì truyền bá giáo lí Tin Lành
bằng thổ ngữ qua đài Chân Trời Mới phát thanh từ Philippines, một đài mà chính
quyền cộng sản tìm cách phá sóng mà không được. Vì sao dân tộc Tây Nguyên theo
đạo Tin Lành? Vì họ tìm được sự an ủi tâm hồn trong đời sống còn khó khăn, còn
thực tế là họ muốn nâng cao mức sống và muốn được giúp đỡ vật chất như những
mục sư Tin Lanh Mỹ trước năm 1975 đã từng làm, vì theo đạo này só phận của họ sẽ
không bị lãng quên.
Thực chất, việc xuống đường của dân tộc Tây Nguyên đòi trả tự do cho hai tín đồ
Tin Lành chỉ là cái cớ, nguyên nhân cụ thể là đời sống của người dân Tây Nguyên
đang trong tình trạng xuống cấp, nếu không muốn nói là đang trên bờ vực tuyệt
vọng. Bên cạnh về đời sống vật chất quá thiếu thốn thì điều mà người gốc Tây
Nguyên không được đó là sự khinh miệt của người Kinh. Ngoài ra, nước ta còn có
những cuộc xung đột dân tộc ở Tây Bắc, Nam Bộ…
Qua sự việc trên, Đảng và nhà nước ta cần phải đẩy mạnh thực hiện nhiệm vụ xóa
bỏ khoảng cách, chênh lệch trong phát triển và hưởng thụ thành quả về kinh tế, văn
hóa giữa các dân tộc. Muốn thực hiện nhiệm vụ này, cần chú trọng phát triển nâng
cao sức sản xuất, thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước chính là tạo tiền đề cơ sở vật chất vững chắc cho việc giải quyết vấn đề dân tộc
tiến tới thực hiện tốt sự bình đẳng, tiến bộ và phát triển. Mặc khác, phấn đấu thực
hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội lần XI của Đảng, cần xây dựng, sửa đổi, bổ sung
và hoàn thiện các chính sách và các chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội
vùng dân tộc thiểu số, miền núi cho phù hợp với thời kì mới. Đó cũng chính là việc
làm thiết thực để cũng cố niềm tin của các dân tộc thiểu số đối với Đảng, nhà nước,
Mặt trận Tổ quốc và là nhân tố quan trọng để củng cố, nâng cao sức mạnh khối đại
đoàn kết dân tộc.
3. Chính sách dân tộc của Đảng và nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Căn cứ lí luận và thực tiễn giải quyết vấn đề dân tộc của Việt Nam, căn cứ vào
Cương lĩnh dân tộc của Lê Nin, Đảng và nhà nước ta luôn luôn coi vấn đề dân tộc và
SVTH: Phan Thị Bích Huệ
Page 15
Bài tiểu luận
GVHD: Nguyễn Văn Hùng
xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc có tầm quan trọng đặc biệt. Cương lĩnh
chính trị tháng 10/1930 xác định vấn đề dân tộc là một bộ phận cách mạng Việt
Nam, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Hồ Chí Minh có tư tưởng về vấn đề dân tộc rất độc đáo. Người khẳng định: “ Nước
Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là đồng bào các dân tộc đều là anh em một nhà.
Đoàn kết dân tộc là cốt lõi của chủ nghĩa yêu nước, đoàn kết nhân dân dân tộc Việt
Nam với nhân dân các dân tộc khác trên thế giới.
Trong xây dựng chủ nghĩa xã hội V, VI, VII, VIII, IX, X đều khẳng định vai trò
đoàn kết dân tộc, chính sách dân tộc. Về thực tiễn, Đảng ta dựa vào việc tổng kết
kinh nghiệm của việc thực hiện chính sách dân tộc. Trong văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ X, Đảng đã nêu rõ: “Vấn đề dân tộc và đoàn kết các dân tộc có vị
trí chiến lược lâu dài trong sự nghiệp cách mạng của nước ta. Các dân tộc trong đại
gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cũng tiến bộ, cùng
nhau thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây
dựng và bảo về Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Phát triển kinh tế chăm lo đời
sống vật chất và tinh thần, xóa đói giảm nghèo, nâng cao dân trí, giữ gìn và phát huy
bản sắc văn hóa, tiếng nói, chữ viết và truyền thống tốt đẹp của các dân tộc. Thực
hiện tốt chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng
biên giới, vùng căn cứ cách mạng; làm tốt công tác định canh định cư và xây dựng
vùng kinh tế mới. Qui hoạch, phân bổ, sắp xếp lại dân cư, gắn phát triển kinh tế với
đảm bảo an ninh quốc phòng. Củng cố và nâng cao hệ thống chính trị ở cơ sở vùng
đồng bào dân tộc thiểu số, đoàn viên, phát huy vai trò của những tiêu biểu trong các
dân tộc. Thực hiện chính sách ưu tiên trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, tri thức là
người dân tộc thiểu số. Cán bộ công tác ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi phải
gần gũi, hiều phong tục tập quán, tiếng nói của đồng bào dân tộc, làm tốt công tác
dân vận. chống các biểu hiện kì thị, hẹp hòi, chia rẽ dân tộc”
Những chính sách dân tộc cơ bản của nhà nước ta được biểu hiện cụ thể như sau:
- Có chính sách phát triển kinh tế hàng hóa ở các vùng thiểu số phù hợp với điều
kiện và đặc điểm từng vùng, từng dân tộc, đảm bảo cho các đồng bào dân tộc
khai thác được thế mạnh của địa phương để làm giàu cho mình và đóng góp cho
sự xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
- Tôn trọng lợi ích, truyền thống, văn hóa, ngôn ngữ, tập quán tín ngưỡng của đồng
bào các dân tộc; từng bước nâng cao dân trí đồng bào các dân tộc, nhất là các dân
tộc thiểu số ơ vùng núi cao, hải đảo.
SVTH: Phan Thị Bích Huệ
Page 16
Bài tiểu luận
GVHD: Nguyễn Văn Hùng
- Tiếp tục phát huy truyền thống đoàn kết và đấu tranh kiên cường của các dân tộc
vì sự nghiệp dân giàu nước mạnh, chống tư tưởng dân tộc lớn và dân tộc hẹp hòi,
nghiêm cấm mọi hành vi miệt thị và chia rẽ dân tộc.
- Tăng cường bồi dưỡng và đào tạo đội ngủ cán bộ là dân tộc thiểu số, đồng thời
giáo dục tinh thần đoàn kết hợp tác cho cán bộ các dân tộc.
Trong những năm qua, Đảng và nhà nước ta đã đưa ra nhiều chương trình mục tiêu
quốc gia nhằm bảo đảm chính sách dân tộc như: các chương trình trồng rừng 327,
PAM, các chương trình xóa đói giảm nghèo, hỗ trợ các xã đặc biệt khó khăn;
chương trình 135, chương trình xóa mù chữ phổ cập tiểu học… Nhờ có những chính
sách đúng đắn nên sau 8 năm thực hiện Nghị quyết số 24NQ/TW ‘về công tác dân
tộc’ trong hội nghị lần thứ 7 ban chấp hành Trung ưng Đảng (khóa IX) các vùng dân
tộc ở nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng:
- Kết cấu hạ tầng khu vực miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số bước đầu đáp
ứng yêu cầu phát triển sản xuất và phục vụ đời sống.
- Đường giao thông, mạng lưới điện quốc gia, công trình thủy lợi được đầu tư rộng
khắp
- Cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực, tỉ trọng công nghiệp, dịch vụ tăng.
- Công tác giáo dục tiếp tục được đẩy mạnh, tỉ lệ trẻ em trong độ tuổi đến trường
đạt 90% - 95%, hầu hết các xã miền núi có trường học; các vùng đều có trường
đại học, đại học dự bị cho các em dân tộc thiểu số.
- Cơ sở vật chất, thiết bị y tế được tăng cường, người nghèo được cấp bảo hiểm y
tế, khám chữa bệnh miễn phí 100%, các huyện đã có trung tâm y tế, các xã đã có
các trạm y tế và cán bộ y tế cơ sở, tỉ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng đã giảm
xuống 25%
- Đời sống văn hóa của đồng bào được nâng lên rõ rệt, các thiết chế văn hóa ở cơ
sở được quan tâm xây dựng.
- Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở vùng miền núi, biên giới cơ
bản ổn định…
Như vậy, chính sách dân tộc của Đảng và nhà nước mang tính toàn diện, tổng hợp,
quán xuyến tất cả lĩnh vực của đời sống xã hội, liên quan đến mỗi dân tộc và quan hệ
giữa các dân tộc trong cộng đồng quốc gia. Phát triển kinh tế xã hội của các dân tộc
là nền tảng để tăng cường đoàn kết và thực hiện quyền bình đẳng dân tộc, là cơ sở để
từng bước khắc phục sự chênh lệch về trình độ phát triển của các dân tộc. Do đó,
SVTH: Phan Thị Bích Huệ
Page 17
Bài tiểu luận
GVHD: Nguyễn Văn Hùng
chính sách dân tộc vừa mang tính cách mạng và tiến bộ, đồng thời còn mang tính
nhân đạo. Tuy nhiên, do điều kiên sống phân tán ở những vùng sâu vùng xa, do
phong tục tập quán, trình độ phát triển của một số dân tộc còn nhiều hạn chế. Bên
cạnh đó, ở nước ta hiện nay có một số chính sách dân tộc trong quá trình khai thác
còn bộc lộ nhiều hạn chế trong mối quan hệ tổng thế giữa cơ chế chính sách và biện
pháp rút ngắn một cách có hiệu quả cho sự phát triển các dân tộc thiểu số so với mặt
bằng chung của quốc gia. Vì vậy thực hiện nhất quán quan điểm của Đảng về đại
đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài và cũng là cấp bách của cách
mạng Việt Nam. Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết,
tương trợ lẫn nhau cùng phát triển, phấn đấu thực hiện thắng lợi sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa, kiên quyết đâu tranh với mọi âm mưu chia rẽ dân tộc, củng cố và nâng cao
sức mạnh khối đại đoàn kết dân tộc.
C. Kết luận chung
Vấn đề dân tộc và xây dựng chính sách dân tộc là những vấn đề có tính lý luận và
thực tiễn bức xúc hiện nay ở nước ta. Phân tích quá trình phát triển nhận thức, lý
luận của Đảng ta về vấn đề dân tộc và kinh tế dân tộc trong thời kỳ đổi mới khẳng
định vị trí có ý nghĩa chiến lược vừa cơ bản, lâu dài, vừa cấp bách của công tác dân
tộc hiện nay. Mặc khác, giúp chúng ta có quan điểm toàn diện, lịch sử cụ thể khi
nghiên cứu, tổng kết quá trình thực hiện chính sách dân tộc ở Việt Nam qua từng
thời kì cách mạng.
D. Tài liệu tham khảo
- Giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa học
- Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mac-Lenin
- Đảng cộng sản Việt Nam: văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, VII,
VIII, IX, X, XI
- Báo điện tử http//:www.nhandan.com.vn lấy ngày 20/4/2011.
- Báo điện tử trang ủy ban dân tộc.
- Báo điện tử http//:www.langson.com.vn ngày 19/11/2009.
- http:// cema.gov.vn/modules.php?
mod=3115lname=contenfop=details#ixzz1mbv4wikt.
SVTH: Phan Thị Bích Huệ
Page 18
Bài tiểu luận
GVHD: Nguyễn Văn Hùng
- http:// cema.gov.vn/modules.php?
mod=3115lname=contenfop=details&mid=5595#ixzz1mclgclb
- http:// cema.gov.vn/modules.php?mod=3115lname=contenfop=details&mid
=12967#ixzz1mcctv01g.
SVTH: Phan Thị Bích Huệ
Page 19
- Xem thêm -