Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Vai trò của giáo viên chủ nhiệm trong việc phát triển và hoàn thiện nhân cách củ...

Tài liệu Vai trò của giáo viên chủ nhiệm trong việc phát triển và hoàn thiện nhân cách của học sinh ở trường thpt_skkn quản lí

.PDF
29
335
129

Mô tả:

VAI TRÒ CỦA GIÁO VIÊN CHỦ NHIỆM TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN VÀ HOÀN THIỆN NHÂN CÁCH HỌC SINH Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG 2011-2012 SỞ GIAÙO DUÏC – ĐÀO TẠO ÑAÊK LAÊK TRÖÔØNG THPT BUOÂN MA THUOÄT ..............****............. SAÙNG KIEÁN KINH NGHIEÄM Đề tài : vai troø cuûa giaùo vieân chuû nhieäm trong vieäc phaùt trieån vaø hoaøn thieän nhaân caùch hoïc sinh ôû TRÖÔØNG TRUNG HOÏC PHOÅ THOÂNG Người thực hiện : NGUYỄN THỊ NHÂN Tổ bộ môn : Ngữ văn Naêm hoïc 2011 – 2012 1 Giáo viên: Nguyễn Thị Nhân _ Trường THPT Buôn Ma Thuột_ Email: [email protected] VAI TRÒ CỦA GIÁO VIÊN CHỦ NHIỆM TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN VÀ HOÀN THIỆN NHÂN CÁCH HỌC SINH Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG 2011-2012 MỤC LỤC ------------------------------------------- I. Phần mở đầu I.1. Lí do chọn đề tài ----------------------------------------------------------I.2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài -------------------------------------------I.3.Đối tượng nghiên cứu ----------------------------------------------------I.4.Giới hạn và phạm vi nghiên cứu ----------------------------------------I.5.Phương pháp nghiên cứu -------------------------------------------------II. Phần nội dung II.1.Cơ sở lí luận --------------------------------------------------------------II.2.Thực trạng -----------------------------------------------------------------a. Vấn đề giáo dục nhân cách HS - thuận lợi và khó khăn---------------b. Thành công và hạn chế ----------------------------------------------------c. Mặt mạnh và mặt yếu -------------------------------------------------------d. Các nguyên nhân, yếu tố tác động đến quá trình nghiên cứu --------II.3. Giải pháp, biện pháp------------------------------------------------------a. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp -----------------------------------------b. Nội dung và cách thức thực hiện ------------------------------------------b.1. Vị trí, chức năng của người GVCN -------------------------------------b.2. Điều kiện để GVCN thực hiện những giải pháp, biện pháp giáo dụcb.3. Nội dung, công tác của GVCN lớp -------------------------------------b.4. Những yêu cầu cơ bản về phẩm chất, năng lực của GVCN ---------b.5. GVCN phối hợp với các tổ chức để giáo dục HS --------------------c. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp -----------------------------III.4. Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề -III. Phần kết luận và kiến nghị III.1. Kết luận ------------------------------------------------------------------III.2. Kiến nghị------------------------------------------------------------------- Trang 01 Trang 01 Trang 01 Trang 01 Trang 01 Trang 01 Trang 02 Trang 03 Trang 03 Trang 03 Trang 03 Trang 03 Trang 03 Trang 03 Trang 03 Trang 05 Trang 06 Trang 11 Trang 13 Trang 24 Trang 24 Trang 25 Trang 26 --------------------------------------------- -THPT: -PHHS: -LHTNHS: -GVCN: -SKKN: -TTHS: -TNCS: Các chữ viết tắt: trung học phổ thông -GV: phụ huynh học sinh -HS: liên hiệp thanh niên học sinh -CLB: giáo viên chủ nhiệm -HK: sáng kiến kinh nghiệm TDTT: tập thể học sinh TTSP: thanh niên cộng sản giáo viên học sinh câu lạc bộ hạnh kiểm thể dục thể thao tập thể sư phạm I. PHẦN MỞ ĐẦU 2 Giáo viên: Nguyễn Thị Nhân _ Trường THPT Buôn Ma Thuột_ Email: [email protected] VAI TRÒ CỦA GIÁO VIÊN CHỦ NHIỆM TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN VÀ HOÀN THIỆN NHÂN CÁCH HỌC SINH Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG 2011-2012 I.1. Lí do chọn đề tài Trong nhà trường trung học phổ thông (THPT), các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp được tiến hành trong mối quan hệ biện chứng với việc tổ chức hoạt động dạy học ở trên lớp giúp học sinh hình thành và phát triển nhân cách toàn diện. Mỗi học sinh đều chịu sự tác động tự giác, có mục đích và cả những tác động ngẫu nhiên, tự phát ( không định hướng) của gia đình, nhà trường, cộng đồng. Sự thống nhất tác động có mục đích của các lực lượng giáo dục có tầm quan trọng lớn. Trong sự thống nhất đó, giáo dục của nhà trường có vai trò định hướng cho giáo dục của gia đình và các lực lượng xã hội. Tổ chức hoạt động giáo dục chính là quá trình phát huy tối đa những yếu tố tích cực, thuận lợi của hoàn cảnh tự nhiên và xã hội, đồng thời hạn chế tối đa những yếu tố tiêu cực, không thuận lợi của môi trường sống trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách cho học sinh. Các hoạt động giáo dục được tổ chức một cách có kế hoạch, được chọn lựa về nội dung, phương pháp và hình thức phong phú, đa dạng để giáo dục học sinh phát triển nhân cách một cách toàn diện và có hiệu quả. Và để thực hiện công việc này vai trò của GVCN rất quan trọng. Đặc biệt đối với môi trường THPT thì không ai có thể thay thế được. Đó là lí do vì sao chúng tôi chọn đề tài Giáo viên chủ nhiệm với việc giúp hình thành và phát triển nhân cách học sinh một cách toàn diện trong nhà trường Trung học phổ thông I.2.Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài Mục tiêu của việc tổ chức hoạt động giáo dục trong nhà trường trung học là để phát triển nhân cách cho học sinh, là chuẩn bị tích cực cho học sinh bước vào cuộc sống, là để thực hiện được mục đích giáo dục. Nội dung của tổ chức hoạt động giáo dục là việc thực hiện nội dung giáo dục toàn diện, giúp hình thành và phát triển nhân cách học sinh một cách toàn diện trong nhà trường THPT. I.3. Đối tượng nghiên cứu Thực hiện đề tài này, chúng tôi hướng tới những đối tượng cụ thể bao gồm giáo viên chủ nhiệm, tập thể lớp học sinh và các tổ chức đoàn thể trong nhà trường ( bao gồm 5 trường : THPT chuyên Nguyễn Du, THPT Buôn Ma Thuột, THPT Hồng Đức, THPT Lê Quí Đôn,THPT DL Phú Xuân) I.4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu Vì thời gian và năng lực có hạn, nên chúng tôi chỉ dừng lại ở phạm vi nghiên cứu vai trò của GVCN trong sự phối hợp với các tổ chức đoàn thể trong nhà trường và ngoài xã hội giúp hình thành và phát triển nhân cách học sinh một cách toàn diện. I.5. Phương pháp nghiên cứu - Tiếp cận trực tiếp đối tượng. - Phát phiếu trắc nghiệm để thống kê số liệu cụ thể - Tổng kết kết quả từ số liệu cụ thể. - Nhận xét và đưa ra những kiến nghị cụ thể để đảm bảo tính khả quan thực thi của đề tài II. PHẦN NỘI DUNG II.1. Cơ sở lí luận Cơ sở lý luận chủ yếu của tổ chức hoạt động giáo dục giúp hình thành và phát triển nhân cách học sinh một cách toàn diện là lý luận dạy học và giáo dục, là các vấn đề của tâm lý học về sự hình thành và phát triển nhân cách thông qua quá trình tổ chức các hoạt động và giao lưu, là tính thống nhất, phát triển có kế thừa của quá trình hình thành và phát triển nhân cách ( chủ yếu ở lứa tuổi học đường). Đó cũng là luận điểm cơ bản về mối quan hệ giữa cá nhân với hoàn cảnh xã hội và tự nhiên. Nó cũng nói lên mối quan hệ biện 3 Giáo viên: Nguyễn Thị Nhân _ Trường THPT Buôn Ma Thuột_ Email: [email protected] VAI TRÒ CỦA GIÁO VIÊN CHỦ NHIỆM TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN VÀ HOÀN THIỆN NHÂN CÁCH HỌC SINH Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG 2011-2012 chứng giữa quá trình tác động có định hướng của giáo dục xã hội với sự hoạt động, tự giáo dục, tự rèn luyện của cá nhân. Hiệu quả của hoạt động giáo dục phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nhiều điều kiện khách quan và chủ quan của các chủ thể tham gia vào quá trình giáo dục. Như chúng ta đã biết quá trình giáo dục về bản chất là một quá trình tổ chức cuộc sống (học tập, lao động, sinh hoạt tập thể, vui chơi giải trí…) cho học sinh. Là một quá trình chuyển hóa tự giác, tích cực những yêu cầu, chuẩn mực xã hội thành hành vi và thói quen tương ứng ở người học sinh dưới vai trò chủ đạo của người giáo viên. Thực chất vai trò của giáo viên là việc tổ chức hợp lý các điều kiện, và mọi ảnh hưởng tác động đến hoạt động của học sinh. Tổ chức hoạt động giáo dục không phải là phương pháp tác động riêng lẻ của giáo viên đối với đối tượng giáo dục (như thuyết phục, nêu gương, khen thưởng, trách phạt…) mà là vận động nội dung cơ bản của phương pháp vận động song song trong điều kiện xã hội mới. SKKN này nhằm xác định ý nghĩa, vai trò hoạt động của giáo viên và nhà trường trong hoàn cảnh môi trường xã hội, quan hệ xã hội ngày càng đa dạng, phong phú. Đó không chỉ là việc tổ chức tốt giáo dục trong nhà trường, mà còn phải tổ chức phối hợp tất cả các tác động, các lực lượng của xã hội tạo ra sự thống nhất trong môi trường giáo dục, phát huy mọi tiềm năng của xã hội, nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp của các hoạt động xã hội đến quá trình hình thành và phát triển nhân cách của học sinh và tập thể học sinh. II.2. Thực trạng a. Vấn đề giáo dục nhân cách học sinh-những thuận lợi và khó khăn Là một giáo viên trực tiếp làm công tác chủ nhiệm có lẽ không ai không mong muốn học sinh của mình có một nhân cách đạo đức tốt, phát triển toàn diện. Tuy nhiên để làm được điều này hoàn toàn không đơn giản. Bởi lẽ, ông bà ta thường nói “ Cha mẹ sinh con, trời sinh tính”. Bên cạnh những học sinh ngoan, vẫn còn không ít em ngỗ nghịch, có thái độ không tốt với bất cứ ai, thậm chí thường xuyên quậy phá, gây ra nhiều vụ scandal trong nhà trường. Đây là những trường hợp làm cho GVCN phải đau đầu. Khi gặp những trường hợp này thường thì GVCN chỉ báo với phụ huynh để tìm cách tháo gỡ mà không phối hợp với các tổ chức đoàn thể trong nhà trường và ngoài xã hội, cho nên kết quả giáo dục chưa cao. Trước đây, tôi cũng đã gặp nhiều trường hợp như thế và tôi đã cố gắng liên lạc với phụ huynh, vận dụng nhiều phương pháp, mềm mỏng có, cứng rắn có, nhu cương tùy lúc. Có trường hợp thành công nhưng có nhiều trường hợp đành bất lực. Sau nhiều đêm suy nghĩ, tôi quyết định phối kết hợp với nhiều tổ chức đoàn thể trong nhà trường và ngoài xã hội cộng với sự nhiệt tình, hi sinh của bản thân, tôi đã thành công. Cụ thể năm 1999, tôi đã giáo dục thành công hai học sinh cá biệt, thường xuyên gây ra những vụ “nổi loạn” trong nhà trường, nhiều lúc phải nhờ lực lượng công an can thiệp. Sau đó tôi được BGH nhà trường đánh giá cao trong lĩnh vực này và được trình bày trước toàn thể hội đồng nhà trường trong một bài tham luận. Nhiều GVCN cũng đã tìm gặp và mong muốn được chia sẻ những kinh nghiệm của bản thân và chính những GV ấy cũng đã thành công trong việc giáo dục học sinh cá biệt. Ông cha ta đã dạy : “ Tiên học lễ, hậu học văn”, trước khi học văn hóa cần phải học đạo đức làm người. Bất cứ ai đặc biệt là nhà giáo dục không ai không hiểu được điều này và hầu hết đều thực hiện nhiệm vụ giáo dục học sinh một cách nghiêm túc và có hiệu quả. Vì vậy khi thực hiện đề tài này, chúng tôi đã gặp những thuận lợi nhất định. Trước hết chúng tôi đã được sự ủng hộ nhiệt tình từ phía giáo viên chủ nhiệm, tập thể học sinh và các tổ chức đoàn thể từ nhiều trường THPT trên địa bàn thành phố. Tuy nhiên, vấn đề giáo dục nhân cách học sinh không phải là vấn đề đơn giản, có thể thực hiện được trong ngày 4 Giáo viên: Nguyễn Thị Nhân _ Trường THPT Buôn Ma Thuột_ Email: [email protected] VAI TRÒ CỦA GIÁO VIÊN CHỦ NHIỆM TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN VÀ HOÀN THIỆN NHÂN CÁCH HỌC SINH Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG 2011-2012 một ngày hai cũng không thể thực hiện một lần là có thể thành công ngay được. Vì vậy nhiều thầy cô rất lúng túng khi được hỏi đến các biện pháp đã thực hiện khi giáo dục nhân cách học sinh. Thậm chí không ít các giáo viên đã bất lực khi gặp phải những học sinh cá biệt. Một số phụ huynh thì bỏ mặc con cái, giao phó trách nhiệm cho nhà trường…Đó là những khó khăn mà người nghiên cứu đề tài gặp phải trong quá trình thực hiện nhiệm vụ. b. Thành công và hạn chế Người viết sáng kiến kinh nghiệm có những thành công nhất định khi thực hiện đề tài bằng những việc làm cụ thể như trong 18 năm trực tiếp đứng lớp, bản thân tôi đã có 15 năm làm công tác chủ nhiệm lớp, trực tiếp chịu trách nhiệm giáo dục học sinh trước Ban giám hiệu nhà trường. Trong 15 năm đó, lớp chủ nhiệm của tôi luôn nằm vào tóp 5 lớp đứng đầu trong toàn trường. Năm 1999, tôi đã được tập thể nhà trường công nhận : Giáo dục thành công học sinh cá biệt. ( thời gian này tôi giảng dạy tại trường THPT Cư Jút). Vì vậy, những gì tôi thể hiện trong đề tài này đều được kinh qua từ những việc làm của bản thân. Tuy nhiên, bên cạnh những thành công, bản thân tôi không thể tránh khỏi những hạn chế nhất định đó là chưa thể nghiệm qua nhiều đối tượng trong phạm vi toàn tỉnh mà chỉ dừng lại ở một số trường THPT trong thành phố. Nếu có điều kiện, tôi sẽ khắc phục những hạn chế trên. c. Mặt mạnh, mặt yếu Thế mạnh của đề tài nghiên cứu là đề tài có thể áp dụng ở nhiều đối tượng. Vì khi thực hiện đề tài tôi đã chọn 5 trường trong thành phố trong đó có cả trường chuyên, trường chuẩn quốc gia và trường THPT Dân lập. Tuy nhiên, mặt yếu của SKKN là chỉ tập trung vào đa số đối tượng học sinh thuận lợi trong điều kiện sống và một số giáo viên được tham khảo ý kiến thì đã có nhiều kinh nghiệm trong quá trình giáo dục nhân cách cho học sinh. Mặt yếu trên xuất phát từ sự hạn chế trong quan hệ đời sống của bản thân. Hi vọng thời gian có thể giúp bản thân khắc phục những hạn chế trên. d. Các nguyên nhân, yếu tố tác động đến quá trình nghiên cứu Hiện nay, bên cạnh số học sinh có nhân cách đạo đức tốt thì trong môi trường giáo dục vẫn còn không ít số học sinh hư hỏng, làm ảnh hưởng đến vẻ đẹp chung của môi trường trường học, gây ra một dư luận không tốt trong toàn xã hội. Vì vậy khi tiến hành nghiên cứu đề tài này, một mặt chúng tôi nhận được sự ủng hộ rất nhiệt tình của học sinh và một số giáo viên chủ nhiệm, mặt khác một số thành viên khác cho rằng đây là việc làm vô bổ, giáo viên chủ nhiệm làm sao có thể thực hiện hết được các nội dung nêu trong đề tài. Đó chính là những nhân tố tác động đến quá trình nghiên cứu đề tài. II.3. Giải pháp, biện pháp giúp học sinh hình thành và phát triển nhân cách học sinh toàn diện a. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp giáo dục và phát triển nhân cách học sinh một cách toàn diện Đối với HS THPT, vai trò của GVCN rất quan trọng trong việc giáo dục nhân cách cho các em. Vì vậy, chúng tôi thực hiện đề tài này nhằm hướng đến mục tiêu cụ thể là sự phối hợp cua GVCN với các đoàn thể và các tổ chức trong xã hội nhằm giáo dục để hoàn thiện nhân cách HS b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp b.1. Vị trí, chức năng của người giáo viên chủ nhiệm GVCN lớp là một giáo viên trong số các giáo viên dạy văn hóa ở một lớp, có nhiều kinh nghiệm giáo dục học sinh, được hiệu trưởng chọn và giao trách nhiệm làm công tác chủ nhiệm lớp. Người GVCN lớp ngoài chức năng cơ bản của người giáo viên là giảng dạy và giáo dục, còn có vị trí và chức năng cụ thể như sau: 5 Giáo viên: Nguyễn Thị Nhân _ Trường THPT Buôn Ma Thuột_ Email: [email protected] VAI TRÒ CỦA GIÁO VIÊN CHỦ NHIỆM TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN VÀ HOÀN THIỆN NHÂN CÁCH HỌC SINH Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG 2011-2012 b.1.1. GVCN lớp là người thay mặt hiệu trưởng để quản lý toàn diện học sinh trong một lớp. Trong một trường trung học có rất nhiều học sinh được phân chia thành nhiều lớp, hiệu trưởng không thể nắm chắc diễn biến và quản lý quá trình phát triển nhân cách của từng học sinh trong trường vì vậy cần phải có GVCN lớp để giúp cho hiệu trưởng quản lý học sinh cụ thể hơn. Công tác quản lý học sinh thể hiện ở các công việc cơ bản như : + Nắm được các chỉ số về quản lý như tên, tuổi, số lượng, đặc điểm và hoàn cảnh sống, tâm sinh lý học sinh, trình độ, sở thích, năng lực hoạt động, những thay đổi, những tác động của gia đình đến học sinh, quan hệ xã hội, bạn bè. Mặt khác còn phải dự báo được xu hướng phát triển nhân cách học sinh và tập thể học sinh để có thể lập kế hoạch cho việc tổ chức giáo dục phù hợp và điều kiện, khả năng của mỗi học sinh và tập thể lớp học. Đây là một công việc của người quản lý và cũng là một điều kiện cần thiết làm tốt công tác phát triển lớp. + Lập kế hoạch chủ nhiệm lớp là một công việc rất cần thiết trong công tác quản lý của GVCN lớp. Để có thể lập được kế hoạch giáo dục cụ thể, đúng đắn và hợp lý cần phải có thời gian chuẩn bị và tìm hiểu cụ thể về đối tượng giáo dục, về mục tiêu, chương trình, nội dung giáo dục cấp học, trường học, lớp học, sự phát triển về mọi mặt giáo dục của lớp (học tập, lao động, rèn luyện…). + Tổ chức cho học sinh và tập thể lớp thực hiện kế hoạch đã đề ra. Trong công việc này cần có sự phân công, phân nhiệm, sắp xếp nhân sự, hoàn thiện, củng cố lại tổ chức của lớp học để tổ chức thực hiện các hoạt động được dự kiến của kế hoạch chủ nhiệm lớp. + Chỉ đạo cho học sinh và các cán bộ lớp trong quá trình thực hiện kế hoạch giáo dục học sinh. + Công việc quản lý còn thể hiện ở việc kiểm tra, đánh giá, tổng kết việc thực hiện kế hoạch, đánh giá sự phát triển nhân cách của học sinh. Công việc kiểm tra không chỉ giúp cho GVCN hiểu rõ học sinh để đánh giá chính xác mà còn để chỉ đạo sự học tập và rèn luyện của học sinh tốt hơn. GVCN lớp còn là người giúp hiệu trưởng xếp loại học lực và hạnh kiểm của học sinh. Việc xếp loại hạnh kiểm và học lực cho học sinh cần bám sát vào các tiêu chuẩn quy định của Bộ và Sở giáo dục và đào tạo. Cần đánh giá khách quan,chính xác,công bằng để khích lệ, nhắc nhở và điều chỉnh quá trình giáo dục học sinh tốt hơn. Chỉ khi hiệu trưởng duyệt thì mới được công bố kết quả xếp loại cho học sinh biết. b.1.2. GVCN là cầu nối giữa hiệu trưởng, giáo viên bộ môn, các tổ chức trong trường với học sinh và tập thể học sinh lớp chủ nhiệm. GVCN là người đại diện 2 phía có chức năng truyền đạt và đề đạt những vấn đề cần thiết trong công tác giáo dục học sinh. Với tư cách là nhà sư phạm (đại diện cho các lực lượng giáo dục của nhà trường), GVCN có trách nhiệm truyền đạt tới học sinh lớp chủ nhiệm tất cả những yêu cầu, nội quy, quy chế, kế hoạch, chủ trương chính sách của nhà trường, của ngành đến với tập thể lớp và từng học sinh chủ nhiệm. Sự truyền đạt đó không phải bằng mệnh lệnh mà bằng sự thuyết phục, sự cảm hóa, bằng sự gương mẫu của người GVCN để học sinh chấp nhận một cách tự giác, tự nguyện mục tiêu, nhiệm vụ giáo dục. Với kinh nghiệm và uy tín của mình, GVCN có khả năng biến những chủ trương, kế hoạch của nhà trường thành nguyện vọng và chương trình hành động của tập thể lớp và từng cá nhân học sinh. Mặt khác GVCN là người đại diện cho tập thể lớp chủ nhiệm, là người tập hợp và hiểu rõ ý kiến, nguyện vọng của từng học sinh, của lớp để phản ánh với hiệu trưởng, với 6 Giáo viên: Nguyễn Thị Nhân _ Trường THPT Buôn Ma Thuột_ Email: [email protected] VAI TRÒ CỦA GIÁO VIÊN CHỦ NHIỆM TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN VÀ HOÀN THIỆN NHÂN CÁCH HỌC SINH Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG 2011-2012 giáo viên bộ môn, và với các tổ chức giáo dục trong nhà trường. GVCN là người thường xuyên tiếp nhận những thông tin từ HS, cần phải đảm bảo tính khách quan, trung thực. Khi tiếp nhận thông tin, GVCN phải xử lý kịp thời với tư cách là nhà sư phạm, điều đó có tác dụng giáo dục rất lớn. Bởi vì có những suy nghĩ, những thông tin của học sinh chỉ có thể tâm sự với GVCN. Ví dụ: nỗi oan ức, sự hiểu lầm của thầy cô giáo… vì một lẽ nào đó thì GVCN là người giải tỏa được nỗi băn khoăn, vướng mắc của học sinh trong các quan hệ đó. GVCN có trách nhiệm bênh vực, bảo vệ mọi quyền lợi của học sinh. Góp phần thực hiện các điều khoản của Liên Hiệp Quốc về nhân quyền của trẻ em. Luật bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em của Nhà nước ta. b.1.3. GVCN là người cố vấn cho các hoạt động tự quản của tập thể học sinh. Học sinh phổ thông trung học là những em ở lứa tuổi thanh niên . Là lứa tuổi đang tự khẳng định mình, giàu ước mơ, bước đầu đã có một số kinh nghiệm sống, có khả năng tự quản, tự tổ chức hoạt động tập thể. Tuy nhiên vẫn là lứa tuổi mong muốn lớn hơn khả năng, muốn tự khẳng định mình nhưng chưa đủ “độ chín” về kinh nghiệm sống. Khi có thành công thì dễ “bốc”, “tự tin” quá mức. Nhưng khi gặp thất bại nhất là những thất bại đầu tiên thì dễ bị dao động, chán nản mất lòng tin. Do đó cần có sự hướng dẫn, điều chỉnh, giúp đỡ và động viên của GVCN lớp. Quan hệ giữa GVCN với các tổ chức Đoàn thể trong nhà trường không phải là quan hệ giữa người quản lý và đối tượng quản lý mà là quan hệ phối hợp. Với kinh nghiệm sống phong phú và khả năng giáo dục của mình, GVCN có thể là cố vấn đáng tin cậy cho hoạt động của tổ chức Đoàn thể trong nhà trường. Chức năng cố vấn đối với tập thể học sinh đầu cấp, khác với tập thể cuối cấp, tùy theo khả năng và mức độ độc lập tự quản của học sinh mà GVCN góp ý, chỉ bảo ở chừng mực nhất định. Quan trọng nhất là giúp đỡ và tạo điều kiện cho học sinh phát huy hết khả năng, độc lập, tích cực của họ. Chức năng cố vấn đối với học sinh phải được quán triệt trong toàn bộ nội dung giáo dục, kế hoạch hoạt động của cá nhân và tập thể lớp. Từ việc học tập, rèn luyện đạo đức, văn hóa, sinh hoạt tập thể, vui chơi giải trí, giao tiếp…diễn ra trong lớp, trong trường và ngoài xã hội. Tóm lại, GVCN cần xác định tầm quan trọng của chức năng cố vấn trong mọi hoạt động, trong các mối quan hệ ứng xử xã hội của học sinh, cố vấn trong việc định hướng nghề nghiệp, việc làm cho học sinh, nhất là những lớp cuối cấp. b.1.4. GVCN là người đại diện cho nhà trường trong công tác phối hợp với cha mẹ học sinh và các lực lượng xã hội nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục của lớp chủ nhiệm. Hiệu quả của việc tổ chức, giáo dục học sinh lớp chủ nhiệm phụ thuộc rất nhiều vào khả năng liên kết, phối hợp với các lực lượng xã hội, phát huy mọi khả năng về mọi mặt của các lực lượng đó vào công tác giáo dục học sinh. Vấn đề cơ bản trong công tác phối hợp các lực lượng xã hội, là không chỉ dừng ở nhận thức mà quan trọng là xây dựng được chương trình, kế hoạch hoạt động thống nhất, khép kín cả về thời gian và không gian tác động đến học sinh. GVCN cần phải khai thác triệt để và hợp lý mọi tiềm năng của các lực lượng xã hội vào việc thực hiện nội dung giáo dục, hoạt động của lớp chủ nhiệm b.2 Điều kiện để GVCN thực hiện những giải pháp, biện pháp giáo dục b.2.1. Người GVCN lớp, trước hết phải thực hiện tốt những nhiệm vụ của người thầy (nghĩa là phải đảm bảo các yêu cầu cơ bản của người thầy giáo). 7 Giáo viên: Nguyễn Thị Nhân _ Trường THPT Buôn Ma Thuột_ Email: [email protected] VAI TRÒ CỦA GIÁO VIÊN CHỦ NHIỆM TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN VÀ HOÀN THIỆN NHÂN CÁCH HỌC SINH Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG 2011-2012 + Mẫu mực về đạo đức, gương mẫu trong việc chấp hành về pháp luật và những quy định của Nhà nước, nắm vững đường lối quan điểm của Đảng, biết vận dụng sáng tạo vào thực tiễn giáo dục thế hệ trẻ, làm tốt công tác giáo dục. + Phát triển trí tuệ cho học sinh, giáo dục và rèn luyện những phẩm chất và năng lực cho học sinh để họ trở thành những công dân tương lai của đất nước. + Phải tham gia các hoạt động chính trị xã hôi với tư cách là lực lượng trí thức trong công cuộc đổi mới, giác ngộ quần chúng nhằm góp phần xây dựng nền văn hóa mới. b.2.2. GVCN còn có nhiệm vụ nắm vững tình hình học sinh của lớp về mọi mặt để báo cáo với Ban giám hiệu theo định kỳ hoặc đột xuất nếu có vấn đề cần giải quyết. Nắm vững tình hình học sinh để có những yêu cầu, những biện pháp tác động thích hợp, kịp thời chỉ đạo, kiểm tra, đánh giá công bằng, khách quan quá trình rèn luyện, phấn đấu tu dưỡng của từng học sinh trong lớp chủ nhiệm. b.2.3. Có kế hoạch tổ chức hoạt động của tập thể học sinh, thực hiện tốt nhiệm vụ chung của nhà trường cùng với các tập thể lớp học khác. Thông qua tổ chức tự quản mà tổ chức các hoạt động của tập thể lớp để rèn luyện nhân cách, khả năng giao tiếp, ứng xử, năng lực sáng tạo vận dụng tri thức vào thực tiễn cuộc sống. b.2.4. Cùng với giáo viên bộ môn, và các tổ chức trong nhà trường phối hợp các hoạt động, các tác động giáo dục rèn luyện phát triển trí tuệ, năng lực và phẩm chất cho học sinh. b.2.5. Thường xuyên liên hệ với gia đình, cộng đồng, các lực lượng giáo dục ngoài nhà trường để cùng thống nhất yêu cầu, phối hợp các tác động, cùng tạo cho các học sinh tham gia các hoạt động của cộng đồng và của địa phương, thông qua đó mà phát huy ảnh hưởng của nhà trường trong xã hôi, góp phần thực hiện công cuộc đổi mới, góp phần thực hiện mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. b.2.6. GVCN còn phải nghiên cứu, nắm vững đường lối quan điểm giáo dục của Đảng, nắm vững mục tiêu giáo dục nói chung, mục tiêu cấp học, lớp học, nhiệm vụ của năm học, nhiệm vụ của các tổ chức trong nhà trường… Để vận dụng vào thực tiễn, tình hình của lớp một cách thích hợp. b.3. Nội dung công tác của người giáo viên chủ nhiệm. b.3.1. Tìm hiểu và nắm vững đối tượng giáo dục. Nhà giáo dục vĩ đại nga: K.D.Usinxki nói rằng “Muốn giáo dục con người về mọi mặt thì phải hiểu con người về mọi mặt”. Nếu hiểu học sinh thì có thể chọn lựa được những tác động thích hợp. Nếu không hiểu học sinh thì không thể tìm hiểu được những phương pháp giáo dục phù hợp với đối tượng và do đó có thể thất bại. Kết quả việc lựa chọn nội dung và các hình thức giáo dục cũng cần căn cứ vào đặc điểm đối tượng. Chú ý đặc điểm đối tượng là một nguyên tắc quan trọng của giáo dục. Tìm hiểu học sinh và tập thể học sinh vừa là điều kiện để làm tốt công tác chủ nhiệm lớp vừa là một nội dung quan trọng trong công tác của người GVCN. - GVCN cần tìm hiểu và nắm vững các đặc điểm cơ bản về tâm sinh lý, tính cách, năng lực, sức khỏe, năng lực phát triển trí tuệ, sở thích, nguyện vọng, xu hướng, năng khiếu, tư tưởng, phẩm chất đạo đức của học sinh. Về hoàn cảnh sống, về mối quan hệ với tập thể, mối quan hệ bè bạn, với người xung quanh… Qua đó để thấy được mặt mạnh, mặt yếu của từng học sinh, của tập thể lớp để phát huy và khắc phục. Trên cơ sở đó phát hiện ra những yếu tố mới, những mầm mống mới, những nhân tố tích cực để làm nòng cốt cho phong trào chung của lớp. - Để tìm hiểu và nắm vững đối tượng giáo dục, người GVCN có thể vận dụng những cách thức sau đây: 8 Giáo viên: Nguyễn Thị Nhân _ Trường THPT Buôn Ma Thuột_ Email: [email protected] VAI TRÒ CỦA GIÁO VIÊN CHỦ NHIỆM TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN VÀ HOÀN THIỆN NHÂN CÁCH HỌC SINH Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG 2011-2012 + Tìm hiểu thông qua hồ sơ học sinh (học bạ, y bạ, sơ yếu lý lịch, các bản tự nhận xét, tự đánh giá của học sinh ở lớp trước, nhận xét của giáo viên cũ). + Tìm hiểu qua giấy tờ, sổ sách của lớp (như sổ điểm, sổ điểm danh, sổ biên bản của lớp, của tổ…). + Quan sát hằng ngày về hoạt động, về thái độ và hành vi của học sinh ở trường lớp, ngoài lớp, ở trong và ngoài nhà trường. + Đàm thoại với cá nhân và tập thể HS , với cán bộ Đoàn, với giáo viên bộ môn. + Thông qua việc thăm gia đình học sinh và trò chuyện với cha mẹ học sinh. + Bằng phương pháp điều tra, nghiên cứu sản phẩm hoạt động và thực nghiệm. - GVCN cần phải có sổ chủ nhiệm để ghi chép những điều cần thiết đã tìm hiểu, nghiên cứu về học sinh. Nó làm cơ sở cho việc theo dõi, giáo dục lâu dài. Những thông tin thu được qua quá trình tìm hiểu học sinh cần được GVCN phân tích, tổng hợp, so sánh, phân loại… để rút ra những kết luận chính xác, khách quan về đối tượng giáo dục, tránh kết luận vội vàng, nhầm lẫn, thiếu thiện chí. b.3.2. Xây dựng tập thể lớp trở thành tập thể đoàn kết, thân ái, có sức mạnh : Tập thể lớp có vai trò rất quan trọng trong việc giáo dục học sinh. Nó vừa là môi trường, vừa là phương tiện giáo dục học sinh. Bởi vậy GVCN phải xây dựng tập thể lớp vững mạnh. - GVCN cần hiểu rõ các giai đoạn phát triển của tập thể để có những tác động thích hợp. - Đề ra những yêu cầu để tập thể phấn đấu. - Bồi dưỡng những phần tử tích cực để làm nòng cốt cho lớp, cá nhân điển hình. - Tổ chức các hoạt động phong phú đa dạng trong học tập, lao động vui chơi, giải trí, văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao… - Thường xuyên phát động phong trào thi đua tự giác với nhiều chủ đề khác nhau. - Phát hiện kịp thời những phần tử tiêu cực, tìm hiểu nguyên nhân để có những tác động phù hợp, kịp thời. - GVCN cần biết tranh thủ sự giúp đỡ, đồng tình và sự đóng góp của lực lượng như: GV bộ môn, Đoàn thể, hội cha mẹ học sinh trong quá trình xây dựng tập thể. - Trong quá trình xây dựng tập thể điều cần thiết là luôn đề ra những mục tiêu cụ thể, phù hợp với mục tiêu chung, và mục tiêu ấy phải được tập thể bàn bạc đồng tình, phù hợp với từng giai đoạn phát triển của tập thể. Phải biết xây dựng những truyền thống tốt và những dư luận lành mạnh trong quá trình xây dựng tập thể vững mạnh. b.3.3. Tổ chức thực hiện nội dung giáo dục toàn diện cho HS lớp chủ nhiệm: - Để có thể nâng cao hiệu quả giáo dục toàn diện cho học sinh, GVCN cần nhận thức rõ về sự cần thiết của tất cả các nội dung giáo dục toàn diện. Tổ chức các hoạt động của tập thể lớp theo mục đích giáo dục toàn diện, có kế hoạch và có sự chọn lựa nội dung, hình thức hoạt động phù hợp với đặc điểm lứa tuổi, nhu cầu, hứng thú và khả năng của học sinh. - Các hoạt động ngoài giờ lên lớp cần được coi trọng đúng mức, có thể phát động phong trào thi đua theo các chủ điểm có nội dung phù hợp nhân các ngày lễ lớn ( Ngày Hội khai trường, các ngày lễ 20/10, 20/11, 22/12, 9/1, 3/2, 26/3, 30/4 và 1/5, 19/5…). + Giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức, pháp luật. GVCN cần hiểu rằng: giáo dục chính trị, tư tưởng,đạo đức cho học sinh là một công tác hàng đầu có tác dụng thúc đẩy các mặt giáo dục khác. - GVCN có thể giúp học sinh xác định đúng đắn mục đích, động cơ thái độ học tập và các quan hệ hằng ngày trong cuộc sống. 9 Giáo viên: Nguyễn Thị Nhân _ Trường THPT Buôn Ma Thuột_ Email: [email protected] VAI TRÒ CỦA GIÁO VIÊN CHỦ NHIỆM TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN VÀ HOÀN THIỆN NHÂN CÁCH HỌC SINH Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG 2011-2012 - GVCN cần phải nắm vững tình hình chính trị, tư tưởng đạo đức hằng ngày của học sinh trong lớp. Khi xuất hiện học sinh cá biệt về đạo đức thì GVCN phải biết phân loại, tìm hiểu nguyên nhân để có những tác động phù hợp và kịp thời. - GVCN cần phải có chương trình, kế hoạch giáo dục chính trị-tư tưởng, đạo đức trong năm, học kỳ, hàng tháng rõ ràng, cụ thể. - GVCN có thể phối hợp với giáo viên bộ môn, chi đoàn lớp, Hội cha mẹ học sinh để thống nhất các yêu cầu và các tác động. - Cần tổ chức các hoạt động như: nghe báo cáo thời sự sinh hoạt truyền thống, xem phim, cắm trại, tổ chức lao động công ích, tổ chức kỷ niệm các ngày lễ lớn trong năm…thông qua đó để giáo dục chính trị, tư tưởng đạo đức cho học sinh. + Nâng cao chất lượng học tập văn hóa. Học tập là nhiệm vụ hàng đầu của người HS trong nhà trường. Việc nâng cao thành tích học tập của học sinh là nhiệm vụ trung tâm của nhà trường và mỗi một học sinh. Thành tích học tập của học sinh là thước đo rèn luyện phấn đấu của các em trong quá trình học tập. Thành tích học tập được thể hiện ở thái độ và kết quả cụ thể qua các môn học. Vì vậy, để nâng cao thành tích học tập văn hóa của HS trong lớp GVCN cần phải: - Thông qua tập thể lớp để đề ra những yêu cầu học tập đối với lớp và từng cá nhân học sinh. - Xây dựng dư luận lành mạnh, làm cho học sinh ý thức được nghĩa vụ học tập của mình, xác định được động cơ, thái độ học tập đúng đắn. - Giúp các học sinh tìm ra các phương pháp học tập có hiệu quả. - Tổ chức nhiều hoạt động học tập phong phú, đa dạng như học tổ, học nhóm, thành lập câu lạc bộ môn học, trao đổi kinh nghiệm học tập… - Đối với học sinh yếu kém thì phải tìm hiểu nguyên nhân để có biện pháp kèm cặp, giúp đỡ kịp thời. - Đối với học sinh khá, giỏi thì nên thu hút các em vào các nhóm ngoại khóa, các câu lạc bộ, giới thiệu thêm sách tham khảo, giúp đỡ học sinh yếu kém, và có kế hoạch cùng giáo viên bộ môn bồi dưỡng, giao thêm bài tập. - Phát động phong trào thi đua học tập tốt để kích thích tích cực học tập cho HS. - Phối hợp với gia đình động viên, tạo điều kiện để các em chăm học, học tập đạt kết quả cao và phù hợp với sự phát triển của các em. - Tìm các biện pháp khắc phục tình trạng học lệch, học đối phó, học thuộc lòng một cách máy móc, học tập thiếu tính kế hoạch, thiếu trung thực trong kiểm tra và thi cử… - Xây dựng nề nếp học tập như: đi học đúng giờ, không bỏ buổi, bỏ tiết nếu không có lý do đặc biệt, chuẩn bị bài và làm bài đầy đủ trước khi đến lớp, tích cực, độc lập tự giác, sáng tạo trong quá trình học tập, chú trọng rèn luyện ý chí, nghị lực vượt qua khó khăn để học tập tốt. + Giáo dục lao động và hướng nghiệp. - Giáo dục lao động và hướng nghiệp cho học sinh trong nhà trường phổ thông là một mặt, một nội dung giáo dục toàn diện. HS có thể tham gia nhiều loại hình lao động như lao động tự phục vụ, lao động công ích, lao động tạo ra của cải vật chất…v.v.GVCN cần phải: - Căn cứ vào kế hoạch của nhà trường, tình hình của lớp để có chương trình, kế hoạch giáo dục lao động và hướng nghiệp cho học sinh trong lớp. - Quán triệt ý nghĩa của giáo dục lao động và hướng nghiệp cho học sinh. - Tổ chức, hướng dẫn cho HS hăng hái tham gia hoạt động hướng nghiệp. - Trong quá trình tổ chức lao động cho học sinh GVCN cần phải quan tâm tới cả hiệu quả của giáo dục lẫn hiệu quả kinh tế. 10 Giáo viên: Nguyễn Thị Nhân _ Trường THPT Buôn Ma Thuột_ Email: [email protected] VAI TRÒ CỦA GIÁO VIÊN CHỦ NHIỆM TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN VÀ HOÀN THIỆN NHÂN CÁCH HỌC SINH Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG 2011-2012 - Trông công tác hướng nghiệp cho học sinh, GVCN có vai trò rất quan trọng phải là người am hiểu và giới thiệu cho học sinh các nghề nghiệp khác nhau trong xã hội, hướng phát triển của các nghề, tổ chức cho học sinh làm quen với một số nghề phổ biến ở địa phương, tạo điều kiện cho học sinh thích ứng nghề và giúp các em lựa chọn nghề nghiệp phù hợp với năng lực của bản thân và nhu cầu của xã hội hiện nay. + Tổ chức các hoạt động để giáo dục thể chất. Giáo dục thể chất là một trong các nội dung giáo dục để hình thành và phát triển nhân cách toàn diện cho học sinh phổ thông. Giáo dục thể chất nhằm nâng cao sức khỏe và bồi dưỡng năng khiếu thể dục thể thao, góp phần nâng cao giáo dục toàn diện cho học sinh. Giúp cho học sinh học tập tốt, lao động tốt, có cuộc sống vui tươi, lành mạnh, lạc quan yêu đời. Góp phần chuẩn bị cho học sinh về mặt tinh thần và thể lực để bước vào cuộc sống. Giáo dục thể chất được đưa vào kế hoạch chủ nhiệm lớp và chương trình hoạt động của học sinh. Hiểu biết về vệ sinh thân thể, vệ sinh đồ dùng cá nhân, vệ sinh hoàn cảnh, vệ sinh học tập, vệ sinh giới tính… Giáo dục cho học sinh thói quen tự rèn luyện và giữ gìn vệ sinh để nâng cao sức khỏe. Một trong những nguyên tắc cơ bản của việc rèn luyện thân thể là rèn luyện thường xuyên và lâu dài. Nếu chỉ rèn luyện thân thể ở trường, lớp thì học sinh chưa đủ điều kiện để hình thành kỹ năng, kỹ xảo bền vững. Học sinh phải có thói quen tự rèn luyện và giữ gìn vệ sinh để củng cố đều đặn các kỹ năng và kỹ xảo. Thói quen như một bản năng thứ hai của con người. Vì vậy cần giúp cho học sinh thấy được lợi ích của việc rèn luyện thân thể như một nhu cầu không thể thiếu được ở con người. Mỗi học sinh phải thấy được tác dụng của những bài luyện tập thể dục thể thao và các vấn đề giữ gìn vệ sinh đã ảnh hưởng tới sự phát triển của cơ thể. Phải làm cho học sinh dần dần biến yêu cầu chung thành nhu cầu riêng của bản thân để hành động một cách hoàn toàn tự giác. Việc hình thành thói quen tự rèn luyện và giữ gìn vệ sinh đòi hỏi phải thường xuyên, kiên trì, bền bỉ, dần dần, từ từ. Phải giúp cho học sinh hiểu, có tình cảm, có ý chí để luyện tập, rèn luyện. Cần có sự động viên, khuyến khích, kiểm tra, đôn đốc kịp thời. Thói quen tự rèn luyện và giữ gìn vệ sinh được hình thành sẽ có tác dụng tích cực, giúp học sinh tham gia các hoạt động thể dục, thể thao và giữ gìn vệ sinh một cách tự nguyện, thoải mái, say mê, đạt hiệu quả cao. Khắc phục mọi khó khăn về cơ sở vật chất để tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp nhằm nâng cao khả năng rèn luyện, kích thích hứng thú và tạo điều kiện bộc lộ khả năng cho học sinh. Động viên, giúp đỡ, khích lệ kịp thời và đề ra yêu cầu cho học sinh phấn đấu. + Công tác giáo dục thẩm mĩ trong nội dung chủ nhiệm lớp. Giáo dục thẩm mĩ trong nhà trường phổ thông là quá trình giáo dục nhằm bồi dưỡng cho học sinh những hiểu biết, khả năng cảm thụ, phát hiện, đánh giá đúng cái đẹp và cái không đẹp trong tự nhiên, trong cuộc sống và trong nghệ thuật. Hình thành ở học sinh nhu cầu và năng lực sáng tạo cái đẹp, mang cái đẹp vào trong cuộc sống. GVCN có thể chỉ bảo, giúp đỡ, hướng dẫn cho học sinh nắm được những tri thức, có quan niệm đúng về cái thẩm mĩ. Trên cơ sở những hiểu biết đó, tổ chức các hoạt động nhằm bồi dưỡng năng lực tri giác, cảm thụ cái đẹp trong tự nhiên, trong cuộc sống và trong nghệ thuật. - GVCN cần phải dựa vào các tổ chức, Đoàn thể để tổ chức các hoạt động tập thể, vui chơi giải trí… cho học sinh. Như tổ chức cho học sinh tham quan, cắm trại, xem một bộ phim hay, một vở kịch, hội diễn văn nghệ… Qua đó tạo không khí vui tươi, lành mạnh, đoàn kết thân ái hiểu biết lẫn nhau… b.3.4. Phối hợp công tác giáo dục và giúp đỡ tổ chức Đoàn TNCS Hồ Chí Minh 11 Giáo viên: Nguyễn Thị Nhân _ Trường THPT Buôn Ma Thuột_ Email: [email protected] VAI TRÒ CỦA GIÁO VIÊN CHỦ NHIỆM TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN VÀ HOÀN THIỆN NHÂN CÁCH HỌC SINH Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG 2011-2012 - Trong nhà trường THPT việc tổ chức Đoàn TNCS Hồ Chí Minh là một tổ chức chính trị của quần chúng Thanh thiếu niên học sinh. Tập hợp những phần tử tích cực trong thanh thiếu niên học sinh, có vai trò giáo dục rất quan trọng trong lớp. GVCN cần phải: + Giúp đỡ chi Đoàn, xây dựng kế hoạch công tác, tổ chức các hoạt động. + Phát triển tính năng động, sáng tạo của BCH chi Đoàn để tổ chức nhiều hoạt động phong phú, đa dạng, qua đó mà giáo dục học sinh. + Tôn trọng tính độc lập của tổ chức Đoàn + Phối hợp các hoạt động của lớp với các hoạt động của Đoàn, hướng tới mục tiêu giáo dục toàn diện cho học sinh. * Phối hợp với các giáo viên bộ môn để giáo dục học sinh. - Trong nhà trường phổ thông trung học, GVCN cùng với giáo viên bộ môn hợp thành một tập thể sư phạm có sức mạnh giáo dục to lớn. Vì vậy trong công tác chủ nhiệm lớp người GVCN cần phải: - Là người phối hợp với giáo viên bộ môn để cung thực hiện các tác động giáo dục. Đó là sự thống nhất yêu cầu, nội dung, phương pháp giáo dục đối với học sinh để tạo nên sức mạnh tổng hợp. - GVCN cần phải theo dõi sổ sách của lớp, dự giờ, dự các hoạt động ngoài giờ, tìm hiểu nguyện vọng, khắc phục những khó khăn trong học tập cho học sinh, phát hiện kịp thời những vướng mắc trong học tập của học sinh để phản ánh kịp thời với giáo viên bộ môn, đồng thời đề đạt những biện pháp để nâng cao chất lượng học tập cho học sinh. * Phối hợp với cha mẹ học sinh để giáo dục học sinh. Gia đình là tế bào của xã hội. Giáo dục gia đình là một bộ phận hữu cơ trong sự nghiệp giáo dục thế hệ trẻ. Ảnh hưởng của gia đình đối với học sinh là vô cùng to lớn: Sự gương mẫu ông bà, cha mẹ, anh chị, mối quan hệ trong gia đình, truyền thống giáo dục… tác động tới con em một cách trực tiếp, thường xuyên và nhiều mặt. Do đó, GVCN cần phải thay mặt nhà trường kết hợp với gia đình trong quá trình giáo dục: - Cần làm cho cha mẹ học sinh thấy rõ mục đích giáo dục, nội dung giáo dục, những đặc điểm, kế hoạch hoạt động giáo dục của nhà trường, của lớp. Để từ đó thống nhất các yêu cầu giáo dục và phối hợp các hoạt động nhằm giáo dục toàn diện cho HS. - Việc phối hợp giáo dục có thể tiến hành theo nhiều hình thức khác nhau: + Thông qua sổ liên lạc gia đình. + Định kỳ tổ chức các cuộc họp cha mẹ học sinh. + Thăm gia đình học sinh. + Mời phụ huynh đến trường. + Trao đổi qua thư từ với cha mẹ học sinh. + Mời một số cha mẹ học sinh tham gia trực tiếp vào một số hoạt động phù hợp với điều kiện và khả năng của họ. + Thành lập hội cha mẹ học sinh ( Ban phụ huynh học sinh của lớp ) để phối hợp hoạt động thường xuyên trong tháng, trong học kỳ và cả năm học. * Kế hoạch công tác chủ nhiệm lớp. - Yêu cầu của việc xây dựng kế hoạch chủ nhiệm lớp. Nội dung công tác chủ nhiệm rất phong phú, đa dạng và toàn diện liên quan đến tất cả các mặt hoạt động của học sinh trong lớp. Vì vậy muốn bảo đảm công tác chủ nhiệm đạt hiệu quả cao, muốn thực hiện tốt tất cả các nội dung công tác chủ nhiệm một cách có hiệu quả đòi hỏi người GVCN phải có kế hoạch chủ nhiệm. - Nội dung kế hoạch chủ nhiệm lớp: 12 Giáo viên: Nguyễn Thị Nhân _ Trường THPT Buôn Ma Thuột_ Email: [email protected] VAI TRÒ CỦA GIÁO VIÊN CHỦ NHIỆM TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN VÀ HOÀN THIỆN NHÂN CÁCH HỌC SINH Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG 2011-2012 + Kế hoạch chủ nhiệm là cụ thể hóa mục tiêu, nội dung giáo dục vào một tập thể đoàn kết, kế hoạch chủ nhiệm là một chương trình hành động thực thi vào một giai đoạn cụ thể (có kế hoạch cả năm, từng học kỳ, từng tháng…). + Kế hoạch của GVCN phải được thể hiện qua các kế hoạch của ban cán sự và tập thể lớp. Biến dự kiến chủ nhiệm thành nhu cầu, quyết tâm thực hiện của tập thể học sinh tự đề ra yêu cầu, nội dung, bàn biện pháp, phân công điều hành, tổ chức thực hiện. + Sau khi đã nắm chắc các cơ sở để xây dựng kế hoạch, cần xây dựng kế hoạch cả năm, kế hoạch từng học kỳ, từng tháng và từng tuần. + Nội dung cụ thể của kế hoạch cả năm, từng học kỳ có thể như sau: Khái quát chung về đặc điểm tình hình chung của lớp: nếu số lượng học sinh nam, nữ, những thuận lợi và khó khăn của lớp, những mặt mạnh và yếu của lớp (về hoàn cảnh, kinh tế gia đình, nhu cầu, hứng thú, sở thích, năng khiếu, nguyện vọng…), con thương binh, con liệt sĩ, con mồ côi (cha, mẹ, cả cha lẫn mẹ). Nêu phương hướng chung của lớp: dựa trên phương hướng của nhà trường trong năm học, trong học kỳ. Dựa trên đặc điểm tình hình của lớp mà đưa ra phương án chung của lớp trong năm học, học kỳ. Nôi dung các mặt giáo dục, các hoạt động (có thể chia thành các cột hay theo 5 mặt giáo dục toàn diện). + Từ kế hoạch chủ nhiệm cả năm lần lượt xây dựng kế hoạch cho từng học kỳ, từng tháng, từng tuần. Kế hoạch công tác chủ nhiệm hàng tuần được xem là giáo án chủ nhiệm. - Chỉ đạo tập thể học sinh thực hiện kế hoạch + Bồi dưỡng năng lực tổ chức, chỉ đạo và thực hiện kế hoạch cho đội ngũ cán bộ lớp để họ làm tốt nhiệm vụ được giao. + Trong quá trình thực hiện kế hoạch, phải theo dõi, uốn nắn, kiểm tra đôn đốc để thực hiện kế hoạch đã định. + Cần tổng kết đúc rút kinh nghiệm, sau mỗi đợt công tác GVCN cần đề ra hướng công tác tới, có khen chê đối với tập thể và cá nhân. + Trong khi điều hành công việc của lớp mình, GVCN cần có sổ chủ nhiệm để ghi chép theo dõi hàng ngày. b.4. Những yêu cầu cơ bản về phẩm chất và năng lực của người giáo viên chủ nhiệm Để làm tốt công tác chủ nhiệm lớp người GVCN phải có những yêu cầu cơ bản sau: - Hiểu biết sâu sắc học sinh trong lớp chủ nhiệm, hết lòng thương yêu học sinh, và nhiệt tình trong công tác chủ nhiệm - Biết xây dựng kế hoạch đúng, phù hợp. - Có đủ phẩm chất và năng lực của người thầy giáo xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Để có những điều kiện trên, người GVCN phải nổ lực phấn đấu, rèn luyện với tình cảm nghề nghiệp “tất cả vì học sinh thân yêu”, luôn đặt kế hoạch tự hoàn thiện bản thân về mọi mặt. - Luôn nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, trao đổi kinh nghiệm. - Luôn rèn luyện đạo đức tác phong, mẫu mực trong giao tiếp xã hội,đồng nghiệp , thầy trò. - Xây dựng gia đình văn hóa mới. -Người GVCN ngoài việc nắm vững và vận dụng linh hoạt sáng tạo ba nhóm phương pháp giáo dục nói chung, ngoài ra cần nắm vững và vận dụng phương pháp giáo dục cá biệt, phương pháp giáo dụng trong tập thể trong những hoàn cảnh cụ thể. * Phương pháp tác động cá biệt: 13 Giáo viên: Nguyễn Thị Nhân _ Trường THPT Buôn Ma Thuột_ Email: [email protected] VAI TRÒ CỦA GIÁO VIÊN CHỦ NHIỆM TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN VÀ HOÀN THIỆN NHÂN CÁCH HỌC SINH Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG 2011-2012 - Phương pháp tác động cá biệt còn được gọi là: Phương pháp giáo dục cá biệt, hoặc là phương pháp tác động trực tiếp, hoặc là phương pháp tác động tay đôi. Đó là sự tác động trực tiếp giữa GVCN với đối tượng hoc sinh bằng sự cảm hóa, mệnh lệnh, thuyết phục hoặc cưỡng bức buộc học sinh phải thực hiện yêu cầu, chấp nhận quan điểm, chuẩn mực hành vi đạo đức của GVCN đặt ra. - Phương pháp giáo dục cá biệt có những ưu điểm sau: + Bằng uy tín và vị thế của GVCN, phương pháp tác động trực tiếp đem lại hiệu quả tức thời. Ví dụ: Học sinh nói chuyện trong giờ học có thể nhắc nhở. Một học sinh có biểu hiện hành vi tốt có thể tuyên dương, động viên, khen thưởng bằng lời. + Tác động trực tiếp thường gây dấu ấn những tác động tâm lý làm chuyển biến thái độ, hành vi, tình cảm ở học sinh, có thể rất tốt nếu tác động kịp thời, đúng với tính chất, mức độ biểu hiện ở học sinh. Kết quả của sự tác động trực tiếp phụ thuộc vào thái độ, tình cảm của GVCN khi tác động. - Tuy nhiên, nếu GVCN không đo được mức độ của hành vi, sử dụng không tương ứng thì sẽ không có tác dụng giáo dục, nhiều khi dẫn đến phản tác dụng giáo dục. Ví dụ: Không đáng khen mà khen quá lời cũng không tốt. Có trường hợp đúng là chỉ nhắc nhở, nhưng vì lý do nào đó mà GVCN phê bình hay cảnh cáo điều đó dễ làm cho học sinh hậm hực, mất lòng tin, bi quan, chán nản. “Không nên dùng rìu để mổ gà” đó là lời khuyên đối với GVCN khi xử lý các trường hợp tác động đến học sinh. * Phương pháp tác động song song: - Ngược lại với phương pháp tác động trực tiếp là “Phương pháp tác động song song” hay còn gọi là “Phương pháp giáo dục trong tập thể, bằng tập thể”. Người có công sáng tạo ra lý luận của phương pháp này là nhà giáo dục A.S.Makarenkô. - Phương pháp tác động song song là phương pháp mà người GVCN không tác động trực tiếp tới từng đối tượng, mà phải thông qua các thành viên khác (có thể là lớp trưởng, ban cán sự lớp, bí thư chi đoàn, ban chỉ huy chi đoàn, bạn bè trong nhóm nhỏ) để các thành viên trong tập thể nhắc nhở, tác động lẫn nhau. Ví dụ ở lớp có hiện tượng quay cóp khi kiểm tra, tuy GVCN biết đó là ai nhưng không phê bình trực tiếp mà yêu cầu lớp trưởng hoặc bí thư chi đoàn họp nhắc nhở, rút kinh nghiệm, tự học sinh đề ra yêu cầu, biện pháp chấm dứt hiện tượng đó. Hoặc GVCN nhắc chung đối với tập thể lớp, không cần nêu rõ là ai, chỉ yêu cầu chấm dứt. - Cơ sở khoa học của Phương pháp tác động song song là dùng dư luận xã hội để điều chỉnh hành vi cá nhân, phát huy tính tích cực hoạt động của HS, vai trò tự quản, khả năng tự điều chỉnh của chủ thể trong quá trình tự giáo dục thông qua hoạt động tập thể. - Bản chất của phương pháp tác động song song là xây dựng tập thể lớp trở thành môi trường giáo dục lành mạnh, thiết lập các mối quan hệ trong tập thể thành tác động, chi phối nhận thức, hành vi, tình cảm của cá nhân. Xây dựng dư luận của tập thể để điều chỉnh hành vi cá nhân (qua dư luận của tập thể, mà mỗi thành viên tự điều chỉnh hành vi của mình). - Để phát huy được hiệu quả của Phương pháp tác động song song, GVCN cần phải: + GVCN trước hết là người có uy tín, có trách nhiệm. + Phải nắm vững được đặc điểm, hoàn cảnh…của đối tượng giáo dục. + Phải xây dựng được tập thể học sinh trở thành một tập thể vững mạnh có đầy đủ các đặc điểm sau: * Phương pháp “Bùng nổ sư phạm”: 14 Giáo viên: Nguyễn Thị Nhân _ Trường THPT Buôn Ma Thuột_ Email: [email protected] VAI TRÒ CỦA GIÁO VIÊN CHỦ NHIỆM TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN VÀ HOÀN THIỆN NHÂN CÁCH HỌC SINH Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG 2011-2012 - Ngoài hai phương pháp nêu trên GVCN cần biết qua sử dụng phương pháp bùng nổ sư phạm. Bùng nổ sư phạm là nghệ thuật tác động tới đối tượng, vào đối tượng khi đối tượng “có vấn đề” đặc biệt. - Về bản chất “Bùng nổ sư phạm” là sự tác động trực tiếp nhưng sử dụng với mức độ sử dụng mạnh, bất ngờ vào quá trình hưng phấn và ức chế của hoạt động sinh lý thần kinh dẫn tới sự thay đổi trạng thái tâm lý ở học sinh, làm thay đổi các quá trình tâm lý như nhận thức, xúc cảm, tình cảm, hành vi ở đối tượng tác động. Ví dụ: Có học sinh lười học, bi quan, mất lòng tin hoặc tự cao, tự phụ hiểu lầm nhau, hoặc phong trào của tập thể có lúc lên, lúc xuống… tất cả những trường hợp đó có thể dùng nghệ thuật “Bùng nổ” để “kích” lên hoặc để “hãm” lại những biểu hiện quá đà. - Phương tiện để bùng nổ sư phạm là ngôn ngữ, hành vi, quyết định của GVCN và của tập thể. Ví dụ: Một học sinh gặp khó khăn về gia đình hoặc ốm đau… nếu bất ngờ được GVCN quan tâm, giúp đỡ, viện trợ…giúp học sinh đó vượt qua được bế tắc nói trên thì đó là sự bùng nổ. - Khi sử dụng bùng nổ sư phạm GVCN cần lưu ý: + Cần phải “chớp thời cơ” và cũng cần tạo ra thời cơ để tác động. Ví dụ: Một học sinh lấy cắp của bạn vì thiếu tiền, hoặc bản thân không kìm chế được ham muốn, GVCN biết (theo dự đoán) mặc dù không bắt được quả tang, và không muốn “Đao to búa lớn”…đã rủ em đó về nhà chơi và kể cho em đó nghe về kỉ niệm của những học trò cũ, hoặc cho học sinh xem nhật ký, đọc những bức thư về tính thật thà… hoàn toàn ngẫu nhiên. Như vậy đã đưa học trò đó vào cuộc tự đấu tranh về hành vi lấy cắp của mình. Từ đó em đã dũng cảm đem trả bạn với lời xin lỗi thành thật của mình… + Bùng nổ sư phạm nó như “Con dao hai lưỡi”, nếu GVCN để học sinh biết ý đồ của mình thì sẽ không có tác dụng, hoặc tác động sẽ không có ý nghĩa giáo dục. Do vậy tác động trong bùng nổ sư phạm phải gây được ấn tượng sâu sắc, gây được xúc cảm mạnh, bất ngờ, đối tượng tác động hoàn toàn không hiểu được ý đồ của nhà sư phạm. b.5. GVCN phối hợp với các tổ chức khác để giáo dục HS Ở trường THPT, mọi giáo viên đặc biệt là giáo viên làm công tác quản lý nhà trường, chủ nhiệm lớp, phụ trách các hoạt động giáo dục cần phải có phương pháp làm việc với các tổ chức của học sinh. * Phối hợp với đoàn thanh niên + Đối với Ban giám hiệu nhà trường: Đoàn là chỗ dựa vững chắc của nhà trường. Đoàn TN trong nhà trường là một tổ chức hoạt động độc lập theo Điều lệ Đoàn và chỉ thị của Đoàn cấp trên nhưng lại thống nhất với các hoạt động của nhà trường. + Ban giám hiệu, giáo viên… trong nhà trường không có quyền can thiệp vào công tác đoàn với tư cách là người lãnh đạo, nhưng cần thiết và có trách nhiệm đóng góp, tham gia vào mọi hoạt động của Đoàn với tư cách cố vấn, một nhà sư phạm, một đảng viên, hay một cựu đoàn viên vì sự nghiệp giáo dục thế hệ trẻ; đồng thời vận động các tổ chức khác trong trường phối hợp với Đoàn TN chăm lo giáo dục, đào tạo thanh thiếu niên. + Đối với các tổ chức xã hội của thanh niên: Đoàn TN có vai trò nòng cốt trong việc xây dựng, tổ chức và hoạt động của Hội liên hiệp thanh niên học sinh, Hội sinh viên Việt Nam (ở các trường đại học): cử cán bộ có năng lực, có uy tín tham gia điều hành Hội, tạo mọi điều kiện cho Hội duy trì và phát huy chức năng giáo dục hội viên, có kế hoạch bồi dưỡng cán bộ Hội… - Hoạt động của Đoàn trong nhà trường THPT là một bộ phận hữu cơ của quá trình sư phạm. Phương hướng và nhiệm vụ công tác của Đoàn trường là động viên giúp đỡ, tạo điều kiện cho đoàn viên học sinh làm tốt các nhiệm vụ học tập, tổ chức các nhiệm vụ học tập, tu dưỡng rèn luyện ngoài giờ lên lớp để củng cố, mở rộng tri thức, kết hợp học tập với 15 Giáo viên: Nguyễn Thị Nhân _ Trường THPT Buôn Ma Thuột_ Email: [email protected] VAI TRÒ CỦA GIÁO VIÊN CHỦ NHIỆM TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN VÀ HOÀN THIỆN NHÂN CÁCH HỌC SINH Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG 2011-2012 lao động, hoạt động xã hội… nhằm tận dụng thời gian hợp lý vào quá trình phát triển trí tuệ, thể chất, tình cảm và phát triển năng lực về mọi mặt (năng lực hoạt động trí tuệ, năng lực hoạt động xã hội…) giúp đoàn viên học sinh từng bước hoà nhập với cuộc sống xã hội sinh động, mau chóng trở thành chủ nhân tương lai của đất nước. * Phối hợp với Hội liên hiệp thanh niên- học sinh Hội liên hiệp thanh niên học sinh (LHTNHS) ở trường THPT là tổ chức cơ sở của Hội liên hiệp thanh niên Việt Nam (Hội LHTN Việt Nam). - Hội liên hiệp thanh niên Việt Nam là tổ chức xã hội rộng rãi nhất của thanh niên và các tổ chức thanh niên Việt Nam yêu nước theo tư tưởng Hồ Chí Minh. - Ở trường PTTH, bộ máy của Hội LHTNHS được gọi là uỷ ban Hội (UBH) được bầu ra trong đại hội hết nhiệm kỳ hàng năm, bao gồm chủ tịch, phó chủ tịch để điều hành công việc hàng ngày của Uỷ ban hội LHTNHS trường. Tổ chức cơ sở trực thuộc của Hội là các chi hội, câu lạc bộ, các đội, các nhóm thanh niên học sinh…cử ra các chi hội trưởng và chi hội phó, đội trưởng và đội phó, chủ nhiệm và phó chủ nhiệm câu lạc bộ, nhóm trưởng và nhóm phó…để điều hành công việc hàng ngày của đơn vị. Với những hình thức tổ chức đa dạng, nội dung phong phú, thiết thực như tổ chức vui chơi, giải trí lành mạnh, tổ chức hoạt động học tập, dạy nghề, tham gia hoạt động trong các câu lạc bộ thể dục thể thao…phù hợp nhu cầu nghề nghiệp, năng khiếu, sở thích giao lưu văn hoá xã hội của thanh niên học sinh. Hội LHTNHS ở trường PTTH được coi là một lực lượng vô cùng quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu, nội dung giáo dục của trường. Hội LHTNHS trong nhà trường là một tổ chức tự quản, có tính độc lập, hoạt động theo Điều lệ Hội và sự chỉ đạo của Hội cấp trên. Tuy vậy, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh nhà trường, với vai trò là tổ chức nòng cốt, hạt nhân của phong trào thanh niên và tuổi trẻ, là người tham gia định hướng, phối hợp và tạo điều kiện để Hội hoạt động, kể cả việc giới thiệu cán bộ, xác định trách nhiệm cho các đoàn viên khi tham gia hội. Đoàn thanh niên cũng có trách nhiệm tìm hiểu tâm tư nguyện vọng của thanh niên học sinh, cử cán bộ, đoàn viên tích cực làm nóng cốt vận động và giúp đỡ thanh niên học sinh lập ra tổ chức Hội của mình. Tính độc lập của Hội không chỉ thể hiện ở cơ chế tổ chức như một hội quần chúng của thanh niên, mà Hội còn là người đại diện cho quyền lợi của thanh niên học sinh: phản ánh nguyện vọng, mong muốn của quần chúng học sinh với lãnh đạo nhà trường, đề nghị lãnh đạo trường, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh khen thưởng hoặc phê bình, nhắc nhở thanh niên cố gắng đạt thành tích cao trong học tập, rèn luyện hoặc không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của người học sinh trong học tập và rèn luyện. Trong nhà trường THPT, nếu phát huy tốt chức năng, nhiệm vụ của mình, Hội LHTNHS sẽ là một lực lượng giáo dục quan trọng. Song trên thực tế ở các trường THPT cơ sở cũng như THPT chuyên ban nhiều nơi, nhiều lúc chưa thực sự quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi cho Hội hoạt động, thậm chí có nơi chỉ coi là tổ chức Đoàn TNCS Hồ Chí Minh và Đội TNTP Hồ Chí Minh là các tổ chức chính trị - xã hội chủ yếu tập hợp và giáo dục thanh thiếu niên học sinh. * Phối hợp với các câu lạc bộ trong trường THPT Trong nhà trường THPT, đặc biệt là trường THPT chuyên ban cần quan tâm đến việc tổ chức các câu lạc bộ (CLB) học sinh. Đây là hình thức sinh hoạt đáp ứng được nhu cầu, hứng thú, nguyện vọng, năng lực, năng khiếu chuyên biệt của học sinh nhằm mở rộng, phát triển tiềm năng ở họ. Tổ chức các loại hình câu lạc bộ chẳng những mang lại quyền lợi hưởng thụ văn hoá, văn nghệ, quyền nghỉ ngơi, vui chơi giải trí tích cực cho học sinh là còn giáo dục, động viên, tổ chức học sinh tham gia tự giác vào quá trình quản lý, sáng tạo và xây dựng đời sống văn hoá nơi trường học và địa phương. Đặc biệt, việc tổ 16 Giáo viên: Nguyễn Thị Nhân _ Trường THPT Buôn Ma Thuột_ Email: [email protected] VAI TRÒ CỦA GIÁO VIÊN CHỦ NHIỆM TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN VÀ HOÀN THIỆN NHÂN CÁCH HỌC SINH Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG 2011-2012 chức CLB theo chuyên đề có tác dụng lớn, giúp học sinh mở rộng, nâng cao kiến thức, sự hiểu biết thực tế, năng lực giao tiếp và phát triển óc sáng tạo, sự say mê. Chính vì vậy, tổ chức CLB trong nhà trường THPT phải thực hiện 3 chức năng sau: - Chức năng giáo dục, nâng cao, mở rộng kiến thức - Chức năng giao tiếp - Chức năng vui chơi giải trí. Ở trường THPT có nhiều loại hình sinh hoạt CLB phù hợp lứa tuổi, năng lực, sở thích của HS và mục tiêu giáo dục của nhà trường. Hai loại hình CLB chủ yếu thường được tổ chức đó là: - Loại hình câu lạc bộ theo môn học: đây là loại hình nhằm nâng cao hứng thú và hiệu quả học tập của HS trong từng môn học ( toán, văn, ngoại ngữ, tin học, âm nhạc…). - Loại hình CLB theo yêu cầu nhiệm vụ chính trị, văn hoá, xã hội nhằm gắn nhiệm vụ học tập với nhiệm vụ xây dựng bản lĩnh chính trị, bồi dưỡng đạo đức trong sáng, lối sống lành mạnh, có văn hoá cũng như hướng vào mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thịnh trị xã hội công bằng, văn minh, xây dựng nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc (như các CLB tìm hiểu xã hội, lịch sử dân tộc, lịch sử Đảng, tư tưởng Hồ Chí Minh, xây dựng nếp sống văn hoá, bảo vệ môi trường…). Qua sinh hoạt CLB, học sinh có điều kiện học hỏi lẫn nhau. Không những thế, qua sinh hoạt CLB, thầy và trò có thể đáp ứng được những đòi hỏi của thực tế xã hội đặt ra cho nhà trường, đồng thời cũng biết đòi hỏi lẫn nhau, không ngừng vươn lên để dạy tốt, học tập và rèn luyện tốt. Sinh hoạt CLB cũng tạo điều kiện cho các em hoà đồng, hiểu biết, thông cảm lẫn nhau, cùng nhau trao đổi tâm tư, nguyện vọng và giúp đỡ lẫn nhau vượt lên mọi khó khăn trong học tập và cuộc sống. Đó là chất keo gắn bó những thành viên, cũng là động lực cho mọi sự sáng tạo, say mê của mọi thành viên. * Xây dựng tập thể học sinh ở trường trung học phổ thông - Con người sống, hoạt động trong hệ thống các mối quan hệ đa dạng giữa nó với thế giới xung quanh. Hai mặt quan trọng nhất của hệ thống đó là quan hệ giữa con người với tự nhiên và quan hệ giữa con người và thế giới vật thể - văn hóa do con người tạo ra. Chính trong các hoạt động có đối tượng và các hoạt động giao lưu muôn màu muôn vẻ đó, con người chiếm lĩnh được bản chất xã hội loài người, nhân cách của con người với tư cách là chủ thể của hoạt động và giao lưu được hình thành và phát triển. - TTHS là hình thức tổ chức của thanh thiếu niên học sinh cùng lứa tuổi, trình độ, đặc điểm tâm - sinh lý, được tập hợp lại nhau trên cơ sở những hoạt động nhằm đạt mục đích chung trong học tập, rèn luyện, lao động, sinh hoạt, vui chơi giải trí… - TTHS vừa là môi trường, vừa là phương tiện biến học sinh từ chỗ với tư cách là đối tượng của quá trình giáo dục, trở thành chủ thể của quá trình tự giáo dục, tự rèn luyện, hình thành và phát triển nhân cách cho học sinh theo nhu cầu của xã hội, của nhà trường. TTHS, bên cạnh vai trò nòng cốt của cơ quan tự quản, còn có vai trò quan trọng của những cá nhân và tập thể những người thầy giáo (nhà giáo dục và tập thể những nhà giáo dục hay TTSP). Với những đặc trưng trên, TTHS có khả năng thực hiện những chức năng sau: - Chức năng tổ chức: Tập thể tập hợp, lôi cuốn học sinh tham gia vào các hoạt động đa dạng, phong phú trong và ngoài nhà trường. - Chức năng giáo dục: Tập thể hình thành và phát triển toàn diện những phẩm chất, năng lực cho học sinh: lĩnh hội tri thức, phát triển trí tuệ, rèn luyện kỹ năng cũng như giáo dục thế giới quan khoa học đạo đức, niềm tin, động cơ, những nét tính cách XHCN, những thói quen và hành vi ứng xử đúng đắn… chỉ có thể được thực hiện trong các mối quan hệ xã hội trong tập thể. 17 Giáo viên: Nguyễn Thị Nhân _ Trường THPT Buôn Ma Thuột_ Email: [email protected] VAI TRÒ CỦA GIÁO VIÊN CHỦ NHIỆM TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN VÀ HOÀN THIỆN NHÂN CÁCH HỌC SINH Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG 2011-2012 - Chức năng kích thích, điều chỉnh: Tập thể động viên tính tích cực, tự giác của học sinh, hình thành động cơ đạo đức trong các hoạt động, điều chỉnh hành vi ứng xử và các mối quan hệ qua lại giữa các thành viên. Mỗi TTHS đều có cơ quan tự quản do tập thể bầu ra và được tập thể ủy nhiệm tổ chức, lãnh đạo đời sống, hoạt động của tập thể và công tác đối ngoại. Trong các cơ quan điều chỉnh, điều khiển của học sinh, Ban chấp hành Đoàn trường giữ vị trí quan trọng trong việc phối hợp và định hướng hoạt động của tập thể khác. Chính trong hoạt động tập thể đã làm tăng thêm nhu cầu giao lưu ở mỗi học sinh, ngoài những tập thể, những nhóm chính thức, những nhóm bạn, nhóm phi chính thức hình thành trên cơ sở những xúc cảm tâm lý (có cảm tình, ưa thích nhau, cùng chung sở thích, ở gần nhà nhau…). Vì là những nhóm không chính thức nên những nhóm này có tác động đa dạng, có thể tích cực, có thể tiêu cực đến hoạt động chung của tập thể; vì vậy nhiệm vụ của nhà giáo dục cũng như TTSP là phải lôi cuốn tất cả các nhóm đó tích cực hoạt động vì mục đích chung có ích cho tập thể. Những TTHS cũng cần được liên hệ chặt chẽ với các tập thể khác ngoài xã hội (các đoàn thể, tổ chức chính trị - xã hội, các cơ sở sản xuất…), mỗi học sinh cũng cần được hoạt động ở nhiều TTHS khác nhau, có như vậy mới thống nhất một mục đích có ý nghĩa xã hội, mỗi học sinh mới có điều kiện mở rộng tầm hiểu biết, hình thành kinh nghiệm sống và kinh nghiệm hoạt động xã hội. Nhà giáo dục cần tuyệt đối tránh để tình trạng có những học sinh hoặc không tham gia hoặc tham gia một cách hời hợt, vì như thế nhà giáo dục sẽ không làm tròn chức năng tập hợp, giáo dục, làm phát triển toàn diện nhân cách HS. Từ tập thể học sinh GVCN có thể xây dựng những mối quan hệ đúng đắn như sau : + Quan hệ phụ thuộc (liên đới) trách nhiệm: Quan hệ này còn gọi là quan hệ công việc, trong đó mọi người thực hiện trao đổi thông tin về công việc, phân công, phân nhiệm, đánh giá kết quả… để đạt mục đích tập thể đề ra. + Quan hệ đoàn kết, thân ái. Xây dựng quan hệ đoàn kết, thân ái là xây dựng bầu không khí chan hòa, đoàn kết, thân ái, quan tâm, chia sẻ vui buồn,…giữa các thành viên trong tập thể. Xây dựng quan hệ đoàn kết thân ái cũng chính là làm cho tập thể, mỗi thành viên quan tâm đến tập thể khác mà không có sự cạnh tranh, ghen tỵ, cục bộ. Quan hệ đoàn kết, thân ái được củng cố và phát triển sẽ ảnh hưởng to lớn về mặt đạo đức, tạo điều kiện nâng cao các quan hệ công việc và các quan hệ cá nhân lên một trình độ mới. + Quan hệ riêng tư (cá nhân). Do thường xuyên giao tiếp với nhau, đặc biệt là do có cảm tình với nhau nên một số học sinh trở nên thân thiết, gắn bó, gần gũi nhau, tạo nên những nhóm bạn, đôi bạn. GV một mặt cần phải tôn trọng quan hệ riêng tư, cá tính của mỗi học sinh, song mặt khác cũng tìm mọi cách tác động tế nhị để cho mối quan hệ riêng tư không chen lấn, ảnh hưởng xấu đến quan hệ chung của tập thể, làm cho mọi học sinh hòa hợp thật sự vào những cuộc sống, hoạt động chung của tập thể. Bên cạnh hoạt động học tập, cần phải lôi cuốn học sinh tham gia vào các hoạt động khác như công tác xã hội, lao động sản xuất, hoạt động văn hóa nghệ thuật, TDTT,… để tạo nên không khí sôi nổi gắn bó mọi người với tập thể, giúp học sinh mở rộng, củng cố tri thức, lĩnh hội kinh nghiệm và năng lực hoạt động xã hội, tiếp thu và thể nghiệm các chuẩn mực đạo đức trong các mối quan hệ phong phú, đa dạng trong và ngoài nhà trường. Niềm vui mà ngày mai sẽ có là kích thích to lớn đối với cuộc sống mỗi học sinh, là nhân tố làm cho các thành viên cùng tích cực hoạt động hướng vào mục đích chung. 18 Giáo viên: Nguyễn Thị Nhân _ Trường THPT Buôn Ma Thuột_ Email: [email protected] VAI TRÒ CỦA GIÁO VIÊN CHỦ NHIỆM TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN VÀ HOÀN THIỆN NHÂN CÁCH HỌC SINH Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG 2011-2012 Nhiệm vụ của nhà giáo dục là phải chuyển từ niềm vui đơn giản sang niềm vui có giá trị xã hội lớn hơn mới kích thích mạnh mẽ hoạt động tích cực của tập thể. Cần xây dựng ba loại viễn cảnh: viễn cảnh gần (đi chơi, xem kịch, dạ hội,..); viễn cảnh trung bình (đi trại hè, mọi người đều được lên lớp…) và viễn cảnh xa (cả lớp đều tốt nghiệp, đều được học ở cấp cao hơn, có việc làm phù hợp…). GV phải giúp HS và TTHS đề ra viễn cảnh phù hợp với từng hoàn cảnh, năng lực cụ thể. Tránh đề ra cho tập thể và mỗi cá nhân những mục tiêu không thể với tới được, vì như thế sẽ phá vỡ niềm tin của tập thể và mỗi cá nhân vào khả năng của mình. Phải liên tục xây dựng viễn cảnh mới nhưng đồng thời phải tổ chức hoạt động thiết thực để thực hiện viễn cảnh. - Xây dựng đội ngũ cốt cán của TTHS. Một tập thể học sinh muốn hoạt động tập thể có hiệu quả cần phải xây dựng một đội ngũ cốt cán có uy tín. Có như vậy mới đảm bảo được sự đồng lòng của tập thể. Trên đây là một số biện pháp cơ bản để xây dựng TTHS. Trong quá trình xây dựng TTHS ở nhà trường PT, giáo viên cần thấy được mối quan hệ thống nhất biện chứng giữa các biện pháp, từ đó tiến hành đồng bộ các biện pháp, đồng thời cải tiến, xây dựng các biện pháp mới phù hợp với đặc điểm của lớp, trường mình. * Phối hợp với các lực lượng xã hội Quan điểm tiếp cận tổng hợp đối với quá trình sư phạm đòi hỏi phải tổ chức đúng đắn và kết hợp chặt chẽ quá trình giáo dục nhà trường, quá trình giáo dục gia đình và quá trình giáo dục xã hội thành một quá trình thống nhất, liên tục, hướng vào việc phát triển nhân cách toàn diện cho người đọc. Nhưng muốn làm tốt công tác này người giáo viên không những phải có kiến thức về giáo dục nhà trường, mà cần phải có hiểu biết về giáo dục gia đình và giáo dục xã hội, tri thức và kỹ năng trong việc tổ chức phối hợp giáo dục của nhà trường, gia đình và xã hội. Ý nghĩa của việc phối hợp giữa nhà trường-gia đình-xã hội trong việc giáo dục HS . Trong chế độ chúng ta mục đích và nội dung giáo dục của nhà trường, gia đình và xã hội thống nhất với nhau; đều nhằm đào tạo và giáo dục thế hệ trẻ trở thành những người có tài, có đức, có năng lực thực hành, năng động và sáng tạo,…thành những người chủ tương lai của Đất nước, chính vì xuất phát từ tinh thần trách nhiệm đối với dân tộc, tình thương yêu đối với con em mình mà nhà trường-gia đình-xã hội phải phối hợp, liên kết chặt chẽ với nhau để chăm sóc, giáo dục HS thành những người có ích cho nước nhà. Mặt khác giáo dục nhân cách cho học sinh là một quá trình khó khăn, phức tạp, lâu dài và liên tục, bao gồm các ảnh hưởng khác nhau của gia đình,nhà trườngvà xã hội. Vì vậy, nếu kết hợp nhau lại sẽ tạo nên sức mạnh tổng hợp, tạo nên sự thống nhất và liên tục. Hơn nữa học sinh của chúng ta sinh sống và học tập không phải chỉ có ở trường mà còn sống ở gia đình và ngoài xã hội, cho nên phải phối hợp lại để tăng thêm và nâng cao tinh thần trách nhiệm của gia đình và xã hội, tạo điều kiện để các em được giáo dục ở mọi nơi, mọi chỗ , mọi lúc. Ngoài ra việc phối hợp giáo dục giữa nhà trường, gia đình và xã hội vừa làm cho quá trình giáo dục thống nhất, toàn vẹn, vừa làm cho giáo dục của nhà trường, gia đình và xã hội được tốt hơn. Thực tiễn đã chứng minh ở đâu có sự phối hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và xã hội thì ở đó kết quả giáo dục sẽ tốt hơn. Chính vì vậy, Bác Hồ kính yêu của chúng ta đã căn dặn: “giáo dục trong nhà trường chỉ là một phần, còn cần có sự giáo dục ngoài xã hội và trong gia đình để giúp cho việc giáo dục trong nhà trường được tốt hơn. Giáo dục trong nhà trường dù tốt đến mấy nhưng thiếu giáo dục trong gia đình và xã hội thì kết quả cũng không hoàn toàn”. + Phối hợp với gia đình học sinh. 19 Giáo viên: Nguyễn Thị Nhân _ Trường THPT Buôn Ma Thuột_ Email: [email protected] VAI TRÒ CỦA GIÁO VIÊN CHỦ NHIỆM TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN VÀ HOÀN THIỆN NHÂN CÁCH HỌC SINH Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG 2011-2012 Gia đình là tế bào của xã hội, nơi con người sinh sống, lớn lên và hình thành nhân cách của mình. Gia đình là cơ sở để duy trì nòi giống của con người và là cơ sở của việc giáo dục thế hệ trẻ đang lớn lên. Không có gia đình tái sản xuất bản thân con người để góp phần quan trọng vào việc đào tạo và bồi dưỡng con người có ích thì xã hội không thể tồn tại và phát triển. Gia đình phản ánh những thành tựu, những khó khăn và những mâu thuẫn của đời sống xã hội, đồng thời gia đình cũng ảnh hưởng đến đời sống xã hội. Giáo dục gia đình có ý nghĩa to lớn đối với việc đào tạo con người mới vì giáo dục gia đình trực tiếp tác động mạnh mẽ đến trẻ ngay trong thời kỳ thơ ấu, là thời kỳ đặt nền móng vững chắc cho tương lai của con em. Gia đình là cái nôi sinh thành con người và hình thành nhân cách cho các em. * Nhiệm vụ, nội dung của việc phối hợp giữa nhà trường với gia đình Bản chất của việc phối hợp này nhằm đạt được sự thống nhất về các yêu cầu giáo dục cũng như tác động giáo dục của người lớn, giúp cho nhân cách của HS được phát triển đúng đắn và đầy đủ. Nội dung cơ bản của việc kết hợp này là: + Nhà trường phải thể hiện được vai trò và tính chất của một đơn vị giáo dục, là lực lượng nòng cốt của sự nghiệp giáo dục. + Nhà trường phải công bố rõ nội dung, chương trình, kế hoạch giáo dục để gia đình được biết và thống nhất với gia đình về mục tiêu, phương pháp giáo dục để tránh hiện tượng “Trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”. + Thường xuyên theo dõi tiến trình kết hợp giáo dục và tổng kết, đánh giá, đề xuất kế hoạch phù hợp. + Tổ chức các hội nghị chuyên đề, báo cáo kinh nghiệm, CLB, hội thảo để phổ biến các tri thức về khoa học giáo dục, về giáo dục con em trong gia đình cho cha mẹ HS nghe. + Nhà trường phải tham mưu cho các cấp Đảng ủy, chính quyền nhằm đề ra được phương hướng và nội dung đúng đắn, thiết thực để có thể động viên, tạo điều kiện cho cha mẹ học sinh tham gia và quá trình giáo dục của nhà trường. + Các bậc cha mẹ học sinh phải có nhận thức đúng đắn về trách nhiệm phối hợp với nhà trường trong việc giáo dục con em, không bao che những thiếu sót của trẻ ở nhà. + Hàng ngày nên dành thời gian chăm sóc, giúp đỡ, kiểm tra con em về mọi mặt để kịp thời nắm bắt những biến đổi ở trẻ. + Tôn trọng và giữ lấy uy tín cho các thầy cô giáo, đặc biệt là các thầy cô giáo trẻ, chưa có nhiều kinh nghiệm. * Biện pháp phối hợp giáo dục của nhà trường với cha mẹ học sinh. Việc phối hợp với cha mẹ HS là nhiệm vụ chủ yếu của GVCN và giáo viên giảng dạy các môn học. Song muốn cho việc phối hợp với cha mẹ học sinh đem lại kết quả tốt thì nhà trường và GVCN cần phải làm cho cha mẹ học sinh hiểu rõ nội dung, yêu cầu, biện pháp giáo dục học sinh để gia đình biết cách phối hợp. Mặt khác nhà trường phải cung cấp hoặc giúp cha mẹ HS nắm được các tri thức và các kinh nghiệm giáo dục trong gia đình. Việc phối hợp với cha mẹ học sinh có thể được tiến hành bằng các biên pháp sau: * Tổ chức họp cha mẹ học sinh theo định kỳ: có thể tổ chức họp theo từng tháng, hai tháng một lần hoặc là tổ chức họp vào đầu và cuối học kỳ. + Trong các buổi họp cha mẹ học sinh, nhà trường cần phải thông báo cho cha mẹ học sinh hiểu rõ được các yêu cầu, mục tiêu, kế hoạch của nhà trường, nêu lên vai trò, vị trí, chức năng của gia đình trong việc phối hợp với nhà trường để giáo dục học sinh. + Thông báo kết quả học tập rèn luyện, tu dưỡng của học sinh trong lớp nói chung, và từng học sinh nói riêng. Đánh giá sự tiến bộ hoặc khó khăn của từng học sinh cụ thể. 20 Giáo viên: Nguyễn Thị Nhân _ Trường THPT Buôn Ma Thuột_ Email: [email protected]
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất