Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Trung học cơ sở Vài kinh nghiệm đọc – hiểu một số tác phẩm thơ chữ hán của văn học trung đại việ...

Tài liệu Vài kinh nghiệm đọc – hiểu một số tác phẩm thơ chữ hán của văn học trung đại việt nam trong chương trình lớp 10 trung học phổ thông

.PDF
7
565
125

Mô tả:

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM VÀI KINH NGHIỆM ĐỌC – HIỂU MỘT SỐ TÁC PHẨM THƠ CHỮ HÁN CỦA VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM TRONG CHƯƠNG TRÌNH LỚP 10 TRUNG HỌC PHỔ THÔNG I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI: Văn học viết Việt Nam từ thế kỷ X đến thế kỷ XIX còn gọi là văn học trung đại - tồn tại và phát triển trong xã hội phong kiến. Hai thành phần chủ yếu của văn học trung đại là văn học chữ Hán và văn học chữ Nôm. Trong văn học chữ Hán, dù là thơ hay văn xuôi, trữ tình hay tự sự, chính luận ,ở loại hình nào cũng có những thành tựu nghệ thuật to lớn. Một trong những thành tựu nghệ thuật đặc sắc là thơ chữ Hán. Trong trường phổ thông, thơ chữ Hán của văn học trung đại Việt Nam được giảng dạy từ bậc trung học cơ sở (THCS) đến trung học phổ thông (THPT). Nó đã góp phần hình thành những phẩm chất tốt đẹp cho thế hệ trẻ, giáo dục cho học sinh lòng yêu nước, yêu quê hương thiết tha, lòng nhân ái, nhạy cảm trước cái đẹp, biết vượt qua khó khăn, thử thách để vươn tới lý tưởng cao đẹp. Thơ chữ Hán là một trong những thành tựu rực rỡ của văn học trung đại Việt Nam. Thơ chữ Hán không chỉ đa dạng về đề tài, phong phú về số lượng tác phẩm, mà còn đạt đến trình độ nghệ thuật điêu luyện, hình tượng thơ hàm súc, ngôn ngữ thơ tinh tế, sáng tạo. Thơ chữ Hán của văn học trung đại Việt Nam thể hiện hai nội dung lớn là yêu nước và nhân đạo, phát triển theo quy luật vừa tiếp thu và dân tộc hóa tinh hoa văn học nước ngoài, chủ yếu là văn học Trung Quốc. Thành tựu của thơ chữ Hán có sự đóng góp của những tài năng lớn như: Phạm Ngũ Lão, Pháp Thuận, Nguyễn Trung Ngạn, thiền Sư Mãn Giác, Nguyễn Du….Thơ chữ Hán có một giá trị nhân bản rất cao, chứa đựng những nỗi niềm mà các nhà thơ gửi gắm. Đó là những tiếng lòng của các nhà thơ nên có sức truyền cảm mạnh mẽ, lắng sâu trong lòng người, tồn tại mãi với thời gian, còn tỏa sáng đến muôn đời sau. Trong trường phổ thông, các tác phẩm thơ chữ Hán giúp cho học sinh hiểu biết thêm về lịch sử – xã hội Việt Nam thời kỳ trung đại, tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, lòng yêu thương con người bao la, những triết lý nhân sinh sâu sắc…Học sinh còn được cung cấp thêm những hiểu biết về cái hay, cái đẹp của ngôn từ, hình tượng nghệ thuật, độ súc tích theo hướng “ quý hồ tinh bất quý hồ đa” trong nghệ thuật của văn học trung đại. Một bài thơ chữ Hán hay gợi mở cho học sinh những tư duy bay bổng, những tình cảm lắng đọng, những rung động thấm đẫm tình người, cái đẹp hài hòa về nội dung về hình thức của thơ chữ Hán cuốn hút, hấp dẫn học sinh. Nó bồi dưỡng cho học sinh năng lực thẩm mỹ, nhạy cảm với cái đẹp, hướng các em tới những điều đẹp đẽ tốt lành. Như vậy, người giáo viên ở trường THPT cần rèn luyện cho học sinh kỹ năng đọc-hiểu tác phẩm thơ chữ Hán thời kỳ văn học trung đại. Hoạt động dạy và học thơ chữ Hán đạt hiệu quả sẽ góp phần nâng cao chất lượng môn Ngữ văn ở trường THPT. Thông qua hoạt động giảng dạy, kiểm tra, đánh giá, người giáo viên cần trang bị cho học sinh một số kỹ năng cần thiết để học sinh cảm thụ tốt một bài thơ chữ Hán của văn học trung đại Việt Nam. Từ yêu cầu đổi mới phương pháp, dạy học, phát huy năng lực tư duy sáng tạo của học sinh, tôi biên soạn đề tài “Vài kinh nghiệm đọc – hiểu một số tác phẩm thơ chữ Hán của văn học trung đại Việt Nam trong chương trình lớp 10 trung học phổ thông”, góp một ý kiến nhằm nâng cao năng lực đọc – hiểu thơ chữ Hán cho học sinh. Tôi rất mong nhận được sự đóng góp, xây dựng của các đồng nghiệp. II. THỰC TRẠNG TRƯỚC KHI THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP CỦA ĐỀ TÀI: 1. Thuận lợi: - Vấn đề nâng cao chất lượng dạy và học môn Ngữ văn luôn được sự quan tâm rộng rãi của các ban ngành, nhà trường, giáo viên và cha mẹ học sinh. Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Đồng Nai đã tổ chức các hội nghị chuyên đề nhằm nâng cao chất lượng dạy và học môn Ngữ văn ở trường trung học phổ thông, tổ chức hội giảng cấp tỉnh trong nhiều năm, tuyên dương những giáo viên đạt danh hiệu giáo viên giỏi cấp tỉnh. Ban Giám hiệu nhà trường, tổ chuyên môn có nhiều đổi mới trong tổ chức các buổi họp tổ chuyên môn, không nặng về thủ tục hành chính. - Đội ngũ giáo viên trong tổ chuyên môn nhiệt tình, có nhiều kinh nghiệm trong giảng dạy, tâm huyết với nghề, luôn đổi mới trong phương pháp dạy và học nhằm nâng cao chất lượng dạy và học môn Ngữ văn. Giáo viên trong tổ nhiệt tình tham gia các đợt thao giảng dự giờ, học hỏi kinh nghiệm giảng dạy. Nhiều học sinh đạt giải cao trong các kỳ thi học sinh giỏi cấp tỉnh. - Nhà trường được cung cấp nhiều trang thiết bị: máy chiếu, tranh ảnh, đồ dùng dạy học….tạo hứng thú cho học sinh học tập môn Ngữ văn. Nhiều giáo viên trong tổ chuyên môn tự làm đồ dùng dạy học, tìm tòi tư liệu phục vụ cho việc giảng dạy môn Ngữ văn. - Chương trình phân ban đòi hỏi thầy và trò phải sáng tạo trong giảng dạy và học tập, phải phát huy tính chủ động, tích cực của học sinh. Giáo viên phải đổi mới cách soạn giáo án, thiết kế bài dạy, tổ chức các khâu lên lớp và chuẩn bị ở nhà. Nhờ vậy, chất lượng giảng dạy các bộ môn, trong đó có môn Ngữ văn ngày càng cao. Tỉ lệ học sinh khá giỏi ngày càng tăng so với năm học trước. - Học sinh học chương trình phân ban muốn đạt danh hiệu học sinh tiên tiến, học sinh giỏi phải cố gắng học tập môn Ngữ văn. 2. Khó khăn: - Trình độ học sinh trong nhà trường nhìn chung tương đối đồng đều. Học sinh được tuyển vào lớp 10 trong các năm học đều là các học sinh có học lực khá, giỏi. Học sinh có tinh thần ham học hỏi, thông minh, sáng tạo. Nhưng trong mỗi lớp học, học lực của học sinh chưa đồng đều. Nhiều học sinh ý thức phấn đấu chưa cao, bằng lòng với học lực trung bình. Một số học sinh học tập còn lơ là, ham chơi, chưa tập trung nghe giảng, thụ động. Nhiều học sinh dành thời gian cho các môn học khoa học tự nhiên, ôn thi vào đại học, môn Ngữ văn chỉ mong đạt điểm trung bình. - Chương trình học của học sinh THPT hiện còn nặng nề, kiến thức nhiều, quỹ thời gian hạn chế. Giáo viên chưa có điều kiện đào sâu, nâng cao kiến thức cho học sinh. - Một số giáo viên chưa dành nhiều thời gian và công sức cho việc soạn giảng về thơ chữ Hán. Giáo án đánh máy còn có hiện tượng sao chép của nhau hoặc lấy nguyên từ trên mạng, ít chỉnh sửa cho phù hợp với tình hình học tập của từng trường, với trình độ học sinh của từng lớp. - Nhiều học sinh khi soạn bài ở nhà còn chép lại nguyên văn trong sách tham khảo, lười suy nghĩ, thiếu sáng tạo, trả lời các câu hỏi theo khuôn mẫu có sẵn. Nhiều giáo viên chưa chú ý đến việc ra đề, chưa phân loại chính xác học sinh khá, giỏi và trung bình. - Một số học sinh còn “học tủ”, “học vẹt”, môn Ngữ văn ở lớp chỉ đạt điểm trung bình, nhưng thi học kỳ lại đạt điểm cao do “học tủ” trúng đề. - Một số học sinh chưa có hứng thú học thơ chữ Hán do thơ chữ Hán không dễ hiểu, học sinh ngại học thuộc lòng bản phiên âm và bản dịch thơ. 3. Số liệu thống kê: Khi thực hiện phương pháp mới trong việc đọc-hiểu tác phẩm thơ chữ Hán, chất lượng của học sinh được nâng cao. Nhiều học sinh đạt điểm khá, giỏi. Kết quả khảo sát trong 3 năm học gần đây (Chấm điểm bài tự luận về thơ chữ Hán): Số học sinh được khảo sát Điểm dưới 5- Tỉ lệ Điểm trung bình- Tỉ lệ Điểm khá, giỏi- Tỉ lệ 2009- 2010 42 4- 9,5% 6- 14,3% 32- 76,2% 2010- 2011 38 1- 2,6% 7- 18,4% 30-79% 2011- 2012 37 0- 0% 5- 13,5% 32-86,5% Năm học III. NỘI DUNG ĐỀ TÀI: A. Cơ sở lý luận: Do quan hệ đặc biệt giữa Việt Nam và Trung Quốc, văn học viết nước ta ngay từ buổi đầu ra đời đã chịu ảnh hưởng sâu sắc nhiều yếu tố văn học Hán, văn hóa Hán. Từ chữ viết là chữ Hán đến các thế tài sáng tác như thơ luật Đường (gồm thất ngôn bát cú, thất ngôn tứ tuyệt) thơ cổ phung, phú, truyện, bi, ký… Thơ chữ Hán là một thành tựu xuất sắc của văn học trung đại Việt Nam. Con đường tiến lên của văn học trung đại là vừa phải tiếp thu, vừa phải Việt hóa, nhằm làm cho văn học trung đại đậm đà tính dân tộc, không chỉ trong nội dung mà còn trong cả hình thức. Thơ chữ Hán là thành tích quý báu của cha ông ta, được đưa vào giảng dạy ở nhiều cấp học. Vì vậy, giúp học sinh có hứng thú học thơ chữ Hán, nâng cao chất lượng đọc – hiểu tác phẩm thơ chữ Hán của văn học Việt Nam thời kỳ trung đại là một việc rất cần thiết của người giáo viên giảng dạy bộ môn Ngữ văn ở trường trung học phổ thông. B. Nội dung, biện pháp thực hiện các giải pháp của đề tài : 1. Công việc chuẩn bị cho tiết đọc – hiểu tác phẩm thơ chư Hán: 1.1. Công việc của người giáo viên : - Để nâng cao chất lượng dạy và học thơ chữ Hán, người giáo viên phải đầu tư nhiều thời gian và công sức. Người giáo viên phải đọc kỹ phần Tiểu dẫn và phần Văn bản. Những kiến thức được truyền đạt cho học sinh phải thật chính xác, khoa học từ những nét chính về cuộc đời tác giả, những tác phẩm tiêu biểu, hoàn cảnh sáng tác, nội dung và nghệ thuật của văn bản … Đặc biệt là phải tìm hiểu ý nghĩa của từ, các điển cố, điển tích. - Thiết kế bài học một cách khoa học, phù hợp với thực tiễn giảng dạy trong nhà trường, phù hợp với đối tương học sinh. Chuẩn bị hệ thống câu hỏi chuẩn bị bài, câu hỏi rèn luyện kỹ năng đọc - hiểu văn bản chữ Hán, câu hỏi và bài tập hướng dẫn học sinh tự học ở nhà. Phát hiện, bồi dưỡng học sinh khá, giỏi, phát huy năng lực đọc – hiểu văn bản thơ chữ Hán. Chuẩn bị hoạt động thảo luận theo tổ nhóm của học sinh. Hệ thống câu hỏi đặt ra để học sinh thảo luận phải hướng vào trọng tâm bài học, vào mục tiêu bài học đặt ra. Bài học phải đảm bảo chuẩn kiến thức, kỹ năng, không lan man, dàn trải. - Người giáo viên nắm vững trọng tâm kiến thức, kỹ năng của bài học, chuẩn bị nhuần nhuyễn các khâu lên lớp, sẽ làm chủ được kiến thức, chủ động về thời gian, không lúng túng khi gặp tình huống học sinh đặt ra câu hỏi đề nghị giáo viên lý giải hoặc nâng cao vấn đề. - Người giáo viên có thể tự làm đồ dùng dạy học, tìm thêm tư liệu nhằm nâng cao hiệu quả giờ dạy, hoặc phân công học sinh chuẩn bị sơ đồ, mô hình, dụng cụ học tập. Chẳng hạn : bức tranh đồng quê Việt Nam, bức tranh chiến đấu chống quân Nguyên – Mông, truyện về nàng Tiểu Thanh … - Hướng dẫn học sinh sử dụng sách giáo khoa, soạn bài mới, hướng dẫn học sinh đọc – hiểu tác phẩm thơ chữ Hán ở nhà. 1.2. Công việc của học sinh: - Học sinh phải phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của mình, không lơ là, thụ động. Học sinh phải soạn bài ở nhà, đọc kỹ văn bản, nắm được những nét chính về cuộc đời, sự nghiệp văn học, hoàn cảnh ra đời của tác phẩm … - Học sinh chuẩn bị đồ dùng học tập theo hướng dẫn của giáo viên: bảng phụ, tranh ảnh, hình vẽ … Chuẩn bị việc thảo luận theo tổ nhóm, tranh luận … theo yêu cầu của từng bài học và định hướng của người thầy. - Học sinh chuẩn bị bài học bám sát sách giáo khoa, bám sát chuẩn kiến thức, kỹ năng qua câu hỏi hướng dẫn chuẩn bị bài của giáo viên. - Những chỗ chưa hiểu sâu, học sinh có thể chuẩn bị câu hỏi, nhờ thầy cô giáo giải đáp trên lớp. - Học sinh chuẩn bị tâm thế học tập hào hứng, phấn khởi, tránh bị dồn ép căn thẳng, mệt mỏi dẫn đến không đạt hiệu quả trong học tập. - Học sinh có thể đọc thêm một số bài thơ chữ Hán không có trong chương trình lớp 10 nhằm mở rộng, nâng cao tri thức. Chẳng hạn các bài thơ Tỏ lòng của Không Lộ thiền sư, Phò giá về kinh của Trần Quang Khải… - Liên hệ với các bài thơ chữ Hán đã học để tích hợp kiến thức về thể loại, chẳng hạn : Cửa biển Bạch Đằng của Nguyễn Trãi, Sông núi nước Nam … - Ghi chép những ý kiến nhận định, đánh giá hay về tác giả, tác phẩm để làm tư liệu học tập. 2. Hướng dẫn học sinh đọc – hiểu phần Tiểu dẫn, nắm vững những kiến thức về tác giả, tác phẩm: Giáo viên hướng dẫn học sinh đọc – hiểu phần Tiểu dẫn. Học sinh đọc phải rõ ràng, chính xác những thông tin về cuộc đời nhà thơ, những tác phẩm tiêu biểu, hoàn cảnh sáng tác bài thơ. Giáo viên và những học sinh khác chú ý lắng nghe, đối chiếu với sách giáo khoa. Nhận xét cách đọc, phát hiện, sửa chữa những chỗ đọc sai dẫn đến những thông tin thiếu chính xác. Sau đó, giáo viên yêu cầu học sinh tóm tắt những nội dung chính của phần Tiểu dẫn về tác giả, tác phẩm. Giáo viên có thể cung cấp cho học sinh những tư liệu về tác giả, tác phẩm: tranh chân dung, tranh phong cảnh, những lời nhận định về tác giả, lời bình hay về tác phẩm … Mục đích giúp học sinh hiểu sâu sắc hơn về các tác giả, những đóng góp về nội dung, nghệ thuật, hoàn cảnh ra đời của bài thơ. Ví dụ: sách Đại Việt sử ký toàn thư viết về Phạm Ngũ Lão: “Ngũ Lão thích đọc sách, người phóng khoáng, có chí làm việc lớn, thích ngâm thơ, về việc võ hình như ít bận tâm. Nhưng đội quân của ông đều một lòng thân yêu như cha với con, đánh đâu được đấy”. Về hoàn cảnh ra đời của bài thơ Cáo bệnh, bảo mọi người (Cáo tật thị chúng) của thiền sư Mãn Giác, sách Thiền uyển tập anh chép : “Ngày 30 tháng 11, thiền sư Mãn Giác cáo bệnh, có kệ dạy rằng : Xuân qua, trăm hoa rụng … Từ đó sư ngồi kiết già mà mất, thọ bốn mươi lăm tuổi”. Nắm vững những tri thức trong phần Tiểu dẫn giúp cho học sinh có cơ sở hiểu sâu sắc hơn nội dung bài thơ chữ Hán. 3. Đọc – hiểu bài thơ chữ Hán phải đối chiếu phần phiên âm với bản dịch nghĩa và bản dịch thơ, bám sát kết cấu và cảm xúc chủ đạo của bài thơ, nắm vững phần chú thích, hiểu được nghĩa của từ, điển cố, điển tích. Các bài thơ chữ Hán của văn học trung đại Việt Nam được dạy và học trong trường phổ thông đều được phiên âm theo cách đọc Hán Việt, tiếp theo là bản dịch nghĩa và bản dịch thơ. Trong quá trình đọc – hiểu bài thơ, phải bám sát bản phiên âm và bản dịch nghĩa, bản dịch thơ, phát hiện những chỗ bản dịch thơ chưa sát với nội dung trong phần phiên âm hoặc bỏ sót từ trong phần phiên âm. Phải bám sát kết cấu và cảm xúc chủ đạo của bài thơ để có cách đọc cho phù hợp, đạt hiệu quả. Ví dụ : bài thơ Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão, câu thơ thứ nhất trong nguyên tác “Hoành sóc giang sơn kháp kỷ thu” (Cầm ngang ngọn giáo giữ gìn non sông đã mấy thu), bản dịch thơ của Bùi Văn Nguyên là “Múa giáo non sông trải mấy thu” làm mất đi vẻ đẹp hiên ngang, vững chãi, lẫm liệt của con người mang hào khí Đông A. Trong câu thơ thứ hai “Tam quân tì hổ khí thôn ngưu” (Ba quân như hổ báo, khí thế hùng dũng nuốt trôi trâu”, bản dịch thơ là “Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu), bản dịch thơ đã bỏ mất từ tì hổ (hổ báo). Nhiều học sinh có ý thức học tập tốt, tham khảo thêm nhiều tư liệu, đã đặt câu hỏi cho giáo viên : Tại sao khí thôn ngưu bản dịch trong sách giáo khoa là “khí mạnh nuốt trôi trâu” mà không phải là “khí thế át sao Ngưu”? Chúng ta cần phải giải thích cho học sinh khí thôn ngưu có hai cách dịch : khí thế nuốt trâu và khí thế át sao Ngưu. Theo các nhà nghiên cứu, ở đây nên hiểu khí thôn ngưu là khí thế nuốt trôi trâu. Đỗ Phủ có câu thơ : “Tiểu nhi ngũ tuế, khí thôn ngưu” (Đứa trẻ năm tuổi đã có khí thế mạnh mẽ có thể nuốt trôi trâu). Nhà thơ Việt Nam Nguyễn Trung Ngạn cũng có câu thơ : “Mậu linh dĩ hữu thôn ngưu chí” (Thuở thiếu niên đã có chí nuốt trôi trâu). Người giáo viên còn phải hướng dẫn học sinh sử dụng sách giáo khoa, tìm hiểu nghĩa của từ Hán Việt trong bản dịch thơ, liên hệ với thực tiễn lịch sử. Giáo viên đặt câu hỏi cho học sinh tìm hiểu ý nghĩa của từ Hán Việt, điển tích. Ví dụ : “Ý nghĩa của “nợ công danh” là gì? Vũ Hầu “là nhân vật nào? Tại sao tác giả lại nói đến nhân vật này?” Giáo viên có thể giải thích một số khái niệm như : giang sơn, khí, nam nhi …thường xuất hiện trong thơ trung đại. Trong quá trình đọc – hiểu một bài thơ chữ Hán của văn học trung đại Việt Nam, cần đối chiếu nguyên tác với bản dịch thơ. Nguyên tác bài thơ biểu hiện những tâm tư, tình cảm ý chí, tài năng nghệ thuật của bài thơ. Đọc – hiểu một bài thơ chữ Hán, giáo viên và học sinh phải xuất phát từ nguyên tác. Có nhiều bản dịch thơ dùng từ hay, hình ảnh đẹp, nhịp điệu uyển chuyển, nhưng chưa thể hiện đầy đủ tư tưởng, tình cảm, nghệ thuật điêu luyện của tác giả. Khi bám sát nguyên tác, chúng ta sẽ tránh được sự suy diễn tùy tiện, thiếu căn cứ. So sánh, đối chiếu nguyên tác với bản dịch thơ giúp chúng ta hiểu sâu sắc giá trị tư tưởng, giá trị nghệ thuật của tác phẩm, giúp cho học sinh phát triển khả năng tư duy độc lập và sáng tạo. Ví dụ: trong bài thơ Đọc Tiểu Thanh ký của Nguyễn Du, hai câu thơ đầu gợi lên sự “biến thiên dâu bể” của cuộc đời và nỗi ngậm ngùi, luyến tiếc trước cái đẹp bị tiêu tan nghiệt ngã:
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan