Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Đặc điểm tiểu thuyết nguyễn đình lạp...

Tài liệu Đặc điểm tiểu thuyết nguyễn đình lạp

.PDF
68
8477
14

Mô tả:

Đặc điểm tiểu thuyết Nguyễn Đình Lạp PHẦN MỞ ĐẦU ---X W--1. Lí do chọn đề tài: Trong tiến trình phát triển của văn xuôi hiện đại Việt Nam, giai đoạn 1930-1945 là giai đoạn phát triển rực rỡ và đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Có thể nói đây là giai đoạn nở rộ của những tài năng văn học và đã để lại cho văn đàn Việt Nam những cây bút sáng giá như Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Nam Cao… Bên cạnh những gương mặt tiêu biểu ấy, chắc ít ai quan tâm đến sự đóng góp của những nhà văn mà tên tuổi chưa sáng ngời trên trang viết. Trong đó có Nguyễn Đình Lạp - “một cây bút lặng lẽ và kiên nhẫn” (Hoài Anh,2001:845). Có mặt ở giai đoạn cuối của trào lưu văn học hiện thực phê phán 1930 - 1945, cùng thời với nhà văn hiện thực xuất sắc Nam Cao - người đã kết thúc vẻ vang trào lưu văn học hiện thực phê phán nhưng so với Nam Cao, Nguyễn Đình Lạp ít được chú ý hơn nhiều. Vị trí của Nguyễn Đình Lạp trên văn đàn chưa được khẳng định như Nam Cao.Với số lượng sáng tác ít ỏi, Nguyễn Đình Lạp được chú ý đến ở hai thể loại: phóng sự và tiểu thuyết. Với hai thể loại này, ông đã có những đóng góp nhất định cho nền văn học dân tộc nói chung và cho văn xuôi hiện đại Việt Nam nói riêng. Ra đi khi tuổi đời còn rất trẻ, chưa đầy 39 tuổi, Nguyễn Đình Lạp “chưa kịp viết hết những điều ông ấp ủ” (Bạch Liên,2003:29). Phương châm mà ông theo đuổi suốt đời đó là “lặng lẽ và kiên nhẫn, kiên nhẫn viết rồi lặng lẽ ra đi” (Hoài Anh,2001;854) thế nhưng “cái công phu kiên nhẫn của ông chỉ được đền đáp bằng sự lặng lẽ của văn đàn” (Hoài Anh,2002:845). Biết bao công trình nghiên cứu, phê bình về trào lưu văn học hiện thực phê phán 1930 - 1945 chỉ tập trung vào những cây bút tên tuổi chứ không mấy người quan tâm đến một gương mặt âm thầm nơi góc khuất của làng văn như ông. Đặc biệt là đối với hai tiểu thuyết đầu tay và cũng là hai tiểu thuyết duy nhất trong đời văn của Nguyễn Đình Lạp: “Ngoại ô” và “Ngõ hẻm”. Nếu có chăng chỉ là những bài phê bình rời rạc trên các tạp chí nhận xét về một vài khía cạnh trong tác phẩm. Sự lặng lẽ của văn đàn đã khiến cho vợ của nhà văn đã tự cất công sưu tầm và tập hợp lại những sáng tác của chồng đem công bố với hi vọng những sáng tác ấy “được phổ biến rộng rãi trong công chúng” (Lê Thị Đức Hạnh,2002:21), người đọc sẽ nhìn nhận, đánh giá đúng mực những đóng góp của người chồng quá cố. Với luận văn này, chúng tôi hi vọng sẽ có một cái nhìn toàn diện hơn về đặc điểm tiểu thuyết của Nguyễn Đình Lạp trước cách mạng tháng tám. Qua đó, chúng tôi muốn khẳng định lại những đóng góp của một nhà văn đã cống hiến cả cuộc đời cho nghệ thuật và cho sự nghiệp cách mạng của đất nước. Chúng tôi hi vọng, đây là một cách đáp lại tấm lòng của bà Bạch Liên - một người đã hi sinh cả cuộc đời để “làm vợ một nhà văn” (Bạch Liên, 2003:879). Cuối cùng khi thực hiện đề tài này, khoá luận sẽ giúp chúng tôi mở rộng thêm kiến thức giúp ích cho công tác giảng dạy sau này. SVTH: Nguyễn Thị Xuân Mai 1 Đặc điểm tiểu thuyết Nguyễn Đình Lạp 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề: Lớn lên “giữa cái xã hội đầy rẫy những “cạm bẫy người, những ổ lưu manh, “thanh niên truỵ lạc” (Lê Thị Đức Hạnh,2002:20), cha mẹ lại mất sớm, ấy thế mà Nguyễn Đình Lạp lại xác định cho mình một con đường đi mà những thanh niên thời ấy chưa dễ gì xác định được: đi theo con đường văn chương và sau này là con đường cách mạng. Có thể vững bước đi trên con đường ấy trước hết là nhờ năng lực của bản thân Nguyễn Đình Lạp một người có tư chất thông minh, ham học hỏi, thích đọc sách báo nên ông đã tích luỹ cho mình một vốn sống phong phú và vốn kiến thức văn chương sâu rộng. Bên cạnh đó, Nguyễn Đình Lạp được sinh ra trong một gia đình có truyền thống yêu nước và cách mạng, lớn lên dưới sự dạy bảo kèm cặp của chú ruột là Nguyễn Phong Sắc - một cán bộ lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Đông Dương. Điều đó khiến chúng ta dễ hiểu quá trình “lột xác” nhanh chóng của Nguyễn Đình Lạp ngay khi biết đến văn hóa cứu quốc qua bạn bè những năm tiền khởi nghĩa tháng tám. Sống trên mảnh đất thị thành đầy những ung nhọt, Nguyễn Đình Lạp cũng nối gót Vũ Trọng Phụng để ghi lại một cách chân thực cái xã hội ấy qua những thiên phóng sự điều tra đăng báo. Và Nguyễn Đình Lạp đã được nhiều người chú ý đến ở một số phóng sự dài như: Chợ phiên đi tới đâu (1937), Thanh niên truỵ lạc (1937), Cường hào (1938). Tên tuổi của ông càng được chú ý hơn khi hai tiểu thuyết đầu tay được xuất bản: “Ngoại ô” - 1941 và “Ngõ hẻm” - 1943. “Từ một cây bút nhiều năm viết phóng sự chuyển sang viết tiểu thuyết” (Lê Thị Đức Hạnh,2002:25) nên tiểu thuyết của Nguyễn Đình Lạp cũng “ngồn ngộn chất phóng sự”, chất phóng sự thể hiện trước hết ở “tính đương thời và không gian xác định trong thiên tự sự”(Nguyễn Ngọc Thiện,1995:34). Chính “cái không gian xác định” trong tiểu thuyết của Nguyễn Đình Lạp đã làm cho Vũ Quần Phương cảm thấy “đọc Ngoại ô đã như đọc khảo cổ nếu chỉ nhìn vào địa hình địa vật” (Vũ Quần Phương,2003:860). Và nói về “tính đương thời” của tác phẩm, ông cho rằng “nhiều chuyện đời trong không gian khảo cổ lại đang là thời sự” (Vũ Quần Phương,2003:860-861). Có lẽ chính vì thế mà tác giả đã tự gọi hai tiểu thuyết của mình là “phóng sự tiểu thuyết”. Trong Tổng tập Văn Học Việt Nam - tập 33 – Nhà xuất bản khoa học xã hội Hà Nội – 2003 khi tóm lược và trích một phần của hai tiểu thuyết này, tác giả cũng đã ghi ngay dưới nhan đề “Ngoại ô”, “Ngõ hẻm” là “tiểu thuyết phóng sự - trích”. Thế nhưng, khi đưa Nguyễn Đình Lạp vào hàng “nhà văn hiện đại”, Vũ Ngọc Phan đã “không ngần ngại xếp Nguyễn Đình Lạp vào hàng những nhà tiểu thuyết tả chân” (Nguyễn Ngọc Thiện,1995:34) và ông không đồng ý khi tác giả gọi tác phẩm của mình là “phóng sự tiểu thuyết”. Ông cho rằng “Ngoại ô chỉ là một tập tiểu thuyết tả thực, một tập tiểu thuyết tả chân vì nó có rất nhiều tưởng tượng” (Vũ Ngọc Phan,1989:404). Căn cứ vào đó, Vũ Ngọc Phan đã xếp “Ngoại ô” vào loại “tiểu thuyết tả chân có một ít khuynh hướng xã hội” (Vũ Ngọc Phan,1989:403). Cùng với ý kiến của Vũ Ngọc phan, tác giả Nguyễn Ngọc Thiện cho cách xếp loại của Vũ Ngọc Phan như vậy là thoả đáng và Nguyễn Ngọc Thiện cũng chỉ ra “đặc sắc của bút pháp tự sự của tác giả là phương diện tả chân, tả thực“có một ít về khuynh hướng xã hội” (Nguyễn Ngọc Thiện,1995:34). Đồng quan điểm với hai ý kiến trên, tác giả Nguyễn Hoành Khung khi viết về “Ngoại ô” trong Từ điển văn học (bộ mới) đã nhận định “Ngoại ô không có tính chất phóng sự mà là tiểu thuyết với nhiều hư cấu” (Nguyễn Hoành Khung,2004:1063) Điểm qua một vài ý kiến về việc xác định thể loại đối với tiểu thuyết đầu tay của Nguyễn Đình Lạp như trên để thấy được rằng sự ra đời của hai tiểu thuyết ấy cũng thu hút SVTH: Nguyễn Thị Xuân Mai 2 Đặc điểm tiểu thuyết Nguyễn Đình Lạp được sự chú ý của người đọc cũng như giới phê bình nghiên cứu nhưng không nhiều và tập trung là giai đoạn gần đây. Còn trước kia, như PGSTS Lê Thị Đức Hạnh đã nói: “So với một số nhà văn hiện thực khác, Nguyễn Đình Lạp còn chưa được chú ý đúng mức…đó không chỉ là một thiệt thòi cho nhà văn mà phần nào làm cho bức tranh văn học sử nước nhà bị những nét mờ không đáng có” (Lê Thị Đức Hạnh,2002:25). Tuy nhiên, qua quá trình nghiên cứu, tìm hiểu đề tài này, chúng tôi cũng tập hợp được một số ý kiến đánh giá của các nhà nghiên cứu phê bình cụ thể ở các phương diện sau: 2.1. Những nhận xét về giá trị nội dung của tiểu thuyết: “Ngoại ô”, “Ngõ hẻm” ra mắt người đọc vào những năm cuối của trào lưu văn học hiện thực phê phán - giai đoạn 1940 - 1945 - “khi mà không khí văn đàn không còn được sôi nổi, nhộn nhịp như thời kì trước (1936 - 1939) nên ít được phê bình, giới thiệu… làm cho tác phẩm bị giảm tiếng vang” (Lê Thị Đức Hạnh,2002:26). Nguyễn Đình Lạp xuất hiện khi trên văn đàn đã có những cây đa, cây đề của lĩnh vực tiểu thuyết như: Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Nam Cao… Trong tâm thế của một người đến muộn, Nguyễn Đình Lạp đã xác định cho mình một lối đi riêng: đi vào khai thác một đề tài tương đối mới mẻ - cuộc sống dân nghèo thành thị trước cách mạng.Với đề tài này, Nguyễn Ngọc Thiện đã công nhận, ông đã có “những trang viết thành công…xứng đáng được chọn vào hàng nhà văn số một viết về hạng người này ở ngoại ô Hà Nội trước năm 1945” (Nguyễn Ngọc Thiện,1995;35). PGSTS Lê Thị Đức Hạnh trong bài viết Sáng tác của Nguyễn Đình Lạp đăng trên tạp chí văn học số 3-2002:23 cũng đã nhận định “khi nói về tiểu thuyết viết về cuộc sống của người nông dân thì có thể kể ra hàng loạt những cuốn tiêu biểu: Tắt đèn của Ngô Tất Tố, Bước đường cùng của Nguyễn Công Hoan… Về tiểu tư sản có: Sống mòn của Nam Cao, Cuộc sống, Hơi thở tàn của Nguyên Hồng,… nhưng về dân nghèo thành thị thì chỉ có “Ngoại ô” và “Ngõ hẻm” của nguyễn Đình Lạp là sáng giá”. Với bút pháp tả chân sắc sảo, Nguyễn Đình Lạp đã khai thác đề tài ấy một cách có hiệu quả. Chính vì vậy mà PTS Nguyễn Ngọc Thiện trong bài viết Những cuộc đời bị dồn đẩy trong tiểu thuyết tả chân của Nguyễn Đình Lạp, tạp chí văn học số 12 – 1995:35 đã khẳng định: “Cái mà tiểu thuyết Nguyễn Đình Lạp có sức hấp dẫn người đọc đương thời cũng như người đọc hôm nay có lẽ nằm ở nội dung hiện thực độc đáo với bút pháp tả chân sắc sảo cùng là tư tưởng nhân bản toát ra từ toàn bộ tác phẩm”. Trong cái “nội dung hiện thực độc đáo ấy hàm chứa một thái độ phê phán của tác giả đối với những mặt trái của xã hội” (Nguyễn Ngọc Thiện,1995:35) nên Nguyễn Ngọc Thiện còn coi “đó là một bức tranh chân thực, sắc sảo… được miêu tả sinh động và giàu ý nghĩa phê phán, tố cáo” (Nguyễn Ngọc Thiện,1995:35). “Miêu tả cuộc sống bi thương của dân nghèo thành thị” (Nhiều Tác giả,1978:151), cùng với những nhà văn hiện thực đương thời, Nguyễn Đình Lạp đã góp phần ghi lại một cách phong phú đời sống xã hội ta trước cách mạng, giúp người đọc hôm nay thấy được “những lạc hậu, nghèo đói, khổ ải, những tráo trở, biến động, những thét gào” (Dương Nghiễm Mậu,2000:115-116) của những kiếp người dưới đáy xã hội như nhận định của Dương Nghiễm Mậu trong bài Viết về Vũ Trọng Phụng. Còn Phan Cư Đệ trong Tiểu thuyết hiện đại đã xếp tiểu thuyết của nguyễn Đình Lạp vào hàng những tiểu thuyết hiện thực phê phán – “cái đáng nói nhất”(Phan Cư Đệ,1978:56) của văn học công khai 1930 -1945. Bởi vì nó tha thiết quan tâm đến cuộc đời những người dân nghèo sống chui rúc trong các “Ngõ hẻm” của vùng “Ngoại ô”. Vũ Ngọc Phan trong quyển Nhà văn hiện đại cũng đồng ý đây là SVTH: Nguyễn Thị Xuân Mai 3 Đặc điểm tiểu thuyết Nguyễn Đình Lạp “một truyện cảm động, nhiều cảnh khổ của dân nghèo miền ngoại ô được tác giả tả rất kĩ” (Vũ Ngọc Phan,1989:404). Trên bức tranh sẫm màu của “Ngoại ô” và “Ngõ hẻm”, Nguyễn Đình Lạp còn “phát hiện và khẳng định những nét đẹp đẽ trong tâm hồn những con người sống nghèo khổ, tăm tối ấy”(Nguyễn Hoành Khung,2004:1064) bằng “tâm hồn trong sáng tin yêu trong vũng bùn đen” (Phạm Khánh Cao,2003:873). Điều này được Phạm Khánh Cao nói đến trong bài viết của mình và kết luận Nguyễn Đình Lạp là “một trong những nhà văn đem lại niềm tin yêu con người trong mọi hoàn cảnh khó khăn, phức tạp kể cả tình huống ngặt nghèo” (Phạm Khánh Cao,Báo văn nghệ TPHCM số 6 - 12 tháng 1 – 1994:878). Đối với nhà văn Bùi Hiển trong bài viết về Nguyễn Đình Lạp – “Nhà văn của những thân phận hèn mọn”, ông nhận định rằng: “Viết về những thân phận hèn mọn cũng có những thái độ và bút pháp khác nhau”. Trong đó, ông phê phán lối viết lệch lạc “điểm chút thương hại, chút lòng cứu vớt”, hay rơi vào “Chủ nghĩa khốn khổ”- “cố tình phơi bày dồn dập những cái khốn khổ khốn nạn đè lên một kiếp người đến ngột thở và không thể nào cưỡng nổi, dường như là định mệnh vậy” (Bùi Hiển,2003:847). Còn đối với tiểu thuyết của Nguyễn Đình Lạp thì ông nhận thấy “ấn tượng nổi bật vẫn là mối cảm thông, tấm lòng ưu ái của tác giả… Niềm ưu ái chân thành, chia sẻ, hoàn toàn xa lạ với phong cách xót thương cứu vớt hoặc với thứ “Chủ nghĩa khốn khổ” lạnh lùng hời hợt vừa nói trên kia” (Bùi Hiển,2003:850). Tiếp cận và phơi bày hiện thực bằng “nhân sinh quan mới mẻ tiến bộ” (Lê Thị Đức Hạnh,2002:24), Nguyễn Đình Lạp đã tiến xa hơn các cây bút đương thời về mặt tư tưởng. Chính vì thế mà Hoài Anh khi phác hoạ “chân dung” Nguyễn Đình Lạp trong “Chân dung văn học” đã nhận xét đôi dòng về tiểu thuyết Nguyễn Đình Lạp : “Tiểu thuyết Nguyễn Đình Lạp đã mang tính hiện thực nghiêm nhặt và đã hé ra khuynh hướng Xã Hội Chủ Nghĩa chứ không phải là hiện thực phê phán thông thường” (Hoài Anh,2001:850). Dù có những nhận xét, đánh giá khác nhau về nhiều khía cạnh nội dung của tác phẩm nhưng tựu trung lại, các ý kiến đều thống nhất công nhận giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm. “Ngoại ô”, “Ngõ hẻm” là một bức tranh chân thực cảm động của cuộc sống dân nghèo thành thị, được vẽ lên bằng tất cả tấm lòng ưu ái chân thành của tác giả. 2.2. Những nhận xét về giá trị nghệ thuật của tiểu thuyết: Là một tài năng nở muộn trong làng tiểu thuyết, Nguyễn Đình Lạp đã khẳng định sự có mặt của mình không chỉ ở việc chọn cho mình mảnh đất hiện thực ít dấu chân người bước tới mà còn ở bút pháp thể hiện đặc sắc như Lê Thị Đức Hạnh đã nhận xét trong bài Tường thuật về cuộc hội thảo khoa học bàn về sự nghiệp văn chương của Nguyễn Đình Lạp : Nguyễn Đình Lạp “có những tìm tòi mới mẻ độc đáo trong cách thể hiện nên đã gây được ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc” (Lê Thị Đức Hạnh,2003:845). Để tái hiện một cách chân thực quang cảnh “Ngoại ô” và “Ngõ hẻm” trước cách mạng, Nguyễn Đình Lạp thành công trước hết ở “bút pháp tả chân sắc sảo” như Nguyễn Ngọc Thiện đã nhận xét: “Đọc “Ngoại ô” và “Ngõ hẻm”, người đọc sửng sốt và thú vị trước những trang miêu tả tài hoa của tác giả” (Nguyễn Ngọc Thiện,1995:35-36). Hoài Anh trong quyển Chân dung văn học cũng công nhận Nguyễn Đình Lạp “đã có những trang miêu tả đặc sắc” về khung cảnh lao động nhộn nhịp của một góc ngoại thành Hà Nội “xen lẫn với những trang tả cảnh thiên nhiên tươi mát, đậm đà, chứng tỏ anh có biệt tài về SVTH: Nguyễn Thị Xuân Mai 4 Đặc điểm tiểu thuyết Nguyễn Đình Lạp miêu tả cảnh sắc của vùng ngoại ô ở phía nam Hà Nội” (Hoài Anh,2001:849). Còn đối với Bùi Hiển trong bài viết về Nguyễn Đình Lạp Nhà văn của những thân phận hèn mọn, ông đã nhận xét: “Ngần ấy cảnh ngộ được tác giả miêu tả bằng một bút pháp khá linh hoạt, nhuần nhuyễn” (Bùi Hiển,2003:850). Bên cạnh “biệt tài” trong việc tái hiện hiện thực cuộc sống bên ngoài, Nguyễn Đình Lạp cũng tỏ ra hết sức tinh tế khi thể hiện tâm lý bên trong của nhân vật bởi “ông là người rất tinh tế”, năng truy tìm những cảm giác “thấp thoáng” (Nguyễn Lương Ngọc,2003:857) Hoài Anh cũng cho rằng “Nguyễn Đình Lạp có những thành công đáng kể” trong việc “thể hiện tính cách, tâm lý của nhân vật” (Hoài Anh,2001:849-850). Còn đối với Lê Thị Đức Hạnh, nếu như trong phần trình bày về phóng sự của Nguyễn Đình Lạp, cô có nhận định “Nguyễn Đình Lạp chưa thật sắc sảo trong phân tích tâm lý miêu tả nhân vật” thì đến phần nói về tiểu thuyết, cô đã có sự so sánh “không như ở phóng sự, đến tiểu thuyết nhiều lúc Nguyễn Đình Lạp tỏ ra khéo léo, thậm chí tài tình khi miêu tả tâm lí nhân vật” (Lê Thị Đức Hạnh,2002:22-25) Về nghệ thuật xây dựng nhân vật, bên cạnh hạn chế không thể phủ nhận là “chưa có được những nhân vật điển hình có bề sâu” như Nguyễn Hoành khung nhận xét (Từ điển văn học), Nguyễn Đình Lạp cũng đã xây dựng được thế giới nhân vật đông đảo để lại nhiều ấn tượng trong lòng người đọc như nhận định của Lê Thị Đức Hạnh: “số lượng nhân vật nhiều, phát triển ở đa tuyến, mà vẫn có không ít nhân vật để lại ấn tượng sâu sắc.. Có những nhân vật, tuy không phải là chính song cũng thu hút được sự chú ý của người đọc bởi một vẻ đẹp riêng” (Lê Thị Đức Hạnh,2002:25). Góp phần tạo nên sự đặc sắc cho tiểu thuyết không thể không nhắc đến nghệ thuật trần thuật. Trong tiểu thuyết của mình, Nguyễn Đình Lạp đã có “cách diễn đạt… nhuần nhuyễn, tinh tế” như Lê Thị Đức Hạnh đã nhận xét. Đó còn là “cách diễn đạt thoát” như Thế Phong – “một nhà nghiên cứu ở miền nam về tiểu thuyết của Nguyễn Đình Lạp” (Lê Thị Đức Hạnh,2002:25) đã nhận định. Nguyễn Ngọc Thiện thì cho rằng, tác giả đã lôi cuốn người đọc “theo diễn biến câu chuyện và số phận nhân vật cho đến khi ngã ngũ, kích thích người đọc tranh luận với sự phân tích, bình phẩm của người kể chuyện cố làm ra vẻ khách quan đứng ngoài cuộc” (Nguyễn Ngọc Thiện,1995:36). Đóng vai trò quan trọng tạo nên sự thành công của nghệ thuật trần thuật là giọng điệu kể chuyện. Đọc “Ngoại ô” và “Ngõ hẻm”, “người đọc nhận ra giọng tự sự chân phương nhanh và hoạt, ẩn chứa một cái nhìn khách quan, nhân đạo” như Nguyễn Ngọc Thiện (1995) nhận xét. Nguyễn Đình Lạp đi vào phê phán, tố cáo hiện thực xã hội bằng một giọng điệu có phần nhẹ nhàng hơn so với một số nhà văn khác. Và theo Bùi Hiển đó là một “giọng điệu ôn hoà… nhưng cũng có công phơi trần hiện thực chứa đầy bi kịch, khiến người đọc phải suy ngẫm về cuộc sống quanh mình và rút ra kết luận” (Bùi Hiển,2003:847). Có lẽ vì thế mà Phạm Khánh Cao cho rằng “văn của ông có khả năng thấm vào lòng người” (Phạm Khánh Cao,1994:876). Hầu hết những ý kiến phê bình đều công nhận những đặc sắc về nghệ thuật của tiểu thuyết. Bên cạnh đó, tiểu thuyết cũng không tránh khỏi những mặt hạn chế như một số nhà phê bình đã nhận xét. Trước hết là nhận định của Vũ Ngọc Phan trong quyển Nhà văn hiện đại cho rằng: “nhiều đoạn tác giả dàn việc thiếu nghệ thuật và có mấy đoạn tác giả xét nhận không được tinh tế”. Cuối bài viết, ông đã thẳng thắn kết luận: “Nguyễn Đình Lạp chưa được vững chãi trong lối tả thực… văn ông viết lại không được kĩ, không được gọn có nhiều đoạn thẳng tuồn tuột, lời nhiều ý ít”. Cũng đồng ý với ý kiến của Vũ Ngọc Phan, SVTH: Nguyễn Thị Xuân Mai 5 Đặc điểm tiểu thuyết Nguyễn Đình Lạp Nguyễn Ngọc Thiện còn nói thêm “không phải lúc nào ngòi bút Nguyễn Đình Lạp cũng giữ được tinh tế, nhuần nhuyễn trọn vẹn. Có lúc ông rơi vào tẻ nhạt, tầm thường xoàng xĩnh” (Nguyễn Ngọc Thiện,1995:36). “Từ một cây bút nhiều năm viết phóng sự chuyển sang viết tiểu thuyết nên đôi khi Nguyễn Đình Lạp chú ý tả việc hơn tả người và bố cục chưa được chặt chẽ lắm” như nhận xét của Lê Thị Đức Hạnh (2002). Cũng nhận ra được nhược điểm đó, Bùi Hiển (2003) cho rằng “truyện đôi khi hơi xô lệch có lẽ do chất phóng sự ngồn ngộn chen vào”. Tác giả Nguyễn Hoành Khung cũng nhìn nhận “bên cạnh những trang chân thực cảm động, ngoại ô còn để lộ những khía cạnh non yếu, kết cấu thiếu chặt chẽ, tình tiết đôi khi còn dễ dãi” (Nguyễn Hoành Khung,2004:1064). 2.3. Nhận xét chung: Như khoá luận đã trình bày tiểu thuyết của Nguyễn Đình Lạp ít được quan tâm nghiên cứu một cách toàn diện nhưng phong cách riêng độc đáo của một nhà tiểu thuyết nhiều năm thử bút trên lĩnh vực phóng sự là không thể phủ nhận được. Qua quá trình tổng hợp ý kiến của các nhà phê bình nghiên cứu về những vấn đề có liên quan đến luận văn, chúng tôi nhận thấy rằng, mặc dù có những ý kiến khen chê khác nhau nhưng nhìn chung những ý kiến đều khẳng định tài năng cũng như đóng góp của Nguyễn Đình Lạp cho trào lưu văn học hiện thực phê phán 1930 - 1945. Bên cạnh đó, các nhà nghiên cứu cũng công nhận tiểu thuyết của ông còn có những hạn chế nhất định. Trên cơ sở kế thừa ý kiến của các nhà phê bình, chúng tôi cũng có sự tự phát hiện, khám phá để hiểu rõ hơn những nét riêng trong phong cách nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Đình Lạp ở lĩnh vực tiểu thuyết. Trong quá trình nghiên cứu, luận văn sẽ giúp chúng tôi có cái nhìn khách quan hơn để đánh giá chính xác những đóng góp của một nhà văn đầy tâm huyết như Nguyễn Đình Lạp cho quá trình hiện đại hoá văn xuôi Việt Nam tính đến năm 1945. 3. Phạm vi nghiên cứu: Với đề tài “Đặc điểm tiểu thuyết Nguyễn Đình Lạp”, chúng tôi sẽ tập trung nghiên cứu những đặc điểm nổi bật của tiểu thuyết Nguyễn Đình Lạp cả về nội dung lẫn hình thức nghệ thuật qua việc khảo sát hai tiểu thuyết “Ngoại ô” và “Ngõ hẻm”. Trong luận văn, chúng tôi chủ yếu dựa trên văn bản tiểu thuyết “Ngoại ô” và “Ngõ hẻm” của Nguyễn Đình Lạp được trích trong “Tác phẩm Nguyễn Đình Lạp” (Bạch Liên sưu tầm, tập hợp, NXB văn hoá thông tin Hà Nội – 2003) để làm đối tượng nghiên cứu. Trong quá trình khảo sát, luận văn có so sánh, đối chiếu với một số tác phẩm của Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Nam Cao, Nguyên Hồng… nhằm nêu bật vấn đề của luận văn. Qua đó, luận văn góp phần khẳng định tài năng của Nguyễn Đình Lạp không chỉ ở thể loại phóng sự mà còn ở thể loại tiểu thuyết. 4. Phương pháp nghiên cứu: Để hoàn thành luận văn, chúng tôi đã sử dụng một số phương pháp sau: Phương pháp phân tích - tổng hợp: Đây là phương pháp được sử dụng chủ yếu trong quá trình nghiên cứu. Với phương pháp này, chúng tôi đã dựa trên những nhận xét, đánh giá của các nhà phê bình nghiên cứu cùng với sự tìm tòi, phát hiện trực tiếp của chúng tôi trên văn bản hai tiểu thuyết của Nguyễn Đình Lạp để làm cơ sở cho việc tiếp cận và tìm hiểu các sáng tác của ông nhằm phục vụ tốt hơn cho đề tài. Cuối cùng, kết quả chúng tôi đạt được là làm rõ đặc điểm nội dung và nghệ thuật trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Lạp. SVTH: Nguyễn Thị Xuân Mai 6 Đặc điểm tiểu thuyết Nguyễn Đình Lạp Phương pháp so sánh: Khi thực hiện đề tài, phương pháp so sánh sẽ giúp chúng tôi có sự liên hệ, đối chiếu, so sánh sự giống và khác nhau trong cách thể hiện nội dung và nghệ thuật giữa Nguyễn Đình Lạp và những nhà văn khác. Từ đó, chúng tôi có cái nhìn toàn diện và khách quan hơn về những đóng góp của Nguyễn Đình Lạp cho văn xuôi hiện đại Việt Nam trước 1945. Phương pháp thống kê: Đây là phương pháp không thể thiếu trong quá trình nghiên cứu. Để làm rõ đề tài này, chúng tôi thực hiện việc thống kê các yếu tố nội dung nghệ thuật có tính bao quát, phổ biến, nổi bật của tiểu thuyết Nguyễn Đình Lạp. Từ đó chúng ta thấy được phong cách riêng độc đáo, những sáng tạo mới mẻ của Nguyễn Đình Lạp ở lĩnh vực tiểu thuyết. Phương pháp hệ thống: Phương pháp này nhằm giúp chúng tôi có cái nhìn toàn diện về văn nghiệp của Nguyễn Đình Lạp. Đồng thời, qua quá trình hệ thống, chúng tôi sẽ nhận ra những nét cơ bản, đặc thù, sáng tạo độc đáo của nhà văn trong lĩnh vực tiểu thuyết - một thể loại đã đưa tên tuổi của nhà văn vào hàng ngũ các “nhà văn hiện đại”, “xứng đáng nổi tiếng ở tiền chiến” (Thế Phong,2002: 25) 5. Đóng góp mới của đề tài: Đề tài khoá luận là một đề tài khá mới mẻ. Mặc dù khi hai tiểu thuyết “Ngoại ô” và “Ngõ hẻm” xuất hiện trên văn đàn, nó cũng đã thu hút khá nhiều sự chú ý của giới độc giả cũng như giới phê bình nhưng có thể nói, tiểu thuyết của Nguyễn Đình Lạp vẫn chưa được sự quan tâm đúng mức cũng như được nghiên cứu một cách toàn diện. Nghiên cứu đề tài này, chúng tôi mong muốn sẽ góp một cái nhìn toàn diện và sâu sắc hơn về tiểu thuyết của Nguyễn Đình Lạp. Qua đó, chúng tôi muốn khẳng định tài năng cũng như phong cách riêng của nhà văn và nhất là khẳng định lại những đóng góp của ông cho nền văn xuôi hiện đại Việt Nam. Cuối cùng, chúng tôi hi vọng đề tài khoá luận sẽ giúp thêm tư liệu cho những bạn đọc thực sự quan tâm, yêu mến nhà văn. 6. Dàn ý của khoá luận: Khoá luận có 3 phần chính : Phần mở đầu, phần nội dung, phần kết luận. Trong đó trọng tâm là phần nội dung Phần nội dung bao gồm 3 chương: Chương I: “Vài nét về cuộc đời, con người và văn nghiệp của Nguyễn Đình Lạp”: khóa luận tìm hiểu cuộc đời, con người và sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Đình Lạp. Bên cạnh đó chúng tôi cũng tìm hiểu thêm những đóng góp của ông cho trào lưu văn học hiện thực phê phán giai đoạn 1930-1945 ở hai thể loại: phóng sự và tiểu thuyết. Chương II: “Tiểu thuyết Nguyễn Đình Lạp - Bức tranh đời sống chân thực, cảm động và tấm lòng của nhà văn”. Trong phần này, chúng tôi sẽ đi sâu tìm hiểu bức tranh hiện thực sinh động, đa dạng trong tiểu thuyết với đầy đủ những người, những cảnh tiêu biểu cho những lớp người lao động nghèo khổ ở ngoại ô Hà Nội trước cách mạng tháng tám - 1945. Qua đó, chúng ta thấy được tấm lòng đầy cảm thông của nhà văn đối với những thân phận hèn mọn. SVTH: Nguyễn Thị Xuân Mai 7 Đặc điểm tiểu thuyết Nguyễn Đình Lạp Chương III: “ Tiểu thuyết Nguyễn Đình Lạp - Một số đặc điểm nghệ thuật nổi bật”: Chúng tôi tập trung tìm hiểu những đặc điểm nghệ thuật cơ bản trong tiểu thuyết như nghệ thuật xây dựng nhân vật, nghệ thuật trần thuật, miêu tả, bút pháp thể hiên tâm lí, giọng điệu kể chuyện và ngôn ngữ…Từ đó, chúng tôi muốn khẳng định phong cách độc đáo của nhà văn. SVTH: Nguyễn Thị Xuân Mai 8 Đặc điểm tiểu thuyết Nguyễn Đình Lạp PHẦN NỘI DUNG ---X W--CHƯƠNG I: VÀI NÉT VỀ CUỘC ĐỜI, CON NGƯỜI VÀ VĂN NGHIỆP CỦA NGUYỄN ĐÌNH LẠP 1.Cuộc đời,con người và sự nghiệp sáng tác: 1.1.Cuộc đời và con người: Nguyễn Đình Lạp cũng là một trong số những nhà văn yểu mệnh như Vũ Trọng Phụng. Nhưng nếu Vũ Trọng Phụng với tuổi đời hai mươi bảy ngắn ngủi đã khẳng định được tên tuổi của mình bằng một khối lượng sáng tác khá đồ sộ thì Nguyễn Đình Lạp với tuổi đời ba mươi chín đầy tâm huyết nhưng vẫn chưa có được một vị trí xứng đáng trên văn đàn. Cuộc đời tuy ngắn ngủi nhưng nhà văn trẻ này đã sớm chuyển mình đem tài năng phục vụ cho sự nghiệp cách mạng. Vì thế, cuộc đời và nhân cách của nhà văn Nguyễn Đình Lạp cũng có những nét đáng để cho người đời sau kính phục. Nhà văn Nguyễn Đình Lạp còn có các bút danh khác như Song Đình, Yến Dực. Ông sinh ngày 19 - 9 - 1913 tại làng Bạch Mai, huyện Hoàn Long, tỉnh Hà Đông, nay là phố Bạch Mai thuộc quận hai Bà Trưng - Hà Nội. Vì thế, tên tuổi của Nguyễn Đình Lạp trong dòng văn học hiện thực phê phán cũng gắn liền với những sáng tác về Hà Nội - mảnh đất mà ông sinh trưởng. Tuy mồ côi cha mẹ từ rất sớm nhưng bù lại, Nguyễn Đình Lạp được sự đùm bọc cưu mang của ông nội Nguyễn Đình Phúc - một chí sĩ đã từng tham gia phong trào Đông Kinh nghĩa thục và chú ruột Nguyễn Phong Sắc - một cán bộ cách mạng từng có thời là uỷ viên trung ương Đảng Cộng Sản Đông Dương. Lớn lên trong một gia đình có truyền thống yêu nước và cách mạng như thế, Nguyễn Đình Lạp đã sớm chọn cho mình con đường đi đúng đắn: đi theo con đường cách mạng của Đảng. Trong khi đó, vấn đề “nhận đường” đặt ra một cách hết sức bức thiết đối với văn nghệ sĩ. Đâu phải nhà văn nào cũng có được sự ý thức đầy đủ và đúng đắn để có thể nhanh chóng “lột xác” và đến với cách mạng một cách dễ dàng. Lớn lên giữa chốn Hà thành đầy rẫy “những cạm bẫy người”, những ổ lưu manh, thanh niên phần lớn đi vào con đường truỵ lạc, ấy thế mà Nguyễn Đình Lạp không chỉ biết định hướng đúng đắn cho bản thân mà còn nuôi các em ăn học nên người. Thuở nhỏ, Nguyễn Đình Lạp học tại trường ở phố Bạch Mai. Tốt nghiệp trung học, ông rời nhà trường với mảnh bằng tốt nghiệp và chuyển sang làm báo, viết văn. Thoạt đầu, Nguyễn Đình Lạp tập viết tin tức cho các báo và từ năm 1933 đã có nhiều bài đăng trên tờ Tân thiếu niên.Từ 1936 trở đi giữa “cái thời thanh niên thành thị bị mê hoặc bởi lối sống vui vẻ trẻ trung”, Nguyễn Đình Lạp đã biết lo cho tương lai của tuổi trẻ lạc đường, biết thương xót những người dân nô lệ và nghèo khổ” (Vũ Tú Nam,2003:853) thể hiện qua hàng loạt những phóng sự . SVTH: Nguyễn Thị Xuân Mai 9 Đặc điểm tiểu thuyết Nguyễn Đình Lạp Đầu những năm 1940, Nguyễn Đình Lạp bắt đầu chuyển sang viết tiểu thuyết Bước vào những năm tiền khởi nghĩa tháng tám, một số bạn bè đồng nghiệp của Nguyễn Đình Lạp đã tham gia cách mạng. Qua người bạn Nguyễn Huy Tưởng, Nguyễn Đình Lạp đã biết đến văn hoá cứu quốc. Từ đó, ông đã nhiệt tình tham gia hoạt động Cách mạng và có mặt trong đoàn văn nghệ sĩ Nam tiến vào mặt trận quân khu V. Sau cách mạng năm 1946, Nguyễn Đình Lạp là một trong số những nhà văn đầu tiên vào quân đội và tham gia Hội văn nghệ liên khu IV. Ông phụ trách văn nghệ phòng chính trị đại đoàn 304. Cũng trong thời kì này, ông làm giảng viên môn học phóng sự của nhiều khoá văn nghệ kháng chiến khu IV mở tại Thanh Hoá. 1950, Nguyễn Đình Lạp được kết nạp vào Đảng Cộng Sản Đông Dương. Năm 1951-1952, ông được biệt phái công tác về Mặt trận Hà Nội. Đối với bạn bè, đồng chí, Nguyễn Đình Lạp vừa là một người dễ gần dễ mến vừa là một tấm gương đáng kính đáng trọng. Là một người lặng lẽ, ít nói, thế mà có lần, Nguyễn Đình Lạp đã trao đổi một cách sôi nổi với Vũ Tú Nam “về văn học phục vụ kháng chiến, phục vụ cách mạng, những gian khổ rèn luyện của người cầm bút, suốt đời phải lo việc “sống, học và viết” sao cho tốt” (Vũ Tú Nam,2003:853). Nguyễn Đình Lạp là một nhà văn đầy tâm huyết nên dẫu đã cống hiến hết sức mình cho nghệ thuật và cho cách mạng, ông vẫn chưa bao giờ cảm thấy thoả mãn. Điều ấy thể hiện trong câu nói đầy trăn trở và nuối tiếc với Vũ Tú Nam: “Nam có cả tương lai trước mắt. Mình thì đi đã quá nửa đường rồi, thật không dễ chút nào” (Vũ Tú Nam,2003:853). Đối với gia đình, Nguyễn Đình Lạp là niềm tự hào của vợ con. Ông cũng có một mái gia đình ấm cúng với một người vợ biết hi sinh và những đứa con ngoan. Tình yêu của ông và bà Bạch Liên - vợ nhà văn - là một tình yêu đáng trân trọng. Một người sống hết mình theo tiếng gọi nghề nghiệp như Nguyễn Đình Lạp không khỏi có những lúc xao lãng việc gia đình nhưng thật hạnh phúc khi ông có được một người vợ biết cảm thông, chia sẻ gánh nặng cùng chồng. Bà Bạch Liên không những là cánh tay phải đắc lực của ông lúc sinh thời mà còn là người đã giúp ông hoàn thành tâm nguyện còn dang dở khi đã quá cố bằng cách tập hợp và công bố những sáng tác của ông - một món di sản quý báu mà ông để lại cho đời. Cuộc đời của Nguyễn Đình Lạp tuy ngắn ngủi nhưng đã trải qua bao nổi éo le ly kì. Đó là do hoàn cảnh bắt buộc phải lăn lộn nhiều trong thực tế cuộc sống và trong cuộc chiến đấu ác liệt của dân tộc. Chất ly kì ấy cũng len lỏi vào những trang tiểu thuyết của ông làm cho nó có một phong vị riêng. Oái oăm thay, cuộc sống chiến đấu gian khổ không làm cho nhà văn chiến sĩ chùn bước nhưng một cơn sốt rét ác tính lại quật ngã ông. Nằm trên giường bệnh trong những ngày chiến đấu khốc liệt, nhà văn vẫn tràn đầy lạc quan viết lên những dòng nhật ký cuối cùng: “Đời có vui và tin tưởng” (Nhật ký Nguyễn Đình Lạp) rồi trút hơi thở cuối cùng tại quân y viện 32 ở Thanh Hoá ngày 24 - 4 -1952. 1.2.Sự nghiệp sáng tác: So với những cây bút khác trong cùng trào lưu, Nguyễn Đình Lạp không phải là một nhà văn có sức viết dồi dào nhưng những gì ông để lại cho văn đàn không phải là ít có SVTH: Nguyễn Thị Xuân Mai 10 Đặc điểm tiểu thuyết Nguyễn Đình Lạp giá trị. Số lượng sáng tác trong toàn bô văn nghiệp của Nguyễn Đình Lạp không nhiều và chủ yếu tập trung ở hai thể loại phóng sự và tiểu thuyết . Trước cách mạng tháng tám, Nguyễn Đình Lạp đến với phóng sự vì ông quan niệm “phóng sự là một lợi khí sắc bén” có thể “ghi chép đầy đủ, nóng hổi sự sống…” (Nguyễn Đình Lạp,2003:794) và cũng bắt đầu từ đó, ông đã thu hút được sự chú ý của người đọc. Trước hết là những phóng sự ngắn đăng trên báo Bắc Hà 1937 như Hà Nội, Giao thừa, Đi ở. Sau đó ông càng được nhiều người biết đến qua một loạt tác phẩm phóng sự dài đăng tải trên các báo Tiểu thuyết thứ năm, Ích hữu như Chợ phiên đi tới đâu (1937), Thanh niên truỵ lạc (1937), Từ ái tình đến hôn nhân (1937), Cường hào (1938). Đầu những năm 1940, Nguyễn Đình Lạp chuyển sang viết tiểu thuyết bởi ông nhận ra “tiểu thuyết là một nghệ thuật rộng rãi và nhiệm mầu hơn phóng sự. Chỉ có tiểu thuyết mới ghi nổi u uẩn sâu kín nhất của con người và những quan hệ vô cùng phức tạp phiền phức của xã hội” (Nguyễn Đình Lạp,2003:793).Và khi hai tiểu thuyết đầu tay ra đời: “Ngoại ô” - xuất bản 1941 và “Ngõ hẻm” - xuất bản 1943 thì Nguyễn Đình Lạp lại càng thu hút sự chú ý của người đọc. * Tóm lược về hai tiểu thuyết “Ngoại ô” và “Ngõ Hẻm”: Hai tiểu thuyết này được xem là bộ tiểu thuyết liên hoàn bởi nội dung của nó có sự liên quan và tiếp nối nhau. Nếu như “Ngoại ô” là câu chuyện xoay quanh gia đình của bác Vuông bán giò chả thì “Ngõ hẻm” lại là câu chuyện xoay quanh gia đình của chàng đồ tể Nhớn – con rể bác. “Ngoại ô” phản ánh cuộc sống của những người dân nghèo vùng Vạn Thái, Bạch Mai, thuộc Ô Cầu Dền, Hà Nội. Đó là những con người sống bằng đủ thứ nghề: buôn bán, phu xe, đồ tể, cô đầu, gái điếm và có cả những tay lưu manh, trộm cướp. Trong đó, gia đình bác Vuông bán giầy giò được khắc hoạ đậm nét nhất. Gia đình bác Vuông rất nghèo, cái nghèo truyền kiếp nhưng bác rất hào hiệp, hay giúp đỡ cô đầu Huệ lúc khó khăn. Nghe bác phở Mỗ ngỏ lời, bác Vuông quyết định gả cái Khuyên – con gái bác cho Pháo – con trai bác phở Mỗ và đã cho ăn hỏi. Trong khi đó, nhiều người hay gán ghép Khuyên với Nhớn, một anh chàng đồ tể lành nghề, tráng kiện làm cho Khuyên hay so sánh Pháo với Nhớn. Gia đình bác Vuông chỉ có ba đứa con gái nên vợ bác vẫn mong cưới vợ lẽ cho chồng để kiếm con trai nối dõi và đã nhờ người mai mối. Cưới vợ lẽ về chưa được bao lâu thì tai hoạ cũng dồn dập kéo đến: Lệnh cấm giò chả, cấm thịt ở ngoại ô vào thành phố bán. Gia đình bác Vuông khốn đốn vì không bán được hàng, tiền đút lót cũng mất, bác Vuông gái đi buôn thịt lậu cũng bị bắt. Rồi đùng một cái, bác gái chết vì bệnh dịch tả, đưa về quê chôn lại bị bọn lí dịch hoạnh hoẹ đủ điều. Đau khổ vì vợ mất, bác Vuông lại biết Nhớn và Khuyên yêu nhau liền cho Pháo cưới gấp. Nhớn liều đào mả trộm vàng để có tiền trốn đi cùng Khuyên. Bấy nhiêu nỗi khổ dồn dập khiến bác Vuông hoá điên và tác phẩm kết thúc trong buổi chiều tà ảm đạm khi bác Vuông bị bắt vào nhà thương điên bỏ lại sau lưng người vợ lẽ với cái bụng chửa và cái Còi - đứa con gái bị câm của bác. “Ngõ hẻm” là câu chuyện về Nhớn và Khuyên khi đã trốn đi khỏi Bạch Mai. Sau khi đưa Khuyên trốn đến Hải Phòng, Hà Tu, phần vì Khuyên ốm, phần vì nghe tin bác Vuông bị điên nên Nhớn đưa vợ trở về Bạch Mai. Một ngày, Khuyên gặp lại Pháo, Pháo vẫn uất ức chuyện ngày xưa nên đã đâm càng xe bò vào Khuyên khiến Khuyên phải sinh non. Cảnh túng quẫn, vợ ốm, con lên sài đã khiến Nhớn phải đi cướp đường để có tiền mua SVTH: Nguyễn Thị Xuân Mai 11 Đặc điểm tiểu thuyết Nguyễn Đình Lạp thuốc cho con. Nào ngờ, Nhớn cướp phải Bưởi, vợ Sẹo, một người bạn thân luôn giúp Nhớn lúc hoạn nạn. Khi biết chuyện, Nhớn rất ân hận chấp nhận sự đánh chửi của Sẹo. Nhưng rồi sự cảm thông và lòng vị tha của Sẹo đã gắn chặt tình bạn của họ như ngày nào. Trong cảnh khốn khó, Nhớn được nhiều người giúp đỡ, trong đó có Tin - một người bạn đồ tể thân của Nhớn và ông già Ất, một ông già chuyên chữa bệnh giúp người khác mà không hề mưu lợi cho bản thân. Sau đó được Cún Móm giới thiệu, Nhớn làm nghề gác sòng bạc cho ba Sự và quen biết Phả - tài xế lái xe cho ba Sự. Phả đã để ý đến Còi, em gái Khuyên và đã dụ dỗ Còi đến có mang ba tháng rồi bỏ rơi.Tin thầm yêu Còi từ lâu và dù từng bị Còi từ chối nhưng vẫn mở lòng ra cứu vớt cuộc đời lầm lỡ của Còi. Nhớn ngày càng được ba Sự tin cậy thì Cún Móm cũng bắt đầu ghen tức và tìm kế hãm hại. Biết ba Sự để ý Khuyên, hắn cùng ba Sự bày kế đưa Nhớn vào tù. Khuyên dần nhận ra bộ mặt thật của ba Sự nên không đến sòng bạc làm việc nữa. Một đêm, ba Sự mò đến nhà để tán tỉnh Khuyên. Trong lúc tức giận, Khuyên đã đâm chết ba Sự và được ông già Ất đứng ra nhận tội thay. Nhớn mãn hạn tù nhưng không muốn về nhà vì nghe Cún Móm bịa đặt không tốt về Khuyên. Trong lúc lang thang, Nhớn gặp Sẹo và biết được mọi chuyện ở nhà. Tối Nhớn về nhà nhìn thấy cảnh vợ con mình và mẹ con Còi vui vẻ ấm cúng nhưng lại mơ hồ dự cảm một tương lai mong manh đầy bất trắc. Trong thời gian hoạt động cách mạng, từ thực tế cuộc sống chiến đấu những năm tiền khởi nghĩa tháng tám, ông đã viết được hai phóng sự dài Cảnh Dương chiến đấu và Thôn Lệ Sơn. Song vì điều kiện in ấn lúc ấy khó khăn nên chỉ in tay phổ biến nội bộ. Sau cách mạng, năm 1951-1952, ông được biệt phái về công tác ở Hà Nội nhằm tạo điều kiện cho ông có thể viết tiếp về con người Hà Nội trong kháng chiến - những con người đã từng in đậm trong nhiều sáng tác trước cách mạng của ông. Thời kỳ này, ông đã tham gia một số công tác và viết một số điển hình của ngành công an Hà Nội. Trong đó có cuốn truyện Chiếc vali trên tàu AmiôĐanhvin (1951) có thể xem là sáng tác cuối cùng của ông. Điểm qua vài nét về cuộc đời, con người và sự nghiệp sáng tác của nhà văn Nguyễn Đình Lạp, chúng ta hiểu rõ hơn về một nhân cách và một tài năng đáng trân trọng. Bằng quãng đời ngắn ngủi của mình, Nguyễn Đình Lạp đã cống hiến hết sức mình cho sự nghiệp nghệ thuật cũng như cho sự nghiệp cách mạng của đất nước. Tuy số lượng sáng tác không nhiều, chủ yếu tập trung ở thể loại phóng sự cùng với hai tiểu thuyết vỏn vẹn và một số truyện ngắn đăng rải rác trên các báo, nhưng Nguyễn Đình Lạp cũng có những đóng góp nhất định cho nền văn học dân tộc nói chung và cho trào lưu văn học hiện thực phê phán giai đoạn 1930 – 1945 nói riêng. 2. Những đóng góp của Nguyễn Đình Lạp cho trào lưu văn học hiện thực phê phán giai đoạn 1930 – 1945: 2.1. Những đóng góp của Nguyễn Đình Lạp cho thể loại phóng sự: Nguyễn Đình Lạp sáng tác ở nhiều thể loại: truyện ngắn, truyện vừa, phóng sự, tiểu thuyết.. Trong đó, ông có nhiều đóng góp cho văn học giai đoạn này ở hai thể loại: phóng sự và tiểu thuyết. Xuất hiện muộn trên văn đàn, ông được chú ý trước hết ở thể loại phóng sự. Trong khi Nguyễn Đình Lạp chỉ mới tập tễnh viết những phóng sự đầu tay thì thể loại phóng sự đã được phát triển đến đỉnh cao với những cây bút tên tuổi như Tam Lang, Trọng Lang, Vũ Bằng… và đã đạt đến độ nhuần nhuyễn, hấp dẫn người đọc với những tuyệt tác SVTH: Nguyễn Thị Xuân Mai 12 Đặc điểm tiểu thuyết Nguyễn Đình Lạp của “Ông vua phóng sự đất Bắc” Vũ Trọng Phụng. Nấp sau vầng hào quang đã quá rực rỡ của những người đi trước, Nguyễn Đình Lạp cũng đã dần thu hút sự chú ý của mọi người, khẳng định vị trí còn khá chông chênh của mình, góp vào làng phóng sự một tia sáng mới dù chỉ là một tia sáng nho nhỏ, le lói chứ chưa rực rỡ. Cũng như các nhà phóng sự đương thời, Nguyễn Đình Lạp đến với phóng sự với nhu cầu muốn ghi lại một cách chân thực những cái nhố nhăng của xã hội đương thời. Cùng viết về những vấn đề nhức nhối của xã hội tư sản thành thị, nếu như Vũ Trọng Phụng đã từng thành công với những phóng sự khai thác các tệ nạn xã hội như Cạm bẫy người, Kĩ nghệ lấy tây, Lục xì thì Nguyễn Đình Lạp cũng có Thanh niên truy lạc, Chợ phiên đi tới đâu, Từ ái tình đến hôn nhân. Viết về những kiếp người đi ở, Vũ Trọng Phụng thành công với Cơm thầy cơm cô thì Nguyễn Đình Lạp cũng có một phóng sự ngắn mà ông khiêm tốn gọi là hoạt tượng Đi ở không kém phần cảm động. Không dừng lại ở đề tài cuộc sống thành thị, Nguyễn Đình Lạp còn mở rộng phạm vi phản ánh đến nông thôn.Về đề tài này, nếu như Ngô Tất Tố đã từng thành công với những trang phóng sự phê phán những hủ tục lạc hậu trong Việc làng, Tập án cái đình thì Nguyễn Đình Lạp cũng góp thêm tiếng nói phê phán tố cáo nạn cường hào, quan lại ức hiếp dân chúng ở thôn quê qua phóng sự Cường hào. Có thể nói, cũng xoay quanh những đề tài quen thuộc nhưng Nguyễn Đình Lạp đã phả vào những trang phóng sự của mình một hơi thở mới, đóng góp cho làng phóng sự một cách khám phá hiện thực mới, một cách nhìn mới. Đó là cách khám phá, cách nhìn của một “nhà điều tra xã hội học”.(Vũ Tuấn Anh,2003:866) Khi đọc phóng sự của Vũ Trọng Phụng, người ta có cảm giác như mình đang đọc tiểu thuyết bởi vì Vũ Trọng Phụng tiếp cận hiện thực với góc độ của nhà văn và ghi chép hiện thực qua bàn tay nghệ thuật của nhà văn. Cho nên, phóng sự của Vũ Trọng Phụng có sự hoà quyện giữa chất kí và chất tiểu thuyết. Trái lại, khi tiếp cận với những phóng sự của Nguyễn Đình Lạp, người đọc sẽ nhận ra ngay một kiểu phóng sự điều tra với những tư liệu sống động, những con số thống kê chi tiết và có khi là cả một bảng thống kê tỉ mỉ. Bởi vì Nguyễn Đình Lạp tiếp cận hiện thực với “vai trò một nhà điều tra xã hội học”. Cách tiếp cận hiện thực này “quả là một nét mới trong lối làm phóng sự thời ấy” (Vũ Tuấn Anh,2003:867). Ở khía cạnh này, phóng sự Nguyễn Đình Lạp “hơn rất nhiều phóng sự của các cây bút đàn anh khác” (Vũ Tuấn Anh,2003:866). Đọc những phóng sự của ông, người đọc cảm thấy mức độ chân thực cao và mức độ chính xác rõ rệt. Bởi “Nguyễn Đình Lạp luôn chịu khó lăn lộn trong thực tế” (Lê Thị Đức Hạnh,2002:21) nên những phóng sự của ông luôn đầy ắp những “chất liệu sống, …sinh động, tươi rói” (Lê Thị Đức Hạnh,2002:21). Nhờ đó mà những phóng sự của ông luôn có một tiếng nói tố cáo mạnh mẽ. Nó như một “hồi chuông báo động” và cảnh tỉnh đối với toàn xã hội. “Ý nghĩa của tiếng chuông này vẫn còn nguyên vẹn tính thời sự”(Lê Thị Đức Hạnh,2002:21) đến ngày hôm nay. Nguyễn Đình Lạp viết phóng sự với quan niệm: “Phóng sự là nghiên cứu, tìm hiểu một sự kiện gì rồi ghi chép lại cho thật đúng”(Nguyễn Đình Lạp,2003:795). Đối với ông, chỉ có phóng sự mới giúp “ghi chép đầy đủ, nóng hổi sự sống”(Nguyễn Đình Lạp,2003:794). Vì vậy, ông đã sử dụng phóng sự như “một lợi khí sắc bén”(Nguyễn Đình Lạp,2003:794] và phát huy tối đa lợi thế của vũ khí ấy để ghi chép cho thật đầy đủ những sự kiện nóng hổi của đời sống. Với cách tiếp cận hiện thực mới ấy, Nguyễn Đình Lạp đã có SVTH: Nguyễn Thị Xuân Mai 13 Đặc điểm tiểu thuyết Nguyễn Đình Lạp nhiều điều kiện “triển khai những đề tài có diện rộng…chuyên chở nhiều hơn những vấn đề có ý nghĩa xã hội” (Vũ Tuấn Anh,2003:867-868). Từ cách tiếp cận hiện thực của một nhà điều tra xã hội học, Nguyễn Đình Lạp cũng giải quyết các vấn đề xã hội một cách khoa học. Phải công nhận rằng, trong các phóng sự của mình, Nguyễn Đình Lạp chưa thật sắc sảo trong quan sát, miêu tả hiện thực sinh động cũng như phân tích thế giới nội tâm nhân vật nhưng ông lại “tỏ ra vững vàng trong khi mổ xẻ, bình luận những hiện trạng xã hội”(Lê Thị Đức Hạnh,2002:22). Vì thế, phóng sự Nguyễn Đình Lạp đã “làm giàu cho thể văn này ở khía cạnh phân tích xã hội. Lối phân tích này còn ít thấy trong các phóng sự đương thời” (Vũ Tuấn Anh,2003:870). Cũng giống như các nhà phóng sự khác, Nguyễn Đình Lạp cũng lăn lóc vào mọi ngõ ngách của đời sống để thu thập những tư liệu, khám phá hiện thực. Đặc biệt, Nguyễn Đình Lạp không dừng lại ở việc chỉ “nêu hiện tượng” mà ông còn “chú ý phân tích các hiện tượng” (Vũ Tuấn Anh, 2003:869). Trong phóng sự của ông, các thao tác thống kê, phân loại, phân tích, bình luận là không thể thiếu. Ông thường tìm cách lí giải nguyên nhân của sự việc. Chẳng hạn “nguyên nhân nạn ế chồng”, “vì sao ngoại tình”, “những lý do khiến nhiều thanh niên phải sống độc thân”. Và có nhiều trường hợp, ông còn “nêu ra cả những giải pháp cho nó” (Vũ Tuấn Anh,2003:869). Chính vì vậy mà “phóng sự của Nguyễn Đình Lạp giàu chất trí tuệ” (Lê Thị Đức Hạnh,2002:22), bổ sung thêm một nguồn tài liệu phong phú để con người nhận thức về hiện thực. Tiếp cận với phóng sự Nguyễn Đình Lạp, người đọc dễ dàng nhận ra một văn phong mang “tính thuyết lý, bình luận trực tiếp” (Vũ Tuấn Anh,2003:870). Có thể cách dẫn dắt, xây dựng của Nguyễn Đình Lạp chưa thật đặc sắc như những cây bút đàn anh nhưng ông cũng đã khéo “lôi người đọc vào cuộc, buộc họ phải nhận chân hiện thực và suy nghĩ về nó” (Vũ Tuấn Anh,2003:870) bằng cách bộc lộ trực tiếp những suy nghĩ của mình. Cho nên ẩn đằng sau thái độ lạnh lùng khách quan trong việc phơi bày hiện thực là một thái độ xót xa, mong muốn kêu gọi, thức tỉnh mọi người. Điều đó làm cho “câu văn Nguyễn Đình Lạp đối thoại với người đọc khi cật vấn, khi thống thiết” (Vũ Tuấn Anh,2003:871). Có thể thấy được, phóng sự của Nguyễn Đình Lạp tuy chưa miêu tả quá trình tâm lý của nhân vật cũng như chưa xây dựng được những tính cách sinh động nhưng ông cũng đã phác hoạ được những mảnh đời, đoạn đời của nhân vật một cách chân thực, cảm động. Hơn nữa, trong những phóng sự của mình, ông cũng đã sáng tạo được những hình ảnh “gây ấn tượng và tác động mạnh”, có sức ám ảnh lớn đối với người đọc. “Chẳng hạn như khi nói về những thanh niên trụy lạc, ông đã ví cuộc đời họ như một chai rượu mạnh. “Đốp một cái, nút bật lên,rượu toé ra ngoài. Cái vỏ chai dù đẹp đẽ đến đâu nếu không bị vứt ở xó tường thì cũng dùng đựng mắm muối”. Hoặc “những cô gái dấn thân vào kiếp giang hồ có khác gì điếu thuốc kia, khi mới ra khỏi bao thì thơm tho, trong trắng, hút xong rồi chỉ là một đống tàn tro tơi tả” (Vũ Tuấn Anh,2003:870). Bên cạnh những trang phóng sự dài, Nguyễn Đình Lạp còn có những bài phóng sự ngắn “với cách viết ngắn gọn, linh hoạt, đậm chất trào phúng” (Lê Thị Đức Hạnh,2002:22) rất đặc sắc. Tiêu biểu là hoạt tượng Đi ở. Đây có thể xem là “một truyện ngắn hay” (Lê Thị Đức Hạnh,2002:22) mà Nguyễn Đình Lạp đã góp vào cho kho tàng truyện ngắn hiện thực trào phúng 1930 -1945. SVTH: Nguyễn Thị Xuân Mai 14 Đặc điểm tiểu thuyết Nguyễn Đình Lạp Những đặc sắc nghệ thuật nói trên đã cho thấy một phong cách riêng độc đáo của ngòi bút phóng sự Nguyễn Đình Lạp cũng như những đóng góp của ông cho nghệ thuật phóng sự Việt Nam 1930 -1945. Đánh giá về phóng sự Nguyễn Đình Lạp, chúng ta có thể tóm gọn trong nhận định của Lê Thị Đức Hạnh: “Thành công đánh kể của Nguyễn Đình Lạp trong phóng sự không chỉ do sự nhanh nhạy, sắc sảo của một nhà báo, sự nhuần nhuyễn của một nhà văn, sự vận dụng thành thạo phương pháp điều tra như một nhà xã hội học mà vượt lên trên đó còn do con mắt và tấm lòng của người cầm bút” (Lê Thị Đức Hạnh,2002:22). 2.2. Những đóng góp của Nguyễn Đình Lạp cho thể loại tiểu thuyết: Sau khi đã gặt hái được một số thành quả trong lĩnh vực phóng sự, Nguyễn Đình Lạp đột phá vào lĩnh vực tiểu thuyết. Bởi vì đối với ông, “chỉ có tiểu thuyết mới có thể ghi nổi u uẩn sâu kín nhất của con người và những quan hệ vô cùng phức tạp phiền phức của xã hội” (Nguyễn Đình Lạp,2003:793). Năm 1941, Nguyễn Đình Lạp lần lượt trình làng hai tiểu thuyết đầu tay và cũng là hai tiểu thuyết duy nhất của ông trước cách mạng tháng tám: “Ngoại ô” và “Ngõ hẻm”. Tuy ông không có được những thành công vang dội như nhà văn cùng thời Nam Cao nhưng những đóng góp của Nguyễn Đình Lạp cho làng tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 không phải là ít ý nghĩa. Chọn đề tài về cuộc sống dân nghèo thành thị ở vùng ven đô Hà Nội, Nguyễn Đình Lạp đã có được “những trang viết thành công” (Nguyễn Ngọc Thiện,1995:35) dựa trên sự am hiểu của ông về con người và mảnh đất mà ông sinh trưởng. Có lẽ, do chọn không gian xác thực là chính quê hương mình và mong muốn phản ánh chân thực những cảnh và người ở đó nên nhà văn đã xem tiểu thuyết đầu tay của mình là “phóng sự tiểu thuyết”. Điều đó đã gây ra nhiều sự bàn cãi về thể loại tiểu thuyết của ông. Tuy nhiên, trong quá trình khảo sát chúng tôi nhận thấy, “Ngoại ô” và “Ngõ hẻm” thực chất thuộc thể loại tiểu thuyết vì nó có nhiều hư cấu. Và chúng tôi cũng đồng ý với ý kiến của nhà phê bình Vũ Ngọc Phan khi ông xếp “Ngoại ô”, “Ngõ hẻm” vào loại “tiểu thuyết tả chân có một ít khuynh hướng xã hội”. Với “Ngoại ô” và “Ngõ hẻm”, Nguyễn Đình Lạp “xứng đáng được chọn vào hàng nhà văn số một viết về hạng người này ở ngoại ô Hà Nội trước năm 1945” (Nguyễn Ngọc Thiện,1995:35). Đọc tiểu thuyết của Nguyễn Đình Lạp, người đọc không khỏi sửng sốt trước “một nhân sinh quan mới mẻ, tiến bộ” (Lê Thị Đức Hạnh,2002:24) chưa từng thấy ở các nhà văn trước đó. Cách giải quyết vấn đề của tác giả, cách hành xử của các nhân vật trong tiểu thuyết của Nguyễn Đình Lạp đã hé mở ra một khuynh hướng mới: “Khuynh hướng xã hội chủ nghĩa chứ không chỉ là hiện thực phê phán thông thường” (Hoài Anh,2001:850). Trong tiểu thuyết của mình, Nguyễn Đình Lạp tuy chưa xây dựng được “những nhân vật điển hình có bề sâu” (Nguyễn Hoành Khung,2004:1131) nhưng tiểu thuyết của ông cũng đã có được một số lượng nhân vật đông đảo, “phát triển ở đa tuyến và không ít nhân vật để lại ấn tượng sâu sắc” (Lê Thị Đức Hạnh,2002:25). Bên cạnh đó, tiểu thuyết của Nguyễn Đình Lạp còn đóng góp một nghệ thuật dẫn chuyện linh hoạt và nghệ thuật miêu tả đặc sắc.Với cách diễn đạt nhuần nhuyễn, tinh tế, tác giả đã khéo lôi người đọc nhập cuộc cùng nhân vật, dõi theo cuộc đời nhân vật với những tình tiết sinh động, hấp dẫn. Tiếp tục phát huy sở trường của một ngòi bút thạo viết phóng sự, Nguyễn Đình Lạp đã khéo thâm nhập, nắm bắt mọi đối tượng, “không ngần ngại viết về SVTH: Nguyễn Thị Xuân Mai 15 Đặc điểm tiểu thuyết Nguyễn Đình Lạp những con người bình thường, nhỏ bé… những câu chuyện tưởng như là vặt vãnh tầm thường… đào sâu vào những khía cạnh tiềm ẩn… làm bật ra những cái nổi trội, khác lạ, hấp dẫn của cảnh, người và việc ở một vùng ven đô Hà Nội..” (Nguyễn Ngọc Thiện,1995:36). Nhờ đó, tiểu thuyết Nguyễn đình Lạp đã có được những trang miêu tả tài hoa, đặc sắc không kém những cây bút bậc thầy. Đồng thời với việc phát huy thế mạnh trong việc mổ xẻ hiện thực, Nguyễn Đình Lạp cũng không quên khắc phục nhược điểm của mình khi đi vào mổ xẻ thế giới nội tâm sâu kín của nhân vật. Nhờ thế, những trang tiểu thuyết của Nguyễn Đình Lạp đã tiến xa hơn những phóng sự trước đó của ông về nghệ thuật miêu tả tâm lý. Có thể ngòi bút miêu tả tâm lý nhân vật của Nguyễn Đình Lạp chưa thành thục như Nam Cao nhưng cần phải công nhận rằng, ông cũng đã “tỏ ra khéo léo, thậm chí tài tình” (Lê Thị Đức Hạnh,2002:25) khi thâm nhập vào thế giới nội tâm nhân vật. Bằng những sáng tạo rất riêng trong hai tiểu thuyết của mình, “Nguyễn Đình Lạp đã góp thêm một tiếng nói nghệ thuật có giá trị” (Nguyễn Ngọc Thiện,1995:36) cho tiểu thuyết hiện thực phê phán ở nước ta trước 1945. Qua những đóng góp của Nguyễn Đình Lạp cho thể loại phóng sự và tiểu thuyết, chúng ta có thể thấy rằng, sáng tác của Nguyễn Đình lạp xét về mặt số lượng tuy không nhiều nhưng những gì ông đóng góp cho trào lưu văn học hiện thực phê phán 1930 – 1945 xét về mặt chất lượng thì không hề nhỏ. Với tài năng ấy, nếu chưa vội đi xa, chắc chắn ông sẽ còn có những đóng góp lớn lao hơn nữa để góp phần tô điểm cho bộ mặt văn học dân tộc ngày càng thêm rạng rỡ. SVTH: Nguyễn Thị Xuân Mai 16 Đặc điểm tiểu thuyết Nguyễn Đình Lạp CHƯƠNG II: TIỂU THUYẾT NGUYỄN ĐÌNH LẠP - BỨC TRANH ĐỜI SỐNG CHÂN THỰC, CẢM ĐỘNG VÀ TẤM LÒNG CỦA NHÀ VĂN 1. Nhà văn của những thân phận hèn mọn: 1.1. Bức tranh hiện thực sinh động đa dạng với những cảnh đời cơ cực, lầm than, bế tắc: Mảng hiện thực về cuộc sống thành thị giai đoạn 1930 - 1945 đã có nhiều nhà văn khai thác. Nói về người trí thức tiểu tư sản thành thị thì có Sống mòn của Nam Cao, Cuộc sống, Hơi thở tàn của Nguyên Hồng, Sống nhờ, Một thiếu niên của Mạnh Phú Tư. Hay đi vào cái xô bồ của xã hội tư sản thành thị thì có Số đỏ của Vũ Trọng Phụng. “Nhưng viết về dân nghèo thành thị thì chỉ có “Ngoại ô” và “Ngõ hẻm” của Nguyễn Đình Lạp là sáng giá” (Lê Thị Đức Hạnh,2002:23). Chú ý đến những kiếp người cùng khổ ở ven đô, bằng tất cả tấm lòng và vốn hiểu biết của mình, Nguyễn Đình Lạp đã tỏ ra là người canh tác có hiệu quả trên mảnh đất hiện thực còn ít người khai phá ấy. Cũng như các nhà văn tên tuổi trước thường quay về với chính quê hương của mình để viết, chẳng hạn như Nam Cao viết về làng Vũ Đại, Tô Hoài viết về cuộc sống ven đô Hà Nội, Nguyên Hồng viết về Nam Định - Hải Phòng… thì Nguyễn Đình Lạp cũng thế. Khi viết “Ngoại ô” và “Ngõ hẻm”, ông đã quay về với chính cái làng Bạch Mai – nơi ông sinh ra và lớn lên để viết. Có lẽ, hơn nơi nào hết, quê hương chính là góc hiện thực nhà văn am hiểu nhất và cũng là nơi vun xới, nuôi dưỡng nguồn mạch cảm xúc nên những nhà văn thường dễ thành công khi viết về quê hương mình. Nguyễn Đình Lạp cũng đã gặt hái được những thành công bước đầu trong lĩnh vực tiểu thuyết khi viết về chính mảnh đất chôn nhau cắt rốn ấy. Dưới con mắt am tường và bằng tấm lòng nhiệt huyết với quê hương, xứ sở, cuộc sống lam lũ, cơ cực của những con người nơi đây được nhà văn tái hiện trong tác phẩm như một “bức tranh nhiều màu sắc” (Lê Thị Đức Hạnh,2003:15). “Ngoại ô” và “Ngõ hẻm” đã tái hiện một cách chân thực và cảm động những mảnh đời cơ cực, lầm than, bế tắc của những người dân nghèo ở miền Vạn Thái, vùng Bạch Mai, thuộc Ô Cầu Dền (một khu vực ngoại ô của Hà Nội trước kia, nay là nội thành). Đó là thế giới của những con người sống tất bật, bon chen bằng nhiều nghề khác nhau: từ buôn thúng bán mẹt như bán bánh giầy, bánh giò, bán phở, bán hàng rong, hàng cà phê, hàng thịt cho đến những phu xe, đồ tể, lại có cả gái điếm, cô đầu lưu manh… “Ngoại ô” là câu chuyện chủ yếu xoay quanh gia đình bác Vuông bán giầy giò còn “Ngõ hẻm” là câu chuyện về gia đình bác Nhớn đồ tể (con rể bác Vuông). Mở đầu tác phẩm “Ngoại ô”, người đọc đã được dẫn đến khu “thị trường” to lớn nhất ở Ngõ Vạn Thái, Ô Cầu Dền để chứng kiến cảnh mưu sinh nhọc nhằn của những của người mua gánh bán bưng. Nói là thị trường to lớn vì trong cái ngõ ấy, “người ta đếm được vừa đúng bốn mươi ba nhà ả đầu… Nếu tất cả bốn mươi ba nhà hát ấy đều có khách cả thì ta sẽ thấy cái số người đi tìm mua khoái lạc về nhục thể có tới ngót hai trăm”. Ngoài ra còn bọn người “phụng sự cuộc vui đàng điếm ấy” cũng khoảng hơn hai trăm nữa “gồm ả đầu, kép đàn, thằng nhỏ, phu xe…”(Nguyễn Đình Lạp,2003:37-38). Vì thế, những người buôn bán hàng rong dù có đi đến hang cùng ngõ hẻm nào thì đến cái phiên họp chợ hai giờ sáng SVTH: Nguyễn Thị Xuân Mai 17 Đặc điểm tiểu thuyết Nguyễn Đình Lạp này, họ cũng về đây để chầu chực hơn bốn trăm khách hàng đã “mệt rã rời sau một phút rú rít về xác thịt” (Nguyễn Đình Lạp,2003:38) và đây là giờ họ cần phải nhét đầy cái bao tử lép kẹp của mình. “Quả là môt thị trường to lớn, và đông đảo, và cần mẫn trong lúc đêm khuya, giờ mà xã hội cần yên giấc để lấy lại sức mà vật lộn với cuộc sống ngày hôm sau” (Nguyễn Đình Lạp,2003:38). Ấy vậy mà trong cái giờ khắc ấy, có những con người không cần nghỉ ngơi để mua vui xác thịt, lại có những người không được nghỉ ngơi để mưu sinh, kiếm lấy vài đồng duy trì sự sống. Những cảnh đời dường như đối lập nhau, nhưng có quan hệ gắn kết với nhau đến lạ lùng. Trong bức tranh hiện thực xô bồ của buổi chợ đêm ấy, những con người tụ họp về đây để mưu sinh bằng nhiều nghề khác nhau đều được phác hoạ một vài nét nhưng cũng đủ để người đọc thấy thương cảm. Đó là hình ảnh của một “người phu xe ế khách, nghệch càng lên vỉa hè… bận rộn tính nhẩm xem số tiền thu được là bao nhiêu và sau khi trừ tiền thuế có còn lãi lời hay lỗ vốn” (Nguyễn Đình Lạp,2003:33). Còn bác hàng cà phê cẩn thận đổ những bã cà phê hãy còn hung nâu vào cái hộp sắt tây lót giấy nhật trình “đưa lên mũi ngửi rồi mỉm một nụ cười láu lỉnh: “Hãy còn ngát chán! chỉ phơi qua một nắng là lại có thể pha được một nước nữa chứ chả bỡn” (Nguyễn Đình Lạp,2003:34). Bác phở Mỗ thì “nhìn ngọn lửa dưới đáy thùng nước dùng đã héo hắt tàn… vội nhặt lấy cái ống nứa tép rồi ghé mồm vào thổi vo vo” (Nguyễn Đình Lạp,2003:34). Mụ hàng rong “hạ xuống thềm nhà cái mẹt đựng lèo tèo mấy tấm mía, mấy nắm hạt dẻ ngô rang” (Nguyễn Đình Lạp,2003:34). Bác Vuông hàng giò thì hiện ra với cái nhãn hiệu đặc biệt là ngọn đèn chai “bị muội bám kín mít” (Nguyễn Đình Lạp,2003:36). Tất cả lần lượt hiện lên với vẻ tàn tạ, nghèo nàn, với cái gian hàng thật giản đơn mà vốn liếng chẳng bao nhiêu nhưng cũng chính cái vốn liếng ít ỏi ấy là cả gia tài của họ, nuôi sống cả gia đình của họ. Vì vậy, họ phải tần tảo, vất vả dù khuya sớm để kiếm miếng ăn, có khi lại phải bon chen giành giật. Họ tụ họp về đây để chầu chực, chờ đợi bán được hàng. Vì vậy, chỉ cần một tiếng gọi thì tất cả các hàng quà, phu xe đều tranh nhau chạy lại như để vớt lấy cái phao cứu sống mình: “Các hàng quà vội vã xỏ đòn gánh vào đôi quang, mụ hàng mía nhẹ nhàng đặt mẹt lên đầu. Mấy anh xe đang buồn ũ rũ cũng nhấc chiếc xe chạy tế lại, hấp tấp đến nỗi mui xe này va chan chát vào cái chắn bùn của xe kia. Nhưng khi biết người ta chỉ gọi hàng quà thôi thì họ lại thong thả cắp càng xe vào nách mà lủi thủi bước một… Trong cái phút ồn ào hỗn tạp ấy, bác hàng giò cũng chạy vội ra đứng giữa đường, từ từ quay gót nhìn bốn phía. Bác lắng tai nghe xem có ai gọi mình không. Bác chăm chú đợi chờ…” (Nguyễn Đình Lạp,2003:40). Dần đi vào tác phẩm, người đọc càng cảm thấy thương tâm khi chứng kiến không gian sống, nơi trú ngụ của những con người lao động cơ cực, lầm than ấy. Căn nhà của họ chỉ là những mái nhà tranh lụp xụp lại phải chia ra nhiều gian bởi cái không gian chật hẹp ấy cũng không phải sở hữu riêng của một nhà nào mà là nhiều nhà, nhiều gia đình chui rúc, chia sớt nhau cái xó xỉnh tồi tàn nhỏ hẹp ấy: Nhà bác phở Mỗ là một “dãy nhà lá lụp xụp… dài tới ba mươi gian áp lưng vào tường gạch Văn Chỉ và nhìn thẳng ra một cái ao bèo. Mỗi gian là một chủ, có khi tới hai hay ba chủ chung nhau thuê. Thôi thì đủ các hạng người: thợ nhà máy, thợ nhà in, phu xe, những người bán bún chả, bún riêu…” (Nguyễn Đình Lạp, 2003: 57). Cũng không hơn gì bác phở Mỗ, nhà bác Vuông không những chật hẹp mà còn bị bao vây bởi nước đen, hôi thối bẩn thỉu. “Vợ chồng bác Vuông ngụ tại một căn nhà tranh lụp xụp bên trong xóm hàng Mã, lưng tựa bờ hồ bô, một cái hồ rộng nhưng nông choèn choèn, nước không có đường thông thành ra quanh năm đen sì, ngầu những ván và một mùi hôi thối xông lên gớm chết” (Nguyễn Đình Lạp,2003:70). Cái nhà lá của SVTH: Nguyễn Thị Xuân Mai 18 Đặc điểm tiểu thuyết Nguyễn Đình Lạp bác thì “rất thấp, rất hẹp tựa hồ một cái nón úp xuống mặt đất, khí trời và ánh sáng bên ngoài khó lòng mà vào được tận nơi, cũng như những mùi ẩm mốc bên trong không bao giờ bay hết được ra ngoài” (Nguyễn Đình Lạp,2003:70).Thật khó lòng tưởng tượng được căn nhà ấy lại chia thành ba gian cho ba gia đình ở: Vợ chồng bác Vuông, bác bán thịt trâu và bác Mão cũng làm giò chả. Có được một khoảng sân rộng “vừa bằng hai cái nia” thì lại còn có thêm “hai cái nhà lá nhỏ có ba gia đình khác nữa ở cùng quay ra cái sân đất nhỏ hẹp ấy để chia bớt cái phần ánh sáng của nhà bác Vuông” (Nguyễn Đình Lạp,2003:71). Thật là một nơi ở tù túng và ngột ngạt làm sao! Hơn thế nữa, “người dân ở đây sống giữa bãi rác khổng lồ, nhơ nhớp của thành phố” (Lê Thị Đức Hạnh,2002:23). Ngay cái ngõ hẻm trước nhà Nhớn những hôm trời mưa, dù “không nom rõ vũng lội nhưng Nhớn vẫn biết rằng nó sâu, nó nhầy nhụa, nó bẩn thỉu… nước ngập lên đầu gối và một thứ bùn khăn khẳn, nồng nặc đưa vào lỗ mũi” (Nguyễn Đình Lạp,2003:265). Trong thế giới của những người buôn thúng bán mẹt ấy, gia đình bác Vuông bán giầy giò được khắc hoạ đậm nét nhất. Bên cạnh cuộc sống cần lao của những người buôn thúng bán mẹt, “Ngoại ô” và “Ngõ hẻm” còn tái hiện cuộc sống đầy gian khổ của những người đồ tể, những người vì sự sống mà họ phải hàng ngày đối diện với cái chết của những con vật ngay dưới bàn tay vấy máu của mình trong những lò sát sinh. Những người đồ tể ấy như là Nhớn, Sẹo, Tin. Cuộc sống của những người lao động nơi cửa ô tối tăm, chật hẹp này đã cơ cực lầm than bao nhiêu thì lại càng trở nên cùng quẫn, khốn đốn bấy nhiêu khi cái lệnh cấm hàng giò chả, hàng thịt ở ngoại ô vào thành phố. Cuộc sống của những con người lao khổ ở đây đã tối tăm lại càng tối tăm hơn với cái lệnh cấm oái oăm ấy. Nó ảnh hưởng không nhỏ trước hết là đối với những hàng giò chả như gia đình bác Vuông. Có thể nói, “cái lệnh cấm các hàng giò chả ngoại ô không được vào thành phố bán là một tiếng sét dữ dội đánh manh trên mái nhà bác Vuông và những người đồng nghề với bác” (Nguyễn Đình Lạp,2003:156). Đó là một tiếng sét có độ vang lớn, sức bao trùm của nó gần hết Ô Cầu Dền. Bởi nơi đây “có tới năm mươi nhà làm nghề giò chả” (Nguyễn Đình Lạp,2003:156). Ấy vậy mà tiếng sét ấy lại nổ ra quá bất ngờ, xé toang bầu trời bình yên của cửa ô khi chưa hề có dấu hiệu của cơn giông bão sắp đến. Vì thế, “các hàng giò chả vô tình không biết gì cả. Sáng sớm hôm ấy, họ vẫn đội thúng đi chợ, ung dung và vui vẻ như những con chuột dại khờ tối mắt vì miếng mồi thơm, chạy bổ nhào vào cái bẫy sắt” (Nguyễn Đình Lạp,2003:156). Và ngay khi buổi sáng thi hành lệnh cấm ấy, “cảnh sát và các nhà bán vé chợ đã bắt được ngót ba mươi hàng giò chả. Vợ lẽ bác Vuông cũng chịu chung một số phận ấy” (Nguyễn Đình Lạp,2003:156-157). Những ngày sau, lệnh cấm ngày càng trở nên gắt gao, những người bán giò chả ngoài cửa ô lâm vào cảnh nguy ngập. Thế là để duy trì cái cơ hội sống vốn đã mong manh nay lại lâm vào tình thế khốn đốn như vậy, những người bán hàng ở ngoại ô đã tìm cách vượt rào vào bán trong thành phố dù có nguy hiểm. “Họ kiếm những con đường hẻm để lẩn tránh con mắt nhà chức trách. Có những người đội thúng hàng, xắn quần lội qua ao, qua sông Tô Lịch để lẩn vào thành phố. Nhưng những mánh lới ấy đều bị khám phá ngay. Cuối cùng họ đành tạm thời nghỉ hàng” (Nguyễn Đình Lạp,2003:160]. Không vượt rào được, họ lại quay ra tìm cách khác. Họ nhờ ông phán Hành lo cho việc được tự do lên tỉnh bán. Nhưng không ngờ họ lại phải một phen khốn đốn hơn khi ông phán Hành chỉ là một tay lừa bịp. Ông đã nhận của những người trong hội giò chả chín mươi lăm đồng mà “công vịêc vẫn mù mù, mịt mịt, chưa có gì là chuẩn đích cả” (Nguyễn Đình Lạp,2003:183). Nhờ bác thịt trâu khuyên không nên đưa tiền thêm, cô đầu SVTH: Nguyễn Thị Xuân Mai 19 Đặc điểm tiểu thuyết Nguyễn Đình Lạp Huệ vạch trần bộ mặt “ăn bẩn” của phán Hành, những hàng giò chả mới may mắn thoát cái nạn đem tiền bỏ bể, mất cả chì lẫn chài. Những hàng giò chả khốn đốn thì những hàng thịt cũng nguy ngập không kém trong thời kì thi hành lệnh cấm ấy. Những hàng thịt cũng tìm mọi cách để đưa thịt lậu vào thành phố bán .“Có người cho thịt lậu vào quả sơn son cẩn thận, ngồi xe nhà hẳn hoi, làm như người đi biếu xén về việc hỷ. Lại có người cho thịt vào vỉ buồm kín mít, ngồi lên xe điện như người lên tỉnh sắm sửa. Những thủ đoạn ấy đều bị khám phá… (Nguyễn Đình Lạp,2003:162). Cuộc mưu sinh hằng ngày của họ vốn đã vất vả nay lại càng vất vả hơn như lời than vãn của bác thịt trâu: “Sáng nào chả hộc tốc đạp xe đạp vào tận tỉnh Hà Đông hơn mười cây số mà trời đông tháng giá này thì phải biết. Nhất là khi quay xe trở ra, mình phải đạp ngược lại với ngọn gió bấc lạnh buốt thấu xương. Lại phải đèo thêm mấy chục cân thịt trâu trên xe nữa… đạp xe mà như đẩy xe bò. Nặng ghê!” (Nguyễn Đình Lạp,2003:168). Đâu chỉ thế thôi, họ còn phải giành giật để mua được thịt. “Nếu không khôn khéo và chịu đút lót một chút thì có hòng đấy mà mua được” (Nguyễn Đình Lạp,2003:168) chứ nói chi đến việc mua bán kiếm lời. Vậy mà nay, cái chính sách bất thình lình ấy của bọn thực dân đã khiến những người vì kế sinh nhai mà phải làm ăn lén lút, để rồi bị khám xét, bị bắt bớ khiến cho cuộc sống của những người dân nghèo càng điêu đứng hơn. Bên cạnh thế giới của những người buôn thúng bán mẹt, những người đồ tể, “Ngoại ô” và “Ngõ hẻm” còn tập trung phác hoạ góc đời đen tối của những cô gái buôn son bán phấn. Đó là những cô gái điếm, những ả đầu tập trung trong bốn mươi ba căn nhà ở Ngõ Vạn Thái. Họ là một thành phần trụ cột tạo nên cái thị trường to lớn, nhộn nhịp của Ô Cầu Dền giữa lúc đêm khuya. Họ cũng sinh nhai bằng một cái nghề hẳn hoi đấy chứ. Đó là “ái nghề bán ái tình” (Nguyễn Đình Lạp,2003:111). Nghe qua cứ tưởng đó là cái nghề nhàn nhã, chỉ có thu lời chứ không bao giờ lỗ vốn. Nhưng thực chất, cuộc đời họ cũng chẳng sung sướng gì hơn những người mua gánh bán bưng. Tuy cái nghề ấy không phải đổ nhiều mồ hôi, nhưng cũng sôi không ít nước mắt. Cứ nhìn cảnh đời của cô đầu Huệ, người đọc sẽ hiểu bao nỗi cơ cực, chua xót của kiếp gái giang hồ. Họ “luôn bị vùi dập, giầy vò bởi mụ chủ , bởi khách chơi, bởi bạn đồng nghề” (Nguyễn Đình Lạp,2003:111). Cô đầu Huệ đã bao lần “rơm rớm nước mắt chực khóc” (Nguyễn Đình Lạp,2003:111) khi nghĩ tới cảnh ngộ của mình. Cô cặp với tham Nhân thì bị cô Vượng - người bạn đồng nghề và cũng là người tình cũ của tham Nhân đánh ghen vì nghĩ rằng cô Huệ giật mối của mình. Bạn đồng nghề đã không thể thông cảm lại còn giành giật canh khoé nhau nhưng suy cho cùng, tất cả cũng chỉ vì muốn duy trì sự sống, họ đành phải sống ích kỉ với nhau. Những người cùng hội cùng thuyền đã không tình nghĩa, những khách làng chơi lại còn tệ bạc hơn. Kết quả của trận đánh ghen ấy, cô đầu Huệ “ốm lừ khừ đến hàng tháng” (Nguyễn Đình Lạp, 2003: 112). Cô không có tiền trị bệnh phải vay tạm của bác Vuông. Vậy mà lão Tham Nhân lại cút thẳng, không hề đoái hoài đến cô đã vì ông ta mà bị đánh. Nhưng đó cũng là sự thường đối với những người đi mua ái tình, ông Tham Nhân cũng như bao khách làng chơi khác “chỉ biết vùi hoa dập liễu” (Nguyễn Đình Lạp,2003:112) chứ nào có yêu thương gì. Họ chỉ cần cái thân xác ấy phục vụ cho dục vọng đê hèn của họ chứ cần gì đến chút tình nghĩa bố thí cho những tâm hồn héo hắt trong thân xác ấy. Họ chỉ biết tàn cuộc vui thì cũng dứt tình cạn nghĩa. Còn những cô gái phải chịu số phận đau đớn như đầu Huệ: nhan sắc tàn phai, bệnh tật, bị vứt đi như đôi giầy cũ, bệnh không ai lo, đau không tiền mua thuốc. Nhưng đến khi “đỏ da thắm thịt” (Nguyễn Đình Lạp,2003:112) thì khách làng chơi lại vây quanh, yêu chiều như trước. Chẳng thế mà cô đầu Huệ “từ ngày bình phục, nhan sắc rực rỡ hẳn lên thì SVTH: Nguyễn Thị Xuân Mai 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan