Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Phân tích các đặc điểm của vùng văn hoá tây bắc...

Tài liệu Phân tích các đặc điểm của vùng văn hoá tây bắc

.PDF
52
1
72

Mô tả:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI VIỆN HỢP TÁC QUỐC TẾ BÀI THẢO LUẬN Môn: Cơ sở văn hoá Việt Nam Giáo viên: Hoàng Thị Thu Trang Nhóm thực hiện: Nhóm 2 Lớp học phần: 2013ENTI0111 Chủ đề: Phân tích các đặc điểm của vùng văn hoá Tây Bắc BẢNG ĐÁNH GIÁ THÀNH VIÊN NHÓM 2 STT Tên thành viên 1 Hoàng Việt Hưng (Nhóm trưởng) 2 Hoàng Thu Hương 3 Nguyễn Thị Hương 4 Phạm Thị Hưởng 5 Hoàng Thị Khánh Huyền Tổng hợp word 6 Nguyễn Thanh Huyền Hoàn thiện powerpoint 7 Vũ Thị Minh Khuê 8 Trần Bảo Lân 9 Lê Thị Liễu Công việc Đánh giá mức độ hoàn thành Tham gia sôi nổi, hoàn thành tốt Tham gia sôi nổi, hoàn thành tốt Tham gia sôi nổi, hoàn thành tốt Tham gia sôi nổi, hoàn thành tốt Tham gia sôi nổi, hoàn thành tốt Tham gia sôi nổi, hoàn thành tốt Điểm Tham gia sôi nổi, hoàn thành tốt Tham gia sôi nổi, hoàn thành tốt Tham gia sôi nổi, hoàn thành tốt NHÓM TRƯỞNG (Ký tên) Hoàng Việt Hưng CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc BIÊN BẢN HỌP NHÓM (Họp nhóm lần 1) Thời gian: Vào lúc…h, thứ… ngày…/4/2020 Hình thức: Họp online Thành viên tham gia: Đầy đủ, gồm: 1. Hoàng Việt Hưng 2. Hoàng Thu Hương 3. Nguyễn Thị Hương 4. Phạm Thị Hưởng 5. Hoàng Thị Khánh Huyền 6. Nguyễn Thanh Huyền 7. Vũ Thị Minh Khuê 8. Trần Bảo Lân 9. Lê Thị Liễu Thành viên vắng: Không Nội dung thảo luận: … Kết quả đạt được: … NHÓM TRƯỞNG (Ký tên) Hoàng Việt Hưng MỤC LỤC I. Giới thiệu sơ lược về vùng Tây Bắc 1 1. Đặc điểm tự nhiên 1 2. Đặc điểm dân cư 2 II. Đặc điểm văn hoá 3 1. Văn hoá ăn, mặc 1.1. Về ẩm thực 1.2. Về trang phục thuyền thống 2. Văn hoá ở, đi lại 2.1. Văn hoá ở 2.2. Văn hoá đi lại 15 15 19 3. Tôn giáo, tín ngưỡng 3.1. Tôn giáo vùng Tây Bắc 3.2. Tín ngưỡng vùng Tây Bắc 21 21 23 4. Giáo dục, lễ hội 4.1. Thực trạng giáo dục Tây Bắc 4.2. Lễ hội ở Tây Bắc 29 29 29 5. Phong tục tập quán 5.1. Ngày Tết truyền thống của một số dân tộc vùng Tây Bắc 5.2. Một số nét độc đáo trong phong tục cưới hỏi của đồng bào Tây Bắc 5.3. Tục kéo vợ của người Dao đỏ 5.4. Tục ngủ thăm của người Mường 5.5. Phong tục tang lễ của đồng bào Tây Bắc 32 32 33 34 35 36 6. Nghệ thuật: 6.1. Những điệu múa dân gian Tây Bắc: 6.2. Sinh hoạt văn hoá tín ngưỡng: 39 39 41 III. Kết luận 3 3 7 43 I. Giới thiệu sơ lược về vùng Tây Bắc: 1. Đặc điểm tự nhiên: Vùng tây bắc gồm 6 tỉnh: Lào Cai, Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Hòa Bình, Yên Bái. Vùng Tây Bắc là vùng miền núi phía tây của miền Bắc Việt Nam, có chung đường biên giới với Lào và Trung Quốc. Vùng này có khi được gọi là Tây Bắc Bắc Bộ và là một trong 3 tiểu vùng địa lý tự nhiên của Bắc Bộ Việt Nam (2 tiểu vùng kia là Vùng Đông Bắc và Đồng bằng sông Hồng). Không gian địa lý của vùng Tây Bắc hiện còn chưa được nhất trí. Một số ý kiến cho rằng đây là vùng phía nam (hữu ngạn) sông Hồng. Một số ý kiến lại cho rằng đây là vùng phía nam của dãy núi Hoàng Liên Sơn. Nhà địa lý học Lê Bá Thảo cho rằng vùng Tây Bắc được giới hạn ở phía đông bởi dãy núi Hoàng Liên Sơn và ở phía tây là dãy núi Sông Mã.  Đặc điểm địa hình: Địa hình Tây Bắc hiểm trở, có nhiều khối núi và dãy núi cao chạy theo hướng Tây Bắc - Đông Nam. Dãy Hoàng Liên Sơn dài tới 180 km, rộng 30 km, với một số đỉnh núi cao trên từ 2800 đến 3000 m. Dãy núi Sông Mã dài 500 km, có những đỉnh 1 cao trên 1800 m. Giữa hai dãy núi này là vùng đồi núi thấp lưu vực sông Đà (còn gọi là địa máng sông Đà). Ngoài sông Đà là sông lớn, vùng Tây Bắc chỉ có sông nhỏ và suối gồm cả thượng lưu sông Mã. Trong địa máng sông Đà còn có một dãy cao nguyên đá vôi chạy suốt từ Phong Thổ đến Thanh Hóa, và có thể chia nhỏ thành các cao nguyên Tà Phình, Mộc Châu, Nà Sản. Cũng có các lòng chảo như Điện Biên, Nghĩa Lộ, Mường Thanh. Lịch sử hình thành vùng Tây Bắc bắt đầu từ cách đây 500 triệu năm và đến bây giờ vẫn tiếp tục. Thuở ban đầu, vùng này là biển và chỉ có một số đỉnh ở dãy Hoàng Liên Sơn và dãy Sông Mã là nổi lên trên mặt biển. Biển liên tục rút ra xa rồi lại lấn vào suốt hàng trăm triệu năm. Trong quá trình ấy, đã có những sự sụt lún mạnh, góp phần hình thành các tầng đá phiến và đá vôi. Vào cuối đại Cổ sinh (cách đây chừng 300 triệu năm), dãy Hoàng Liên Sơn và dãy Sông Mã đã được nâng hẳn lên. Địa máng sông Đà lúc đó vẫn chìm dưới biển. Cho đến cách đây 150 triệu năm, chu kỳ tạo núi Indochina làm cho hai bờ địa máng từ từ tiến lại gần nhau, khiến cho trầm tích trong địa máng uốn lên thành những nếp uốn khổng lồ, đồng thời làm cho tầng đá vôi có tuổi cổ hơn lại trồi lên trên tầng đá phiến, tạo thành những cao nguyên đá vôi ngày nay. Trong quá trình tạo núi, còn có sự xâm nhập của macma. Kết quả là, vùng Tây Bắc được nâng lên với một biên độ đến 1000 mét. Vì là địa máng, vùng vỏ rất động của trái đất, nên Tây Bắc là vùng có nguy cơ động đất cao nhất Việt Nam.  Điều kiện khí hậu: Mặc dù nền khí hậu chung không có sự khác biệt lớn giữa các khu vực, nhưng sự biểu hiện của nó không giống nhau theo chiều nằm ngang và theo chiều thẳng đứng. Dãy núi cao Hoàng Liên Sơn chạy dài liền một khối theo hướng Tây Bắc - Đông Nam đóng vai trò của một bức trường thành ngăn không cho gió mùa đông (hướng đông bắc - tây nam) vượt qua để vào lãnh thổ Tây Bắc mà không bị suy yếu nhiều, trái với vùng Đông bắc có hệ thống các vòng cung mở rộng theo hình quạt làm cho các đợt sóng lạnh có thể theo đó mà xuống đến tận đồng bằng sông Hồng và xa hơn nữa về phía nam. Vì vậy, trừ khi do ảnh hưởng của độ cao, nền khí hậụ Tây Bắc nói chung ấm hơn Đông Bắc, chênh lệch có thể đến 2-3 OC. Ở miền núi, hướng phơi của sườn đóng một vai trò quan trọng trong chế độ nhiệt – ẩm, sườn đón gió (sườn đông) tiếp nhận những lượng mưa lớn trong khi sườn tây tạo điều kiện cho gió "phơn" (hay quen được gọi là "gió lào") được hình thành khi thổi xuống các thung lũng, rõ nhất là ở Tây Bắc. Nhìn chung, trong điều kiện của trung du và miền núi, việc nghiên cứu khí hậu là rất quan trọng vì sự biến dạng của khí hậu xảy ra trên từng khu vực nhỏ. Những biến cố khí hậu ở miền núi mang tính chất cực đoan, nhất là trong điều kiện lớp phủ rừng bị suy giảm, và lớp phủ thổ nhưỡng bị thoái hoá. Mưa lớn và tập trung gây ra lũ nhưng kết hợp với một số điều kiện thì xuất hiện lũ quét; hạn vào mùa khô thường xảy ra nhưng có khi hạn hán kéo dài ngoài sức chịu đựng của cây cối. . Đặc điểm dân cư: 2  Tây Bắc là một vùng đa dạng về thành phần dân tộc. Theo số liệu tổng điều tra dân số ngày 1/4/1999, Tây Bắc có trên 20 dân tộc anh em với tổng dân số 82.069.8 người Trong số đó, đông nhất là dân tộc Thái 718.424 người chiếm 32% dân số trong vùng; dân tộc Mường 551.649 người chiếm 24,8%; dân tộc Kinh 462.592 người, chiếm 20,85; dân tộc Hmông 289.000 chiếm 13%; dân tộc Dao 68.791 người chiếm 3%; dân tộc Khơmú 24.845 ngưòi chiếm 1,1%; dân tộc Tày 22.713 ngươi chiếm 1%; dân tộc Xinh mun 17.985 người; dân tộc Kháng 10.114 người; dân tộc Lự 9.567 người; dân tộc Giáy 9.098 người; dân tộc La Ha 6.825 người; dân tộc Lự 4.443 người; dân tộc Hoa 3.164 người; dân tộc Mảng 2.636 người; dân tộc Cống 1.669 người; dân tộc Nùng 969 người; dân tộc Si La 800 người; dân tộc Thổ 736 người. Sự phân bố các dân tộc vùng Tây Bắc: Trên đại thể, Tây Bắc hình thành 3 vùng cảnh quan rõ rệt. Đó là vùng thung lũng lòng chảo thấp, nơi cư trú của các tộc người thuộc nhóm ngôn ngữ Việt-Mường, TháiKađai; vùng giữa hay các sườn núi là nơi sinh sống của các tộc người thuộc nhóm ngôn ngữ Môn-Khmer và vùng cao hay rẻo núi cao là nơi cư trú của các tộc người thuộc nhóm ngôn ngữ Mông-Dao, Tạng Miến. Chính các vùng cảnh quan trên đã hình thành nên những truyền thống của các tộc người trong quá trình thích ứng với môi trường, sinh tồn và phát triển có nhiều nét đặc thù về văn hoá ở khu vực này. Một số dân tộc điển hình ở Tây Bắc sinh sống tại các tỉnh Lai Châu; Sơn La; Điện Biên được phân bố như sau: Tỉnh Lai Châu có 20 dân tộc anh em chung sống, là tỉnh có số dân tộc thiểu số đông nhất trong 64 tỉnh, thành phố trong cả nước. Trong số đó, dân tộc Thái có số lượng đông nhất 206.001 người chiếm 35,1% dân số trong tỉnh, xếp thứ hai là dân tộc Hmông 170.460 người, chiếm 29,0%, sau đó là dân tộc Kinh 99.094 người. Ba dân tộc có dân số từ 10 nghìn đến 40 nghìn người là dân tộc Dao; Khơ mú; Hà nhì. Mười dân tộc có số dân từ 1 nghìn người đến dưới 10 nghìn người là các dân tộc: Giáy; La Hủ; Lào; Lự; Kháng; Hoa; Mảng; Cống; Xinh mun; Tày, số còn lại là các dân tộc dưới 1 nghìn người. o Tỉnh Điện Biên tính đến 12/2005 có 83.536 ngưòi, gồm nhiều dân tộc, trong số đó dân tộc Hmông có 40.571 người chiếm 48,57 %; Dân tộc Thái có 24.500 người chiếm 29,33 %. o Tỉnh Sơn La, dân tộc Thái có 48.2985 người; dân tộc Hmông 11.4578 người; dân tộc Xinh mun 1.6654 ngưòi; dân tộc Khơ mú 9950 người. o Trong bức tranh toàn cảnh của sự phân bố tộc người, chúng ta thấy tại các tỉnh Lai Châu, Điện Biên, Sơn La của Tây Bắc, dân tộc Thái và dân tộc Hmông có số dân cư trú đông nhất. II. Đặc điểm văn hoá: 1. Văn hoá ăn, mặc: 3 1.1. Về ẩm thực: Trong văn hóa ẩm thực, người Tây bắc  giản dị, không mâm cao, cỗ đầy, không nem công, chả phượng. Người ta chú ý đến hương vị, cái chất của món ăn mà ít chú ý đến mỹ thuật bày biện, màu sắc của món ăn. Họ xem ăn uống là dịp để thể hiện phong cách ứng xử trong sinh hoạt cộng đồng, không lấy ăn uống làm chính mà lấy sự vui làm trọng. Thông qua việc ăn uống, người Tây Bắc thể hiện phong cách ứng xử trong sinh hoạt cộng đồng. Ăn uống là một cách bày tỏ tình cảm, lấy làm nguồn vui trong cuộc sống. Do sự ảnh hưởng của những điều kiện về địa lí, tự nhiên, lịch sử và đặc biệt là sự hòa hợp của nhiều dân tộc trong văn hóa đã khiến cho ẩm thực Tây Bắc trở nên đa dạng phong phú, mang nét độc đáo riêng.  Đặc điểm ẩm thực của từng dân tộc.  Dân tộc Tày vùng Tây Bắc: - - Người Tày ăn cơm gạo tẻ nên trên đồng ruộng cũng chủ yếu trồng lúa tė. Ngoài bữa cơm té và các hoa mầu lương thực, thỉnh thoảng các gia đình vẫn nẩu cơm nếp, đồ xôi. Nhưng gạo nếp thường chủ yếu dùng để chế biến các loại xôi, bánh như một hương vị đặc trưng cho các kỳ tết, lễ nghi. Ngoài ra vào tháng 9, trong bữa cơm hång ngày còn có cốm. Người Tày ăn cốm với đường phên, đường cát, đô, bột quả hồng khô, với thịt vịt băm nhỏ rang thom... Cùng với chế biến các món ăn từ lương thực, người Tày còn chế biến các món ăn từ thịt, cá, xào nấu rau, măng, .. 3 Người Tày đã liệt kê các món khoái khẩu của mình như sau: "Đông nhựa nạn Bán nựa ma Nặm pín pha Nà phắc chắm" Nghĩa là: Rừng: thịt hươu Làng: thịt chó Nước: ba ba Ruộng: chua me  Dân tộc Thái vùng Tây Bắc: - Theo đúng truyền thống, thì lúa nếp là gạo, xôi là cơm trong bữa ăn của dân tộc Thái. Mặc dù hiện nay truyền thống đó đã phần nào thay đổi và người Thái đã biết dùng gạo tẻ. 4 - - Phương pháp chế biến mỏn ăn của người Thái chỉ dựa vào kinh nghiệm từ ngàn xưa, được lưu giữ từ đời này qua đời khác, không có trường lớp nào truyền day. Chính điều này đã khiếncho những món ăn của người Thái không thể lẫn với bất kỳ dân tộc nào khác. Khi chế biến các món ăn, người Thái hoàn toàn không dùng dầu mỡ và rất chú trọng tới việc điều phối các vị đắng cay - mặn - chát. Những vị này được phối hợp hài hòa khiến thực khách cảm thấy vừa miệng, không có cảm giác ngấy, ngán khi ăn những món nướng, luộc, hấp, hun khói,.... Người Thái ưa cái đậm, cái mạnh và cái vững. Vì thế, món ăn được ưa chuộng là món nướng rồi lại đồ. Đó là món lam nhọ. Lam là nướng, nhọ là nhừ (dư). Kỹ thuật nấu đặc trưng: Nấu cách thủy. Những món ăn của dân tộc Thái thoáng qua thì thấy mộc mạc, giản dị song quan sát kỹ thì lại rất cầu kỳ. Cầu kỳ cả trong nguyên liệu lẫn cách chế biến. Có thể nói, những món ăn của người Thái là một sự gia công đúng mực về kỹ thuật và nghệ thuật.  Dân tộc Nùng vùng Tây Bắc: Người Nùng chủ yếu ăn cơm gạo tẻ và được nấu tương tự như các dân tộc khác. Ngoài ra, họ rất thích ăn loại chảo gạo tẻ đặc gọi là "chúc cạn. Vào mùa hè bữa trưa ngoài nồi cơm tẻ, ở các gia đình thường có thêm một nồi cháo đặc. Cơm nếp không được dùng thường xuyên như người Thái nhưng người Nùng cũng là một dân tộc hay ăn cơm nếp. Cách thức chế biến rau xanh, thịt cá cũng có những nét độc đáo. Người Nùng ít ăn món luộc, các món rau thưởng được xảo khan với mỡ, Thịt, cá thi phổ biến là món rán, nấu, hầm cách thuỷ, ít làm món kho mặn. Đặc biệt, người Nüng không ăn thịt trâu, thịt bò, thịt chó.  Dân tộc H'Mông vùng Tây Bắc: Đối với đồng bào Mông, hång ngày, bữa ăn sáng là bữa phụ, hai bữa chính là trưa và tối. Lương thực chủ yếu của họ là ngô. Vì thế, đồ bột ngô ăn thay cơm gạo là một đặc điểm trong ẩm thực của người Mông, đồng bào gọi là "mà cử" (com ngô). Bột ngô được ăn cùng với nước canh, rau, thịt và các thức ăn khác. Món ăn của người Mông mang đậm chất du canh du cư. Món cơm mèn mén bằng bắp ngô là món mà không hư thiu. một người Mông có thể mang đi để dành ăn hàng tháng mà Bên cạnh đó, món ăn phổ thông được đồng bào Mông ưa dùng là đỗ tương xay thành bột đun sôi, cho it nước chua và rau vào nấu chín làm canh. Các loại thịt thì được nấu nướng hoặc ham nhừ với gia vị. Một nét đặc trưng trong cách chế biến thức ăn của dân tộc H'Mông là thịt để dành lâu ngày được ướp muối, phơi hoặc sấy khô trên gác bếp. Đông bào H'Mông cũng sử dung các loại rau từ tự nhiên. Các loại rau rừng như bò khai, rau ngót rừng, các loại nấm, mãng, hoa chuối, lõi non thân. 5  Các đặc sản ẩm thực của vùng. Từ lâu Tây Bắc đã nổi tiếng là nơi có nhiều đặc sản độc đáo. Đối với những du khách miền xuôi, nơi đây quả là thiên đường ẩm thực với võ vàn những mòn ăn phong phú hấp dẫn. Xin giới thiệu mọi người một số thông tin về những món ăn ngon thuộc hàng đặc sản Tây Bắc Bộ, những sản vật đã làm nên đặc trưng của riêng núi rừng nơi đây. Món ăn đầu tiên phải nhắc đến là đặc sản chế biến từ trâu là: MÓN CANH DA TRÂU Những tấm da trâu- phần không thể thiếu trong việc chế biến món canh da trâu RƯỢU SÂU CHÍT Đây là loại rượu phổ biến nhất ở vùng phía tây bắc tổ quốc...các dân tộc như Dao, Nùng, Tày, Thái, Giáy…đều sử dụng nó.... Về tên gọi theo như người dân địa phương thì Thức uống này còn có tên gọi khác là Bạch trùng thảo, Đông trùng hạ thảo. CƠM LAM 6 Có lẽ những ai đã từng đến Tây Bắc thì không thế quên được hương vị của cơm lam, một chút nhẹ nhàng thanh thoát tinh tế khác hẳn cơm lam ở hà nội hay đâu đó. 7 CHÉO – MÓN ĂN ĐẬM ĐÀ HƯƠNG VỊ TÂY BẮC: Hầu như không có bữa ăn nào quan trọng của người Thái lại thiếu được Chéo, giống như một dạng muối vừng với người Kinh.,1 loại gia vị hấp dẫn một thứ bột mùi thơm hăng hắc nhưng lại dịu như vị ô mai và phảng phất chất núi rừng, thơm cay nồng nàn như hương hồi, quế. Và còn rất nhiều món thú vị khác như: Món cá nướng, Món gà luộc chấm chéo tắp, thịt khô, mắc khén, mác mật, táo mèo,..... Tây Bắc còn có rất nhiều đặc sản nổi tiếng khác mà khó có thể liệt kê hết được. Nếu cỏ dịp ghé thăm Tây Bắc, bạn nên thử qua tất cả những món này, hoặc mua về làm quà cho người thân cũng rất thích hợp. Những món đặc sản này không chỉ mới lạ, thực tế mà còn giàu ý nghĩa khi không chỉ là món ăn mà nhiều khi còn có tác dụng lớn trong việc tăng cường sức khỏe cho bạn và gia đình nữa. 1.2. Về trang phục thuyền thống: Mỗi dân tộc đều có cách làm đẹp riêng, phù hợp với phong tục tập quán, quan niệm thẩm mỹ, địa bàn cư trú…, nhưng tất cả đều phục vụ mục đích: làm tăng sự khỏe mạnh, duyên dáng, nổi bật chủ thể con người giữa thiên nhiên hùng vĩ.   Dân tộc Tày: Có dịp đi tour du lịch đến vùng Tây bắc, hẳn bạn sẽ bắt gặp những trang phục nhiều màu sắc khá đẹp của các dân tộc. Nhưng chắc chắn đến Hà Giang, tận mắt ngắm những trang phục của người Tày, hẳn bạn sẽ thấy ấn tượng hơn cả, bởi nét giản dị đặc trưng, nhưng tinh tế, có chút nền nã và có điểm nhấn rất riêng. 8 So với những trang phục của các dân tộc khác thì người Tày ăn mặc khá giản dị, họ không chọn màu sặc sỡ như người Mông, người Dao,…và rất ít hoa văn trang trí. Những bộ quần áo đều được dệt thủ công khéo léo, bền chắc. Với nam giới, người Tày thường mặc quần chân què, phần đũng được may rộng, áo ngắn năm thân, cổ đứng. Bên cạnh đó cũng có một số người mặc áo dài có vạt áo dài quá đầu gối và loại áo tứ thân xẻ ngực, cổ tròn. Với nữ giới, họ mặc áo cánh, áo dài năm thân, thắt lưng, quần váy, khăn đội đầu mỏ quạ, đi giày vải. Những ngày có lễ hội, những cô gái người Tày thường mặc áo có cánh màu trắng bên trong điều này để phân biệt với người Nùng mặc áo chàm. Thêm một điều độc đáo nữa ở trang phục phụ nữ người Tày là nón được thiết kế độc đáo, được lợp từ tre vót nan có mái nóng rộng, đi kèm đó là nhiều đồ trang sức như vòng tay, cổ bằng bạc, có khi họ còn đeo túi vải bên mình. Với người Tày họ cũng chú ý tới những họa tiết trong trang phục. Đó là những sự cách điệu khá giản dị gồm các hình họa, hình rau bầu, bí, hoặc nhiều cây khác. Vì trang phục chỉ màu chàm và trắng nên những họa tiết được họ tinh tế gài vào từng đoạn. 9 Ngày nay, khi ở cuộc sống lao động đời thường những người Tày đã mua và sử dụng nhiều quần áo may sẵn. Nhưng đến những lễ hội thì họ chọn trang phục truyền thống của mình, đó cũng chính là nét độc đáo trong văn hóa bao đời của dân tộc Tày.  Dân tộc Nùng: Bộ y phục của người Nùng được cắt may từ vải đen nhuộm chàm, phần lớn chúng không có nhiều hoa văn và đường nét. Đặc biệt, nam nữ người Nùng đến tuổi trưởng thành đều bịt một chiếc răng bằng vàng ở hàm trên và như thế được xem là làm đẹp, là người sang trọng. Từ xưa tới nay, cả nam và nữ đều mặc một loại quần cạp to, ống rộng, dài tới tận mắt cá chân và các đường viền chỉ màu tập trung rõ nhất ở tà và gấu áo. Nam giới người Nùng thường mặc áo dài ngang hông, tứ thân, may áo gần sát người, tay áo dài và rộng, cổ áo khoét tròn, áo có 7 cúc và thường có 4 túi hoặc 2 túi. Phụ nữ Nùng mặc áo năm thân màu chàm, áo ngắn đủ che mông, áo được may rất rộng cả phần thân và tay, giúp cho cử động được thoải mái. Chiếc áo của phụ nữ Nùng được trang trí bằng cách thêm miếng vải khác màu vào cổ tay áo và phía trước ngực, thông thường là vải đen đắp lên áo chàm. 10 Ngày nay, họ mặc cả loại áo 5 thân và 4 thân. Áo ngắn 4 thân có cổ áo tròn, xẻ ngực, nẹp và gấu áo rộng, hai túi nhỏ ở vạt trước, cài 9 hàng cúc vải ở nẹp áo. Loại áo này phần lớn dùng mặc trong nhà, đi lao động hay mặc trong áo dài năm thân. Chỉ riêng nhóm Nùng Dín thì áo ngắn 4 thân lại là loại áo mặc chính, còn loại áo 5 thân may ngắn, chỉ vừa che kín bụng, dùng mặc trong nhà, khi đi ngủ, mặc lót trong loại áo 4 thân khi đi ra khỏi nhà. Màu sắc trên trang phục dân tộc Nùng cũng khá đa đạng, từ màu xanh nhạt, đến xanh thẫm, tím than, xanh đen rồi phổ biến nhất là màu chàm. Bên cạnh áo, váy cũng là một bộ phận quan trọng, tạo nên nét đặc sắc của trang phục truyền thống Nùng. Váy của người Nùng phân rõ thành cạp váy, giải buộc váy,  thân váy và gấu váy. Nhiều khi họ gọi cạp váy là đầu váy, còn gấu váy là chân váy. Thân váy được ghép lại từ 4 mảnh, gấu váy được đáp thêm vải khác màu, vừa cho gấu váy cứng vừa làm đẹp. Khi mặc, người ta gấp phần váy thừa ra phía trước hoặc phía hông. Khi đi chợ, đi thăm viếng, người ta để gấu váy phủ thấp chấm mắt cá chân, còn khi đi làm thì kéo gập váy lên cao cho tiện và sạch sẽ hơn.  Dân tộc Thái: Để tạo ra một bộ y phục Thái, không chỉ là công sức trồng bông, chăn tằm, dệt vải, nhuộm màu, cắt may, thêu, người Thái còn phải giỏi nghề kim hoàn tạo ra các đồ trang sức đeo trên người như vòng cổ, vòng tay, hoa tai, trâm, xà tích, cúc bạc... Khuyên tai của dân tộc Thái đen Cũng như nhiều dân tộc khác, trang phục của phụ nữ Thái thể hiện rõ nhất bản sắc văn hóa dân tộc. Một bộ trang phục nữ Thái gồm: áo ngắn (xửa cỏm), áo dài (xửa chái và xửa luổng), váy (xỉn), thắt lưng (xải cỏm), khăn (piêu), nón (cúp), xà cạp (pepăn khạ), các loại hoa tai, vòng cổ, vòng tay, xà tích.. Phụ nữ Thái còn mặc hai loại áo dài là xửa chái và xửa luổng. Xửa chái may bằng vải chàm đen, kiểu áo 5 thân, cài cúc phía bên tay trái, cổ đứng, gấu áo phủ quá đầu gối. Theo tục lệ, phụ nữ có chồng mới mặc xửa chải vào dịp cưới xin, hội hè. Xửa luổng là áo khoác ngoài, may dài, rộng, chui đầu, có tay hoặc không có tay. Phụ nữ Thái từ khi còn trẻ đã may loại áo này, một dành cho bản thân khi về già và một dành 11 biếu mẹ chồng khi về làm dâu. Các cụ già mặc áo xửa luổng lộn trái vào ngày thường, chỉ khi chết mới mặc mặt phải.     Thái Đen: Thường nhật phụ nữ Thái Đen mặc áo ngắn (xửa cóm) màu tối (chàm hoặc đen), cổ áo khác Thái Trắng là loại cổ tròn, đứng. Đầu đội khăn gọi là "piêu" thêu hoa văn nhiều mô-típ trang trí mang phong cách từng mường. Váy là loại giống phụ nữ Thái Trắng đã nói ở trên. Lối để tóc khi có chồng búi lên đỉnh đầu gọi là "Tằng cẩu";khi chồng chết có thể búi tóc thấp xuống sau gáy ; chưa chồng không búi tóc. Trong lễ, tết áo dài Thái Đen đa dạng với các loại xẻ nách, chui đầu, trang trí phong phú đa dạng về màu và mô-típ hơn Thái Trắng. Nói về bộ trang phục nữ Thái không thể thiếu chiếc khăn piêu. Chiếc khăn piêu được các cô gái Thái thêu thùa rất cầu kì, nó thể hiện sự khéo léo của mỗi cô gái. Piêu tết 3 sừng là piêu thường dùng, piêu tết 5 hay 7 sừng là piêu sang, dùng làm quà biếu, đội lúc bản mường có hội hè, cưới xin.  Khăn Piêu là đặc trưng của người dân tộc Thái với đường nét tinh sảo và hoa văn mang đậm chất núi rừng hoang sơ cùng màu sắc sặc sỡ, nó thể hiện tình yêu, sức mạnh nữ tính thật quyến rũ. chiếc khăn piêu của người thái So với nữ thì nam phục Thái đơn giản hơn, ít chứa đựng sắc thái tộc người và cũng biến đổi nhanh hơn. Trang phục nam giới gồm: áo, quần, thắt lưng và các loại khăn. Áo nam giới có hai loại, áo cánh ngắn và áo dài. Áo ngắn may bằng vải chàm, kiểu xẻ ngực, tay dài hoặc ngắn, cổ tròn. Khuy áo làm bằng đồng hay tết thành nút vải. Áo không có trang trí hoa văn chỉ trong dịp trang trọng người ta mới thấy nam giới Thái 12 mặc tấm áo cánh ngắn mới, lấp ló đôi quả chì (mak may) ở đầu đường xẻ tà hai bên hông áo... Trang phục Thái phản ánh rõ nét đặc điểm của cư Nam Tiên tiến đậm đà bản sắc dân nông nghiệp trồng trọt, sự chinh phục, tìm tòi các dân tộc. nguyên liệu trong thiên nhiên để tạo ra trang phục đáp ứng cho nhu cầu cuộc sống. Trang phục vượt qua cả giá trị vật chất thuần túy của nó thể hiện lối sống, quan niệm thẩm mỹ, đạo đức, tư tưởng xã hội, tín ngưỡng... Nó phản ánh mối quan hệ hài hòa giữa con người và thiên nhiên, đồng bào Thái nơi đây đã đưa vào trang phục của mình những hoa văn là cả một thế giới động, thực vật phong phú. Do xen kẽ của các nhóm Thái khác nhau mà trang phục của họ phần nào cũng thể hiện ảnh hưởng của nhau. Nhưng tất cả họ đều rất tự hào về bản sắc riêng của mình và không ngừng bảo tồn, phát huy, phát triển những giá trị văn hóa truyền thống tộc người. Góp phần xây dựng nền văn hóa Việt  Dân tộc Dao: So với các dân tộc khác thì dân tộc Dao được coi là còn giữ được nhiều nét bản sắc của mình với chất liệu bằng vải bông nhuộm chàm, màu xanh, đỏ, đen, tím than hoặc để trắng. Tộc người Dao đỏ đội khăn đỏ, đeo những bông hoa đỏ trước ngực; Dao quần chẹt mặc quần ống hẹp bó sát vào chân; Dao quần trắng nổi bật là yếm rất to che kín cả ngực và bụng, ngày cưới cô dâu mặc quần trắng; Dao làn tuyển mặc áo dài, đội mũ nhỏ... Một bộ trang phục hoàn chỉnh của bằng núm bông hoa đỏ như nắm tay nổi người Dao gồm: Áo, yếm, xà cạp, cùng đồ bật trên nền áo chàm xanh đằm thắm. trang sức vàng bạc, khăn vấn đầu... Duy nhất trong cộng đồng người Dao chỉ có người Dao Tiền là mặc váy (váy của người Dao Tiền phía bắc dài hơn váy của người Dao Tiền phía nam). Áo của người Dao Tiền gồm hai thân trước, nẹp và một xỏ tà. Thường trên đó họ dùng họa tiết hình gấu, chó. Đây cũng là ý niệm xa xưa gián tiếp nhớ về thủy tổ của dân tộc Dao. Ở đó có hình Bàn Vương, con chó ngũ sắc - đã có công giết giặc được vua gả công chúa cho sinh con đẻ cái, trở thành dân tộc Dao ngày nay, áo thường có bộ khuy quý bằng bạc hình tròn chạm khắc tinh vi. Cổ áo của người phụ nữ Dao được trang trí 13 14 Yếm của người Dao khá đơn giản, chỉ là một vuông lụa trắng đính một miếng vải hình tam giác làm cổ yếm. Xà cạp có hình hoa văn móc câu hay răng cưa hình chim. Để bộ trang phục thêm hoàn mỹ, họ thường dùng nhiều loại khăn vấn đầu (có 3 loại khăn: khăn vuông, khăn chữ nhật và khăn dài). Trong đám hát ví, họ thường dùng khăn thêu trắng dài chừng 1,2m, rộng 30-40cm, hai đầu gồm hai mảng hoa văn hình vuông tạo thành cảm giác mềm mại. Ngoài trang phục chính, người phụ nữ Dao còn ưa dùng đồ trang sức làm cho bộ trang phục của mình thêm sang trọng: Vòng cổ, nhẫn, túi ăn trầu, các đồ trang sức bằng bạc hình bán cầu, hình sao 8 cánh. Có những cô gái Dao đeo 10 chiếc vòng cổ, 12 chiếc nhẫn, cùng những chiếc khuy bạc đường kính 6-7cm, nổi bật trên màu áo chàm. Vào dịp lễ hội, người phụ nữ Dao còn giữ tục chải đầu bằng sáp ong cho mái tóc nuột nà, uốn lượn. Đây cũng là một bí quyết giúp mái tóc của những cô gái Dao khỏe về sức sống, đẹp trong con mắt mọi người. Trong không khí tưng bừng của ngày Tết, lễ hội, người ta dùng điệu hát lời ca làm cuộc sống thêm thăng hoa. Đáng chú ý là bộ trang phục của cô dâu, phải mất 3 năm cô gái Dao mới hoàn thành bộ trang phục cho mình. Trang phục chú rể kín đáo, ít phô bày, thường được may bằng các loại vải màu sậm phần nào thể hiện nam tính. Riêng trang phục của ông thầy cúng có khác đôi chút, mũ được làm bằng bìa cứng, gồm nhiều bức tranh ghép lại cắt dán theo hình quả núi dài khoảng 25cm. Áo màu đen được thêu hoa văn màu đỏ.  Dân tộc H’Mông: Trang phục của người Hmông rất sặc sỡ, đa dạng giữa các nhóm. Quần áo của người Mông chủ yếu may bằng vải lanh tự dệt. Đậm đà tính cách tộc người trong tạo hình và trang trí với kỹ thuật đa dạng. Trang phục nam Hmông độc đáo khác nhiều tộc người trong khu vực; trang phục nữ khó lẫn lộn với các tộc khác bởi phong cách tạo dáng và trang trí công phu, kết hợp kỹ thuật nhuộm, vẽ sáp ong, thêu, ghéo, dệt hoa văn với kiểu váy rộng và đẹp.     Trang phục nam:    Nam thường mặc áo cánh ngắn ngang hoặc dưới thắt lưng, thân hẹp, ống tay hơi rộng. Áo nam có hai loại: năm thân và bốn thân. Loại bốn thân xẻ ngực, hai túi trên, hai túi dưới. Loại năm thân xẻ nách phải dài quá mông. Loại bốn thân thường không 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan