Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ LÝ LUẬN CỦA TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN VỀ NHÀ NƯỚC VÀ VẤN ĐỀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUY...

Tài liệu LÝ LUẬN CỦA TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN VỀ NHÀ NƯỚC VÀ VẤN ĐỀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA CỦA DÂN, DO DÂN VÀ VÌ DÂN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

.DOCX
31
1
95

Mô tả:

lO M o A R c P S D| 15 54 76 89 TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA KHOA KHOA HỌC ỨNG DỤNG BỘ MÔN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ L15_NHÓM 13_LÊ XUÂN THIÊN_MSSV: 2014566 LÝ LUẬN CỦA TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN VỀ NHÀ NƯỚC VÀ VẤN ĐỀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA CỦA DÂN, DO DÂN VÀ VÌ DÂN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY BÀI TẬP LỚN MÔN TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN Người hướng dẫn: GVC.TS. ĐỖ THỊ THÙY TRANG THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2022 ST T 1. 2. 3. 4. 5. BÁO CÁO PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ VÀ KẾT QUẢ THỰC HIỆN ĐỀ TÀI CỦA TỪNG THÀNH VIÊN NHÓM 13 BỔ SUNG CỘT KQ Họ và tên MSSV Nhiệm vụ Kết Chữ ký quả Lê Xuân Thiên 2014566 Nội dung (Một là, Hai là) Lê Huỳnh Quốc Thịnh 2014593 Phần mở đầu Đoàn Phương Thùy 2012154 Tổng hợp Lý Thanh Tiến 2014717 0 Phan Vũ Anh Tiến 2012202 Nội dung (Ba là, Kết thúc) NHÓM TRƯỞNG (ghi rõ họ tên, ký tên) MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU...........................................................................................................1 NỘI DUNG................................................................................................................... 2 CHƯƠNG 1 1.1. 1.2 CHƯƠNG 2 2.1. 2.2 I. Làm rõ các quan điểm về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong lịch sử triết học......................................................................................................................... 2 1. Quan điểm của CNDT chủ quan và CNDT khách quan về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức....................................................................................2 2. Quan điểm của CNDV trước Mác về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức.3 II. Phân tích quan điểm của triết học Mác – Lênin về mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức...........................................................................................6 1. Lý luận của triết học MÁC-LÊNIN về vật chất..........................................6 2. Lý luận của triết học MÁC-LÊNIN về ý thức:..........................................11 3. Mối quan hệ biện chứng giữ vật chất và ý thức........................................14 4. Ý nghĩa phương pháp luận của mối quan hệ giữa vật chất và ý thức........16 III. Vận dụng mối quan hệ giữa vật chất và ý thức vào công cuộc đổi mới của đất nước.....................................................................................................................17 1. Khái quát chung về công cuộc đổi mới đất nước do ĐCSVN lãnh đạo:. . .17 2. Đảng đã vận dụng mối quan hệ giữa vật chất và ý thức vào công cuộc đổi mới đất nước như thế nào.............................................................................23 KẾT LUẬN................................................................................................................27 Tài Liệu Tham Khảo:..................................................................................................28 A. PHẦN MỞ ĐẦU CANH GIỮA Mục tiêu của Đảng và Nhà nước ta là làm sao để cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh, theo đúng như những gì mà Bác Hồ luôn mong mỏi: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho đất nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do,đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”. Bởi vậy, Đảng và Chính phủ luôn đặt nhiệm vụ xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và phát triển kinh tế lên hàng đầu. Tuy nhiên, làm thế nào để thực hiện tốt nhiệm vụ đó thì Đảng ta đã chỉ ra rằng phải lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng, làm kim chỉ nam cho mọi hoạt động. Ngày nay, triết học là một bộ phận không thể tách rời với sự phát triển của bất cứ hình thái kinh tế nào. Những vấn đề triết học về mối quan hệ biện chứng giữa ý thức và vật chất luôn là cơ sở, là phương hướng cho hoạt động thực tiễn, xây dựng và phát triển xã hội. Với tư cách là sinh viên, là công dân của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, qua bài tiểu luận này, nhóm em muốn tìm hiểu kĩ hơn về Triết học MácLênin, cụ thể đó là mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức, vận dụng mối quan hệ này trong công cuộc đổi mới đất nước ở Việt Nam hiện nay. Trong quá trình thực hiện đề tài, em đã sử dụng nền tảng lý thuyết từ Tài liệu hướng dẫn ôn tập môn học Triết học Mác – LêNin của Khoa Khoa học ứng dụng Trường Đại học Bách Khoa Thành phố Hồ Chí Minh. Mặc dù nhóm đã rất cố gắng, nhưng chắc chắn sẽ không tránh khỏi những sai sót, nhóm em rất mong nhận được sự góp ý quý báu của cô để bài tiểu luận của nhóm em được hoàn thiện hơn. 1 B. NỘI DUNG C. CHƯƠNG, VIẾT HOA, CANH GIỮA I. Làm rõ các quan điểm về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong lịch sử triết học. 1. Quan điểm của CNDT chủ quan và CNDT khách quan về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức Việc giải quyết mặt thử nhất vấn đề cơ bản của triết học đã chia các nhà triết học thành hai trường phái lớn: CNDV và CNDT. CNDT có 2 hình thức là CNDT khách quan và CNDT chủ quan. Cả CNDT khách quan và CNDT chủ quan đều đứng trên lập trường triết học duy tâm. Tức là quan niệm rằng ý thức, tinh thần là tính thứ nhất, vật chất là tính thứ hai.Ý thức tinh thần là cái có trước, là nguồn gốc và quyết định vật chất. Chủ nghĩa duy tâm CHỦ QUAN- CNDT chủ quan phủ định sự tồn tại của thế giới khách quan, khẳng định mọi sự vật hiện tượng chỉ là phức hợp những cảm giác của cá nhân, của chủ thể nhận thức là chính con người tuyệt đối hoá vai trò tích cực của chủ thể trong các lĩnh vực hoạt động khác nhau. Những người theo CNDT chủ quan cho rằng thế giới bên ngoài (hiện thực) chỉ là cảm giác, trị giác, biểu tượng, ý thức của cá nhân, của chủ thể và không tồn tại bên ngoài ý thức của chủ thể. Ví dụ: Các đại diện cổ điển của CNDT chủ quan là Beckoly (G. Berkeley), Hium (D.Hume), Fichtơ (J. G Fichte). Ngay cả Kantơ (I. Kant) cũng phát triển những tư tưởng của CNDT chủ quan Chủ nghĩa duy tâm KHÁCH QUAN – CNDT khách quan cũng thừa nhận tính thứ nhất của ý thức, tính thử 2 của vật chất nhưng theo họ, cái ý thức đó không phải là ý thức của chính con người mà là ý thức của các lực lượng bên ngoài con người. Nó là thứ tinh thần khách quan có trước và tồn tại độc lập với con người. Thực thể tinh thần khách quan này thường mang những tên gọi khác nhau như "ý niệm", "ý niệm tuyệt đối", như "tinh thần tuyệt đối", "lí tính thế giới", vv. Về thực chất, "tinh thần tuyệt đối" chỉ là khái niệm được tuyệt đối hoá, tách khỏi vật chất đem đối lập với vật chất. Vd: Platôn coi những khái niệm chung là vĩnh viễn tồn tại trong "thế giới ý niệm" còn các sự vật và hiện tượng của thế giới vật chất chỉ là những cái bóng mờ nhạt của ý niệm ấy. Hêghen cũng cho rằng "ý niệm tuyệt đối" tồn tại và phát triển đến mức độ nhất 2 định thì sản sinh ra thế giới vật chất, và xã hội loài người chỉ là những "tồn tại khác" của "ý niệm tuyệt đối". CNDT khách quan thưởng kết hợp với thần học và là cơ sở triết học của các tôn giáo. 2. Quan điểm của CNDV trước Mác về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức Nắm vững phép biện chứng duy vật và luôn theo sát, kịp thời khái quát những thành tựu mới nhất của khoa học tự nhiên, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác Lênin đã khắc phục được những sai lầm, hạn chế của các quan niệm duy tâm, siêu hình và nêu lên những quan điểm khoa học, khái quát đúng đắn về mặt triết học hai lĩnh vực lớn nhất của thế giới là vật chất, ý thức và mối quan hệ giữa chúng. Theo quan điểm triết học Mác - Lênin, vật chất và ý thức có mối quan hệ t: biện chứng, trong đó vật chất quyết định ý thức, còn ý thức tác động tích cực 3.C. Mặc và Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, t. 3. Sad, trị 19, 91 trở lại vật chất. Vật chất quyết định ý thức Vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức được thể hiện trên mấy khí cạnh sau: Thứ nhất, vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức. Vật chất "sinh" ra ý thức, vì ý thức xuất hiện gắn liền với sự xuất hiện của con người cách đây từ 3 đến 7 triệu năm, mà con người là kết quả của một quả trình phát triển, tiến hóa lâu đài, phức tạp của giới tự nhiên, của thế giới vật chất. Con người do giới tự nhiên, vật chất sinh ra, cho nên lệ tất nhiên, ý thức - một thuộc tỉnh của bộ phận con người - cũng do giới tự nhiên, vật chất sinh ra. Các thành tựu của khoa học tự nhiên hiện đại đã chứng minh được rằng, giới tự nhiên có trước con người; vật chất là cái có trước, còn ý thức là cái có sau; vật chất là tính thứ nhất, còn ý thức là tính thứ hai. Vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý thức và là nguồn gốc sinh ra ý thức. Bộ óc người là một dạng vật chất có tổ chức cao nhất, là cơ quan phản ánh để hình thành ý thức. Ý thức tồn tại phụ thuộc vào hoạt động thần kinh của bộ não trong quá trình phản ánh hiện thực khách quan. Sự vận động của thế giới vật chất là yếu tố quyết định sự ra đời của cái vật chất có tư duy là bộ óc người. Thứ hai, vật chất quyết định nội dung của ý thức. Ý thức dưới bất kỳ hình thức nào, suy cho cùng, đều là phản ánh hiện thực khách quan. Ý thức mà trong nội dung của nó chẳng qua là kết quả của sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong đầu óc con người. Hay nói cách khác, có thế giới hiện thực vận động, phát triển theo những quy luật khách quan của nó, được phản ánh vào ý thức mới có 3 nội dung của ý thức. Thế giới khách quan, mà trước hết và chủ yếu là hoạt động thực tiễn có tính xã hội - lịch sử của loài người là yếu tố quyết định nội dung mà ý thức phản ảnh. Các Mác và Ph. Ăngghen chỉ rõ: “Ý thức [das BewuBtsein] không bao giờ có thể là cái gì khác hơn là sự tồn tại được ý thức [das BewuBtsein]83. Ý thức chỉ là hình ảnh của thế giới khách quan. Sự phát triển của hoạt động thực tiễn cả về bề rộng và chiều sâu là động lực mạnh mẽ nhất quyết định tính phong phú và độ sâu sắc của nội dung của tư duy, ý thức con người qua các thế hệ, qua các thời đại từ mông muội tới văn minh, hiện đại. Thứ ba, vật chất quyết định bản chất của ý thức. Phản ánh và sáng tạo là hai thuộc tính không tách rời trong bản chất của ý thức. Nhưng sự phản ánh của con người không phải là “soi gương”, “chụp ảnh” hoặc là “phản ánh tâm lý” như con vật mà là phản ánh tích cực, tự giác, sáng tạo thông qua thực tiễn. Khác với chủ nghĩa duy vật cũ, xem xét thế giới vật chất như là những sự vật, hiện tượng cảm tính, chủ nghĩa duy vật biện chứng xem xét thế giới vật chất là thế giới của con người hoạt động thực tiễn. Chính thực tiễn là hoạt động vật chất có tính cải biến thế giới của con người - là cơ sở để hình thành, phát triển ý thức, trong đó ý thức của con người vừa phản ánh, vừa sáng tạo, phản ánh để sáng tạo và sáng tạo trong phản ánh. Thứ tư, vật chất quyết định sự vận động, phát triển của ý thức. Mọi sự tồn tại, phát triển của ý thức đều gắn liền với quá trình biến đổi của vật chất; vật chất thay đổi thì sớm hay muộn, ý thức cũng phải thay đổi theo. Con người - một sinh vật có tính xã hội ngày càng phát triển cả thể chất và tính thần, thì dĩ nhiên ý thức - một hình thức phản ánh của óc người cũng phát triển cả về nội dung và hình thức phản ánh của nó. Đời sống xã hội ngày càng văn minh và khoa học ngày càng phát triển đã chứng minh điều đó. Loài người nguyên thuỷ sống bầy đàn dựa vào sản vật của thiên nhiên thì tư duy của họ cũng đơn sơ, giản dị như cuộc sống của họ. Cùng với mỗi bước phát triển của sản xuất, tư duy, ý thức của con người cũng ngày càng mở rộng, đời sống tinh thần của con người ngày càng phong phú. Con người không chỉ ý thức được hiện tại, mà còn ý thức được cả những vấn đề trong quá khứ và dự kiến được cả trong tương lai, trên cơ sở khái quát ngày càng sâu sắc bản chất, quy luật vận động, phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy của họ. Sự vận động, biến đổi không ngừng của thế giới vật chất, của thực tiễn là yếu tố quyết định sự vận động, biến đổi của tư duy, ý thức của con người. Khi sản xuất xã hội xuất hiện chế độ tư hữu, ý thức chính 4 trị, pháp quyền cũng dần thay thế cho ý thức quần cư, cộng đồng thời nguyên thuỷ. Trong nền sản xuất tư bản, tính chất xã hội hoá của sản xuất phát triển là cơ sở để ý thức xã hội chủ nghĩa ra đời, mà đỉnh cao của nó là sự hình thành và phát triển không ngừng lý luận khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin. Trong đời sống xã hội, vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức được biểu hiện ở vai trò của kinh tế đối với chính trị, đời sống vật chất đối với đời sống tinh thần, tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội. Trong xã hội, sự phát triển của kinh tế xét đến cùng quy định sự phát triển của văn hóa; đời sống vật chất thay đổi thì sớm muộn đời sống tinh thần cũng thay đổi theo. Vật chất và ý thức là hai hiện tượng đối lập nhau về bản chất, nhưng về mặt nhận thức luận, cần quán triệt sâu sắc tư tưởng biện chứng của V.I. Lênin, 93 rằng “sự đối lập giữa vật chất và ý thức chỉ có ý nghĩa tuyệt đối trong những phạm vi hết sức hạn chế: trong trưởng hợp này chỉ giới hạn trong vấn đề nhận thức luận cơ bản là thừa nhận cái gì có trước và cái gì là cái có sau? Ngoài giới hạn đó, thì không còn nghi ngờ gì nữa rằng sự đối lập đó là tương đối… Ở đây, tính tương đối của sự đối lập giữa vật chất và ý thức thể hiện qua mối quan hệ giữa thực thể vật chất đặc biệt - bộ óc người và thuộc tính của chính nó. Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất. Điều này được thể hiện trên những khía cạnh sau: Thứ nhất, tính độc lập tương đối của ý thức thể hiện ở chỗ, ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất vào trong đầu óc con người, do vật chất sinh ra, nhưng khi đã ra đời thì ý thức có “đời sống” riêng, có quy luật vận động, phát triển riêng, không lệ thuộc một cách máy móc vào vật chất. Ý thức một khi ra đời thì có tính độc lập tương đối, tác động trở lại thế giới vật chất. Ý thức có thể thay đổi nhanh, chậm, đi song hành so với hiện thực, nhưng nhìn chung nó thường thay đổi chậm so với sự biến đổi của thế giới vật chất. Thứ hai, sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Nhờ hoạt động thực tiễn, ý thức có thể làm biến đổi những điều kiện, hoàn cảnh vật chất, thậm chí còn tạo ra “thiên nhiên thứ hai” phục vụ cho cuộc sống của con người. Còn tự bản thân ý thức thì không thể biến đổi được hiện thực. Con người dựa trên những tri thức về thế giới khách quan, hiểu biết những quy luật khách quan, từ đó để ra mục tiêu, phương hướng, biện pháp và ý chí quyết tâm để thực hiện thắng lợi mục tiêu đã xác định. Đặc 5 biệt là ý thức tiến bộ, cách mạng một khi thâm nhập vào quần chúng nhân dẫn – lực lượng vật chất xã hội, thì có vai trò rất to lớn. “Vũ khí của sự phê phán cố nhiên không thể thay thế được sự phê phán của vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đổ bằng lực lượng vật chất; nhưng lý luận cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất, một khi nó thâm nhập vào quần chúng”. Thứ ba, vai trò của ý thức thể hiện ở chỗ nó chỉ đạo hoạt động, hành động của con người; nó có thể quyết định làm cho hoạt động của con người đúng hay sai, thành công hay thất bại. Khí phản ánh đúng hiện thực, ý thức có thể dự báo, tiên đoàn một cách chính xác cho hiện thực, có thể hình thành nên những lý luận định hướng đúng đắn và những lý luận này được đưa vào quần chúng sẽ góp phần động viên, cổ vũ, khai thác mọi tiềm năng sáng tạo, từ đó sức mạnh vật chất được nhân lên gấp bội. Ngược lại, ý thức có thể tác động tiêu cực khi nó phản ánh sai lạc, xuyên tạc hiện thực. Thứ tư, xã hội càng phát triển thì vai trò của ý thức ngày càng to lớn, nhất là trong thời đại ngày nay, thời đại thông tin, kinh tế tri thức, thời đại của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, khi mà tri thức khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, vai trò của tri thức khoa học, của tư tưởng chính trị, tư tưởng nhân văn là hết sức quan trọng. Tính năng động, sáng tạo của ý thức mặc dù rất to lớn, nhưng nó không thể vượt quá tính quy định của những tiền đề vật chất đã xác định, phải dựa vào các điều kiện khách quan và năng lực chủ quan của các chủ thể hoạt động. Nếu quên điều đó chúng ta sẽ lại rơi vào vũng bùn của chủ nghĩa chủ quan, duy tâm, duy ý chí, phiêu lưu và tất nhiên không tránh khỏi thất bại trong hoạt động thực tiễn. II. Phân tích quan điểm của triết học Mác – Lênin về mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức. 1. Lý luận của triết học MÁC-LÊNIN về vật chất. a) Định nghĩa vật chất: Vật chất là phạm trù rất phức tạp và có rất nhiều quan niệm khác nhau về vật chất đứng trên các giác độ khác nhau. Nhưng theo Lênin định nghĩa: “ Vật chất là phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”. 6 Lênin chỉ rõ rằng, để định nghĩa vật chất, không thể làm theo cách thông thường là quy một khái niệm cần định nghĩa sang một khái niệm khác rộng hơn vì khái niệm vật chất là một khái niệm rộng nhất. Để định nghĩa vật chất, Lênin đó đối lập vật chất với ý thức, hiểu vật chất là thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, vất chất tồn tại độc lập đối với cảm giác, với ý thức, còn cảm giác, ý thức phụ thuộc vào vật chất, phản ánh vật chất. Khi định nghĩa: “Vật chất là một phạm trù triết học”, Lênin một mặt muốn chỉ rõ vật chất là một khái niệm rộng nhất, rộng vô hạn, muốn phân biệt vật chất với tư cách là một phạm trù triết học, là kết quả của sự khái quát và trừu tượng, với những dạng vật chất cụ thể, với những “hạt nhỏ” cảm tính. Vật chất với tư cách là phạm trù triết học không có những đặc tính cụ thể có thể cảm thụ được. Định nghĩa vật chất như vậy khắc phục được những quan niệm siêu hình của chủ nghĩa duy vật cũ, đồng nhất vật chất với hình thức biểu hiện cụ thể của nó. Lênin đã cho rằng bản chất vốn nó cú tự cú, không do ai sinh ra, không thể tiêu diệt được, nó tồn tại bên ngoài và không lệ thuộc vào cảm giác, ý thức con người, vật chất là một thực tại khách quan, khác với quan niệm: “Ý niệm tuyệt đối”. của chủ nghĩa duy tâm khách quan” Thượng đế” của tôn giáo. “Vật tự nó không thể nắm được” của thuyết không thể biết, vật chất không phải là lực lượng siêu tự nhiên tồn tại lơ lửng ở đâu đó. Trái lại phạm trù vật chất là kết quả của sự khái quát các sự vật, hiện tượng có thật, hiện thực, và do đó các đối tượng vật chất có thật, hiện thực đó có khả năng tác động vào giác quan để gây ra cảm giác và nhờ đó mà ta có thể biết được, nắm bắt được đối tượng này. Định nghĩa vật chất của Lênin đó khẳng định được câu trả lời của chủ nghĩa duy vật về cả hai mặt cơ bản của triết học, phân biệt về chủ nghĩa duy tâm chủ quan và chủ nghĩa duy tâm khách quan cũng như thuyết không thể biết. Hơn thế nữa Lênin cũn khẳng định, cảm giác chép lai chụp lại phản ánh vật chất, nhưng vật chất tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác. Khẳng định như vậy một mặt Lênin muốn nhất mạnh tính thứ nhất của vật chất, vai trò quyết định của nó với ý thức, và mặt khác khẳng định phương pháp và khả năng nhận thức thế giới khách quan của con người. Điều này không chỉ phân biệt chủ nghĩa duy vật, với chủ nghĩa 7 duy tâm, với thuyết không thể biết mà còn phân biệt chủ nghĩa duy vật với nhị nguyên luận. Như vậy, chúng ta thấy rằng định nghĩa vật chất của Lênin là một định nghĩa toàn diện và triệt để nó giải đáp được cả hai mặt vấn đề cơ bản của triết học trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng, phân biệt về nguyên tắc với chủ nghĩa duy tâm, bất khả trị luận, nhị nguyên luận. Đồng thời nó cũng khắc phục thiếu sót, siêu hình, hẹp hòi trong quan niệm về vật chất của chủ nghĩa duy vật cũ. Định nghĩa vật chất của Lênin cũn giúp chúng ta nhân tố vật chất trong đời sống xã hội, đó là tồn tại xã hội, và nó cũn có ý nghĩa trực tiếp định hướng trong nghiên cứu khoa học tự nhiên, giúp khoa học tự nhiên ngày càng đi sâu vào nghiên cứu dạng cụ thể của vật chất trong giới vĩ mô. Nó cũng giúp chúng ta có thái độ khách quan và đòi hỏi chúng ta phải xuất phát từ thực tế khách quan trong suy nghĩ và hành động. b) Các đặc tính của vật chất: Vận động là phương thức tồn tại của vật chất và là thuộc tính cố hữu của vật chất. Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng vận động là mọi sự biến đổi nói chung chứ không phải là sự chuyển định vị trí trong không gian, Anghen cho rằng vận động là một phương thức tồn tại của vật chất, là thuộc tính cố hữu của vật chất nó bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy. Vận động có nhiều hình thức trong đó có 5 hình thức vận động cơ bản: Thứ nhất vận động cơ học (Di chuyển vị trí của các vật thể trong không gian); thứ hai: Vận động vật lý (vận động của các phân tử, các hạt cơ bản, vận động điện tử, các quá trình điện nhiệt…); thứ ba: Vận động hoá học (vận động của các nguyên tử, các quá trình hoá hợp và phân giải các chất); thứ tư: Vận động sinh học (trao đổi chất giữa cơ thể sống và môi trường); thứ năm: Vận động xã hội (Sự biến đổi thay thế của các hình thái kinh tế xã hội). 8 Các hình thức vận động đều quan hệ chặt chẽ với nhau. Một hình thức vận động nào đó được thực hiện là do sự tác động qua lại với các hình thức vận động khác trong đó những hình thức vận động cao bao giờ cũng bao hàm những hình thức vận động thấp hơn, nhưng cũng không thể coi hình thức vận động cao là tổng số đơn giản các hình thức vận động thấp. Mỗi sự vật, hiện tượng có thể gắn với nhiều hình thức vận động nhưng bao giờ cũng được đặc trưng bằng một hình thức vận động cơ bản. Thế giới vật chất bao giờ cũng ở trong quá trình vận động không ngừng. Không thể có vật chất không vận động, tức là vật chất tồn tại bằng cách vận động và thông qua vận động mà biểu hiện sự tồn tại của mình. Hay nói cách khác vận động là phương thức tồn tại của vật chất. Anghen nhận định rằng và các rạng khác nhau của vật chất chỉ có thể tồn tại thông qua vận động chỉ thông qua vận động mới có thể thấy được thuộc tính của vật thể. Trong thế giới vật chất từ các hạt cơ bản đến thế giới vi mô đến các hệ thống hành tinh khổng lồ trong thế giới vĩ mô từ vô cơ đến hữu cơ, đến xã hội loài người, tất cả luôn ở trạng thái vận động. Bất cứ một dạng vật chất nào cũng là một thể thống nhất có kết cấu xác định gồm những nhân tố, những bộ phận, những xu hướng khác nhau, cùng tồn tại, ảnh hưởng và tác động lẫn nhau. Sự tác động qua lại đó gây ra biến đổi. Nguồn gốc của vận động là do những nguyên nhân bên trong, vận động của vật chất là tự thân vận động. Vận động là thuộc tính cố hữu của vật chất, không thể có vận động bên ngoài vật chất, vận động không do ai sáng tạo ra và không thể tiêu diệt được do đó vận động được bảo toàn cả về số lượng lẫn chất lượng. Khoa học đã chứng minh rằng nếu một hình thức vận động nao đó của sự vật nhất định mất đi thì tất yếu nó nảy sinh ra một hình thức vận động khác thay thế nó. Các hình thức vận động chuyển hoá lẫn nhau, còn vận động của vật chất nói chung thì vĩnh viễn tồn tại với sự tồn tại vĩnh viễn của vật chất. Mặc dù vật chất luôn ở trong quá trình vận động không ngừng nhưng điều đó không loại trừ mà còn bao hàm cả hiện tượng đứng im tương đối không có hiện tượng đứng im tương đối thì không có sự phân hóa thế giới vật chất thành các sự vật và hiện tượng phong phú và đa dạng. Anghen khẳng định rằng khả năng đứng im tương đối 9 của các vật thể, khả năng cân bằng tạm thời là những điều kiện chủ yếu của sự phân hóa vật chất. Nếu vận động là sự biến đổi của các sự vật, hiện tượng thì sự đứng im là sự ổn định, là sự bảo toàn tính qui định của các sự vật hiện tượng. Đứng Im chỉ biểu hiện của một trạng thái vận động, vận động trong thăng bằng, trong sự ổn định tương đối. Trạng thái đứng im còn được biểu hiện như là một quá trình vận động trong phạm vi của sự ổn định, chưa biến đổi. Đứng im chỉ là tạm thời vỡ nó chỉ xảy ra trong một thời gian nhất định. Vận động riêng biệt có xu hướng chuyển thành cân bằng nhưng vận động toàn thể lại phân loại sự cân bằng riêng biệt thành các sự vật, hiện tượng luôn thay đổi chuyển hoá cho nhau. Không gian và thời gian là những hình thức tồn tại của vật chất. Không gian phản ánh thuộc tính của các đối tượng vật chất có vị trí, có hình hình thức kết cấu, có độ dài, ngắn, cao, thấp. Không gian biểu hiện sự cùng tồn tại và tách biệt của các sự vật với nhau, biểu hiện khoảng tính của chúng, trật tự phân bố chúng. Còn thời gian phản ánh thuộc tính của các quá trình vật chất diễn ra nhanh hay chậm, kế tiếp nhau theo một trật tự nhất định. Thời gian biểu hiện tốc độ và trình tự diễn biến của các quá trình vật chất, tính cách biệt giữa các giai đoạn khác nhau của các quá trình đó, sự xuất hiện và mất đi của các sự vật hiên tượng. Không gian và thời gian là hình cơ bản của vật chất đang vận động. Lênin đó chỉ ra trong thế giới, không có gì ngoài vật chất đang vận động, và vật chất đang vận động không thể vận động ở đâu ngoài không gian và thời gian. Không gian và thời gian là tồn tại khách quan. Nó không phải là hình thức chủ quan để xếp chặt các cảm giác mà ta thu nhận một cách lộn xộn như chủ nghĩa duy tâm quan niệm, cũng như nó không thể đứng ngoài vật chất. Không có không gian trống rỗng. Không gian và thời gian không phải là bất biến, tuyệt đối, mà trái lại không gian và thời gian có sự biến đổi phụ thuộc vật chất vận động. Tính thống nhất vật chất của thế giới: Chủ nghĩa duy tâm coi ý thức, tinh thần có trước, quyết định vật chất, do đó cũng cho rằng thế giới thống nhất ở tinh thần. Còn chủ nghĩa duy vật biện chứng lại khẳng định rằng, tính thống nhất chân chính của thế giới là ở tính vật chất của nó. 10 Triết học Mác- Lênin khẳng định chỉ có một thế giới duy nhất là thế giới vật chất, không có thế giới tinh thần. Thế giới thần ninh ma quỷ tồn tại ở đâu đó bên trên, bên dưới ở trong hay ở ngoài thế giới vật chất. Đồng thời còn khẳng định rằng các bộ phận thế giới đều là những dạng cụ thể của vật chất, có liên hệ vật chất thống nhất với nhau như liên hệ về cơ cấu tổ chức, liên hệ về lịch sử phát triển và đều phải luôn tuân thủ theo những qui luật khách quan của thế giới vật chất. Do đó thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, vô hạn, vô tận không do ai sinh ra và cũng không mất đi trong thế giới đó không có cái gì khác ngoài những quá trình vật chất đang biến đổi và chuyển hoá lẫn nhau, là nguyên nhân và là kết quả của nhau. 2. Lý luận của triết học MÁC-LÊNIN về ý thức: NGUỒN GỐC VÀ BẢN CHẤT a) Kết cấu của ý thức TRÌNH BÀY SAU Cũng như vật chất có rất nhiều các quan niệm về ý thức theo các trường phái khác nhau. Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật ở đây khẳng định rằng ý thức là đặc tính là sản phẩm của vật chất, ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ óc của con người thông qua lao động và ngôn ngữ. Mác nhấn mạnh rằng tinh thần, ý thức chẳng qua là cái vật chất được di chuyển vào bộ óc của con người và được cải biến ở trong đó. Ý thức là một hiện tượng lớp xã hội có kết cấu phức tạp bao gồm ý thức, tri thức, tìm cảm, ý chí trong đó tri thức là quan trong nhất là phương thức tồn tại của ý thức. Tri thức là phương thức tồn tại của ý thức vì sự hình thành và phát triển của ý thức có liên quan mật thiết với nhau trong quá trình nhận thức của con người và cải biến thế giới tự nhiên. Tri thức càng được tích luỹ con người ngày càng đi sâu vào bản chất sự vật và cải tạo sự vật có hiệu quả hơn, tính năng động của ý thức cũng nhờ đó mà tăng hơn. Việc nhấn mạnh tri thức là yếu tố cơ bản, quan trọng nhất của ý thức có ý nghĩa chống quan điểm giản đơn coi ý thức chỉ là tình cảm niềm tin, ý chí. Quan điểm đó chính là biểu hiện của bệnh chủ quan duy ý chí, của niềm tin mù quáng, của 11 sự tưởng tượng chủ quan. Tuy nhiên việc nhấn mạnh yếu tố tri thức cũng không đồng nghĩa với việc phủ nhận và coi nhẹ vai trò của các nhân tố tình cảm ý chí. Tự ý thức cũng là một yếu tố quan trọng của ý thức. Chủ nghĩa duy tâm coi tự ý thức là một thực thể độc lập, tự nó, có sẵn trong các cá nhân, biểu hiện quan hệ xã hội. Trái lại chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng tự ý thức là ý thức hướng về nhận thức bản thân mình thông qua quan hệ thế giới bên ngoài. Khi phản ánh thế giới khách quan, con người tự phân biệt mình, đối lập mình với thế giới đó và tự nhận thức minh như là một thực thể hoạt động, có cảm giác, có tư duy, có các hành vi đạo đức và có vị trí xã hội. Mặt khác sự giao tiếp xã hội và hoạt động thực tiễn xã hội đòi hỏi con người phải nhận rõ bản thân mình và tự điều chỉnh bản thân mình theo các qui tắc, các tiêu chuẩn mà xã hội đề ra. Ngoài ra văn hoá cũng đóng vai trò “Cái gương soi” giúp cho con người tự ý thức được bản thân. Vô thức là một hiện tượng tõm lớ nhưng có liên quan đến những hoạt động xảy ra ở ngoài phạm vi của ý thức. Có hai loại vô thức: Loại thứ nhất liên quan đến hành vi chưa được con người ý thức; loại thứ hai liên quan đến các hành vi trước kia đã được ý thức nhưng do lặp lại nên đó trở thành thói quen, có thể diễn ra “Tự động” bên ngoài sư chỉ đạo của ý thức. Vô thức ảnh hưởng đến nhiều phạm vi hoạt động của con người. Trong những hoàn cảnh nào đó nó có thể giúp con người bớt sự căng thẳng trong hoạt động. Việc tăng cương rèn luyện để biến những hành vi tích cực thành thói quen và có vai trò rất quan trong đời sống của con người. Trong con người ý thức vẫn là cái chủ đạo cái quyết định trong hành vi cá nhân. b) Các đặc tính của vật chất.????? Nguồn gốc tự nhiên: Ý thức ra đời là kết quả của sự phát triển lâu dài của giới tự nhiên cho tới khi xuất hiện con người và bộ óc con người. Khoa học đã chứng minh rằng thế giới vất chất nói chung và trái đất nói riêng đã từng tồn tại rất lâu trước khi xuất hiện con người, rằng hoạt động ý thức của con người diễn ra trên cơ sở hoạt động sinh lí thần kinh của của bộ não con người. Không thể tách rời ý thức ra khỏi bộ não và ý thức là chức năng của bộ não, bộ não là khí quan của ý thức. Sự phụ thuộc của ý thức vào sự hoạt động của bộ não thể hiện ở chỗ khi bộ não bị tổn thương thì hoạt động ý thức sẽ 12 bị rối loạn. Tuy nhiên, không thể quy một cách đơn giản ý thức về các quá trình sinh lí bởi vì óc chỉ là cơ quan phản ánh. Ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ óc con người. Sự xuất hiện của ý thức gắn liền với sự phát triển đặc tính của phản ánh, đặc tính này phát triển cùng với sự phát triển của thế giới tự nhiên. Sự xuất hiện của con người và xã hội loài người đưa lại hình thức của sự phản ánh, đó là sự phản ánh ý thức. Sự phản ánh ý thức luôn gắn liền với việc làm cho tự nhiên thích nghi với nhu cầu phát triển của xã hội. Nguồn gốc xã hội: Sự ra đời của ý thức gắn liền với quá trình hình thành và phát triển của bộ óc con người dưới ảnh hưởng của lao động, của giao tiếp và các quan hệ xã hội. Lao động của con người là nguồn gốc vật chất có tính chất xã hội nhằm cải tạo tự nhiên, thoả mãn nhu cầu và phục vụ mục đích của bản thân con người. Chính nhờ lao động, con người và xã hội mới hình thành và phát triển. Lao động là phương thức tồn tại đầu tiên của con người, lao động đồng thời ngay từ đầu đã liên kết những con người với nhau trong những quan hệ khách quan, tất yếu, mối quan hệ này đến lượt nó lại làm nảy sinh nhu cầu trao đổi kinh nghiệm và tổ chức lao động, nhu cầu ” Cần phải có với nhau một cái gì”. Và kết quả là ngôn ngữ ra đời. Ngôn ngữ được coi là cái vỏ vật chất của tư duy. Với sự xuất hiện ngôn ngữ, tư tưởng của con người có khả năng biểu hiện thành hiện thực trực tiếp, trở thành tính hiệu vật chất tác động đến giác quan con người và gây ra cảm giác. Nhờ có ngôn ngữ con người có thể giao tiếp, trao đổi tư tưởng, tình cảm lẫn nhau truyền đạt kinh nghiệm cho nhau. Thông qua đó mà ý thức cá nhân trở thành ý thức xã hội và ngược lai, ý thức xã hội thâm nhập vào ý thức cá nhân. Ngôn ngữ đã trở thành một phương tiện vật chất không thể thiếu được của sự trừu tượng hoá, tức là quá trình hình thành, thực hiện ý thức và chính nhờ trừu tượng hoá và khái quát hoá mà con người có thể đi sâu vào bản chất của sự vật, hiện tượng, đồng thời tổng kết được hoạt động của mình trong toàn bộ quá trình phát triển lịch sử. c) Bản chất của ý thức 13 Từ việc xem xét nguồn gốc của ý thức, có thể thấy rõ ý thức có bản tính phản ánh, sáng tạo và bản tính xã hội. Bản tính phản ánh thể hiện thông tin về thế giới bên ngoài là biểu thị nội dung nhân được từ vật gây ra tác động và được truyền đi trong quá trình phản ánh. Bản tính của phản ánh quy định mặt khách quan của ý thức, tức là ý thức phải lấy cái khách quan làm tiền đề, bị cái khách quan quy định và có nội dung phản ánh là thế giới khách quan. Ý thức ngay từ đầu đã gắn liền lao động, với hoạt động sáng tạo cải biến và thống trị tự nhiên của con người và đã trở thành mặt không thể thiếu được của hoạt động đú. Tính sáng tạo của ý thức thể hiện ở chỗ nó không chụp lại một cách thụ động, nguyên xi sự vật mà phản ánh gắn liền với cải biến, quá trình thu thập thông tin gắn liền với xử lí thông tin. Tính sáng tạo của ý thức còn thể hiện ở khả năng gián tiếp khái quát thế giới khách quan, ở quá trình chủ động tác động vào thế giới để phản ánh thế giới đó. Phản ánh và sáng tạo liên quan chặt chẽ với nhau không thể tách rời. Không cú phản ánh thì không có sáng tạo vì phản ánh là điểm xuất phát là cơ sở sáng tạo. Ngược lại không có sự sáng tạo thì không phải là phản ánh ý thức. Đó là mối quan hệ biện chứng giữa hai quá trình thu nhập và xử lí thông tin, là sự thống nhất giữa mặt khách quan và chủ quan trong ý thức. Ý thức chỉ được nảy sinh trong lao động, trong hoạt động cải tạo thế giới của con người. Hoạt động đó không phải là hoạt động đơn lẻ mà là hoạt động xã hội. Do ý thức ngay từ đầu đã là sản phẩm của xã hội. Ý thức trước hết là tri thức của con người về xã hội và hoàn cảnh, về những gì đang diễn ra ở thế giới khách quan, về mối liên hệ giữa người và người trong xã hội. Do đó ý thức xã hội hình thành và bị chi phối bởi tồn tại xã hội cùng các quy luật tồn tại của xã hội đú…Và ý thức của mỗi cá nhân mang trong lòng của ý thức xã hội. Bản thống nhất nó thể hiện ở tính năng động chủ quan của ý thức, ở mối quan hệ giữa nhân tố vật chất và nhân tố ý thức trong hoạt động cải tao thế giới của con người. 3. Mối quan hệ biện chứng giữ vật chất và ý thức 14 Lênin đã chỉ ra rằng, sự đối lập giữa vật chất và ý thức có nghĩa tuyệt đối trong phạm vi hết sức hạn chế: Trong trường hợp này, chỉ giới hạn trong vấn đề nhận thức luận cơ bản là thừa nhận cái gì có trước và cái gì có sau. Ngoài giới hạn đó thì không còn nghi ngờ gì nữa sự đối lập đó chỉ là tương đối. Như vậy, để phân ranh giới chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, để xác định bản tính và thống nhất của thế giới, cần có sự đối lập tuyệt đối giữa vật chất và ý thức trong khi trả lời câu hỏi cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào quyết định cái nào. Không như vậy sẽ lẫn lộn hai đường lối cơ bản trong triết học, lẫn lộn vật chất với ý thức và cuối cùng sẽ xa dời quan điểm duy vật. Song sự đối lập giữa vật chất và ý thức chỉ là tương đối nếu như chúng là những nguyên tố, những mặt không thể thiếu được trong hoạt động của con người, đặc biệt là hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới của con người. Bởi vì, ý thức tự nó không thể cải biến được sự vật, không có khả năng tự biến thành hiện thực. Nhưng thông qua hoạt động thực tiễn của con người, ý thức có thể cải biết được tự nhiên, thâm nhập vào sự vật, hiện thực hoá những mục đích mà nó đề ra cho hoạt động của mình. Điều này bắt nguồn từ chính ngay bản tính phản ánh sáng tạo và xã hội của ý thức và chính nhờ bản tính đó mà chỉ có con người có ý thức mới có khả năng cải biến và thống trị tự nhiên, biến tự nhiên xa lạ, hoang dã, thanh tự nhiên trù phú, sinh động, tự nhiên của con người. Như vậy, tính tương đối trong sự đối lập giữa vật chất và ý thức thể hiện ở tính độc lập tương đối, tính năng động của ý thức. Mặt khác, đời sống con người là sự thống nhất không thể tách rời giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần trong đó những nhu cầu tinh thần ngày càng phong phú và đa dạng và những nhu cầu vật chất cũng bị tinh thần hoá. Khẳng định tính tương đối của sự đối lập giữa vật chất và ý thức không có ý nghĩa là khẳng định rằng cả hai nhân tố có vai trò như nhau trong đời sống và hoạt động của con người. Trái lại, triết học Mác-Lênin khẳng định rằng, trong hoạt động của con người, những nhân tố vật chất và ý thức có tác động qua lại, song sự tác động đó diễn ra trên cơ sở tính thứ nhất của nhân tố vật chất so với tính thứ hai của nhân tố ý thức Trong hoạt động của con người, những nhu cầu vật chất xét đến cùng bao giờ cũng giữ vai trò quyết định, chi phối và quy định hoạt động của con người vì nhân tố 15 vật chất quy định khả năng các nhân tố tinh thần có thể tham gia vào hoạt động của con người, tạo điều kiện cho nhân tố tinh thần hoặc nhân tố tinh thần khác biến thành hiện thực và qua đó quy định mục đích chủ trương biện pháp mà con người đề ra cho hoạt động của mình bằng cách chọn lọc, sửa chữa bổ sung, cụ thể hoá mục đích, chủ trương, biện pháp đó. Hoạt động nhận thức của con người bao giờ cũng hướng đến mục tiêu để biến tự nhiên nhằm thoả mãn nhu cầu cuộc sống, hơn nữa, cuộc sống tinh thần của con người xét đến cùng bị chi phối và phụ thuộc vào việc thoả mãn nhu cầu vật chất và vào những điều kiện vật chất hiện có. Khẳng định vai trò cơ sở, quyết định trực tiếp của nhân tố vật chất, triết học Mác- Lênin đồng thời cũng không coi nhẹ vai trò của nhân tố tinh thần, của tính năng động chủ quan. Nhân tố ý thức có tác dụng trở lại quan trọng đối với nhân tố vật chất. Hơn nữa, trong hoạt động của mình con người không thể để cho thế giới khách quan, quy luật khách quan chi phối mà chủ động hướng nó đi theo con đường có lợi của mình. Ý thức con người không thể tạo ra các đối tượng vật chất, cũng không thể thay đổi qui luật vận động của nó. D đó, trong quá trình hoạt động của mình, con người phải tuân theo quy luật khách quan và chỉ có thể đề ra những mục đích, chủ trương trong phạm vi hoàn cảnh vật chất cho phép. 4. Ý nghĩa phương pháp luận của mối quan hệ giữa vật chất và ý thức Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định trong mối quan hệ giữa vật chất và ý thức thì: Vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định ý thức, song ý thức có thể tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người; vì vậy, con người phải tôn trọng khách quan, đồng thời phát huy tính năng động chủ quan của mình. Tôn trọng khách quan là tôn trọng tính khách quan của vật chất, của các quy luật tự nhiên và xã hội. Điều này đòi hỏi trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn con người phải xuất phát từ thực tế khách quan, lấy thực tế khách quan làm căn cứ cho mọi hoạt động của mình. V.I. Lênin đã nhiều lần nhấn mạnh không được lấy ý muốn chủ quan của mình làm chính sách, không được lấy tình cảm làm điểm xuất phát cho chiến lược và sách lược cách mạng. Nếu chỉ xuất phát từ ý muốn chủ quan, 16 nếu lấy ý chí áp đặt cho thực tế, lấy ảo tưởng thay cho hiện thực thì sẽ mắc phải bệnh chủ quan duy ý chí. Nếu ý thức có thể tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn thì con người phải phát huy tính năng động chủ quan. Phát huy tính năng động chủ quan tức là phát huy vai trò tích cực của ý thức, vai trò tích cực của nhân tố con người. Bản thân ý thức tự nó không trực tiếp thay đổi được gì trong hiện thực. ý thức muốn tác động trở lại đời sống hiện thực phải bằng lực lượng vật chất, nghĩa là phải được con người thực hiện trong thực tiễn. Điều ấy có nghĩa là sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động của con người được bắt đầu từ khâu nhận thức cho được quy luật khách quan, biết vận dụng đúng đắn quy luật khách quan, phải có ý chí, phải có phương pháp để tổ chức hành động. Vai trò của ý thức là ở chỗ trang bị cho con người những tri thức về bản chất quy luật khách quan của đối tượng, trên cơ sở ấy, con người xác định đúng đắn mục tiêu và đề ra phương hướng hoạt động phù hợp. Tiếp theo, con người với ý thức của mình xác định các biện pháp để thực hiện tổ chức các hoạt động thực tiễn. Cuối cùng, bằng sự nỗ lực và ý chí mạnh mẽ của mình, con người có thể thực hiện được mục tiêu đề ra. ở đây ý thức, tư tưởng có thể quyết định làm cho con người hoạt động đúng và thành công khi phản ánh đúng đắn, sâu sắc thế giới khách quan, vì đó là cơ sở quan trọng cho việc xác định mục tiêu, phương hướng và biện pháp chính xác. Ngược lại, ý thức, tư tưởng có thể làm cho con người hoạt động sai và thất bại khi con người phản ánh sai thế giới khách quan. Vì vậy, phải phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò nhân tố con người để tác động cải tạo thế giới khách quan; đồng thời phải khắc phục bệnh bảo thủ trì trệ, thái độ tiêu cực, thụ động, ỷ lại, ngồi chờ trong quá trình đổi mới hiện nay. CHƯƠNG, SANG TRANG MỚI, VIẾT HOA, CANH GIỮA III. Vận dụng mối quan hệ giữa vật chất và ý thức vào công cuộc đổi mới của đất nước. 1. Khái quát chung về công cuộc đổi mới đất nước do ĐCSVN lãnh đạo: Như chúng ta đã biết sau khi giải phóng miền nam thống nhất đất nước ,nền kinh tế miến bắc bị suy giảm nghiêm trọng.Cơ sở vật chất kĩ thuật yếu kém,cơ cấu 17
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan