Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tư tưởng triết học của phật giáo và sự ảnh hưởng của nó đến đời sống văn hóa tin...

Tài liệu Tư tưởng triết học của phật giáo và sự ảnh hưởng của nó đến đời sống văn hóa tinh thần của người việt

.DOCX
48
1
76

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH MÔN HỌC: TRIẾT HỌC BÀI TẬP TIỂU LUẬN Đề tài: TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA PHẬT GIÁO VÀ SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN CỦA NGƯỜI VIỆT Giáo viên: PGS.TS. Hà Trọng Thà Học viên: Môn học: Triết học TP. HỒ CHÍ MINH, tháng 10 năm 2021 Giảng viên bộ môn: PGS.TS Hà Trọng Thà Đề tài: Tư tưởng triết học của phật giáo và sự ảnh hưởng của nó đến đời sống văn hóa tinh thần của người Việt. LỜI MỞ ĐẦU  Tính cấp thiết của đề tài Đạo Phật là một trong những học thuyết Triết học - tôn giáo lớn nhất trên thế giới, tồn tại rất lâu đời. Hệ thống giáo lý của nó rất đồ sộ và số lượng phật tử đông đảo được phân bố rộng khắp. Đạo phật được truyền bá vào nước ta khoảng thế kỷ II sau Công nguyên và đã nhanh chóng trở thành một tôn giáo có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống tinh thần của con người Việt Nam, bên cạnh đó đạo Nho, đạo Lão, đạo Thiên chúa. Tùy từng giai đoạn lịch sử dân tộc ta đều có một học thuyết tư tưởng hoặc một tôn giáo nắm vai trò chủ đạo, có tác động mạnh nhất đến nếp sống, thói quen, suy nghĩ của con người, như Phật giáo ở thế kỷ thứ X - XIV, Nho giáo thế kỷ thứ XV - XIX, học thuyết Mác - Lênin từ giữa thập kỷ 40 của thế kỷ XX cho đến nay. Ngay từ khi được truyền vào, Đạo Phật đã nhanh chóng thích nghi với lối sống của người dân Việt và trong quá trình hình thành và phát tri ển trên đất nước này, Đạo Phật đã không gặp một trở ngại nào trong việc hòa nhập vào mọi giai tầng của xã hội. Tư tưởng, đạo lý của Phật giáo cũng đã ăn sâu vào nếp sống, nếp nghĩ của người dân Việt và trở thành những giá trị tinh thần vô giá cho người dân. Trong công cuộc xây dựng đất nước quá độ lên Chủ Nghĩa Xã Hội (CNXH), chủ nghĩa Mác - Lênin là tư tưởng chủ đạo, là vũ khí lý luận của chúng ta nhưng bên cạnh đó, bộ phận kiến trúc thượng tầng của xã hội cũ vẫn có sức sống dai dẳng, trong đó giáo lý nhà Phật đã ít nhiều in sâu vào tư tưởng tình cảm của một số bộ phận lớn dân cư Việt Nam. Việc xóa bỏ hoàn toàn ảnh hưởng của nó là không thể thực hiện được nên chúng ta cần vận dụng nó một cách hợp lý để góp phần đạt được mục đích của thời kỳ quá độ cũng như sau này. Vi vậy, việc nghiên cứu lịch sử, giáo lý, và sự tác động của đạo Phật nói chung và tư tưởng triết học của Phật giáo nói riêng đối với thế giới quan, nhân sinh quan của con người là hết sức cần thiết. Theo đạo để làm điều thiện, tránh cái ác, hình thành nhân cách con người tốt hơn chứ không trở nên mê tín dị đoan, cúng bái, lên đồng, gây ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ, niềm tin của quần chúng nhân dân. Chính vì vậy, chúng ta cùng tìm hiểu Tư tưởng triết học của Phật giáo và sự ảnh hưởng của nó đến đời sống văn hóa tinh thần của người Việt. i  Tình hình nghiên cứu của đề tài Phật giáo là một trường phái triết học - tôn giáo điển hình của nền tư tưởng Ấn Độ cổ đại có ảnh hưởng rộng rãi, lâu dài trên phạm vi thế giới. Hệ thống giáo lý của nó rất đồ sộ và có số lượng phật tử đông đảo phân bố rộng khắp. Cùng với quá trình lịch sử, Phật giáo đã có những đóng góp đáng kể cho nền văn hoá của nhân loại. Chính vì vậy, Phật giáo và vai trò của nó trong đời sống xã hội nói chung từ lâu đã thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà khoa học không chỉ ở phương Đông mà cả phương Tây. Nhìn chung, các nhà khoa học khi nghiên cứu về Phật giáo đều đánh giá cao những giá trị văn hoá của nó. A. Einstein, nhà toán học vĩ đại của nhân loại, khi nghiên cứu về Phật giáo ông cho rằng: "Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo toàn cầu, vượt lên trên mọi thần linh, giáo điều và thần học. Tôn giáo ấy phải bao quát cả phương diện tự nhiên lẫn siêu nhiên, đặt trên căn bản của ý thức đạo lý, xuất phát từ kinh nghiệm tổng thể gồm mọi lĩnh vực. Phật giáo sẽ đáp ứng được các điều kiện đó". Đồng thời, một lần khác ông cũng khẳng định rằng: "Nếu có một tôn giáo nào đương đầu với các nhu cầu của khoa học hiện đại thì đó là Phật giáo,...” Bertrand Russell, nhà Triết học và toán học nổi tiếng toàn cầu, trong cuốn Lịch sử Triết học Tây phương (History of Western Philosophy) đã viết:"...Phật giáo là một tổ hợp của triết lý suy cứu và triết lý Khoa học. Phật giáo ủng hộ phương pháp Khoa học và theo phương pháp này để tới một cứu cánh có thể gọi là thuần lý. Phật giáo còn tiếp tục tiến xa hơn Khoa học nơi Khoa học không thể tiến thêm vì Khoa học bị giới hạn bởi những dụng cụ Vật lý." Tiến sĩ Graham Howe, nhà Phân tâm học nổi tiếng của Anh Quốc khi nghiên cứu về Phật giáo, đã nói như sau: "Đọc một chút về Phật giáo ta cũng có thể nhận thức được rằng, từ 2500 năm trước, Phật giáo đã biết về những vấn đề mới về tâm lý nhiều hơn là chúng ta thường biết tới. Họ nghiên cứu những vấn đề này từ lâu và cũng đã tìm ra phương thức giải quyết chúng. Ngày nay chúng ta chỉ khám phá lại trí tuệ thông thái cổ xưa của Đông phương." Ở Phương Đông, Phật giáo cũng thu hút được rất nhiều sự quan tâm của các nhà khoa học. J.Nerhu trong “Phát hiện Ấn Độ” đã chỉ ra những giá trị nhân đạo, nhân bản trong Phật giáo, chỉ ra những giá trị mà Phật giáo đã đóng góp cho dân tộc Ấn Độ. Ở Trung Quốc, ngay từ cuối triều đại nhà Thanh, việc nghiên cứu Phật giáo đã rất thịnh hành trong giới trí thức Trung Quốc. Các nhà nghiên cứu như Đàm Tự Đồng, Lương Khải Siêu và Chương Thái Niêm đã sử dụng học thuyết Phật giáo như một vũ khí tư tưởng chống lại các trào lưu tư tưởng sùng bái phương Tây. Chẳng hạn, Đàm Tự Đồng trong cuốn “Về lòng từ bi” đã cho rằng lòng từ bi của là nguồn gốc của vũ trụ. Ông đã sử dụng tư tưởng của Thiền tông như một trong các nguồn tư liệu để chứng minh cho luận điểm nói trên. Theo ông, ý tưởng về lòng từ bi, bình đẳng và vô ngã trong Phật giáo còn là nguồn giác ngộ và khích lệ đối với tầng lớp trí thức Trung Quốc đương thời. Ở Việt Nam việc nghiên cứu Phật giáo và vai trò của nó trong đời sống xã hội Việt Nam được tiến hành trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc kể cả giai đoạn phật giáo suy vi (từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII). Đặc biệt từ những năm cuối của thế kỷ XX đã xuất hiện rất nhiều công trình khoa học nghiên cứu về Phật giáo, về vai trò của phật giáo trong đời sống xã hội nói chung và trong đời sống của người Việt Nam nói riêng. Trần Văn Giàu với một loạt công trình như: “Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam” (Nxb KHXH, Hà Nội, 1975), “Đạo đức Phật giáo trong thời hiện đại” (Nxb Tp Hồ Chí Minh 1993), và “Sự phát triển của tư tưởng Việt Nam từ giữa thế kỷ XIX đến Cách mạng tháng Tám” (3 tập – Nxb CTQG, Hà Nội 1997,1998) đã đề cập đến những giá trị đạo đức Phật giáo, đề cập đến những đóng góp của Phật giáo trong lịch sử tư tưởng Việt Nam. Học viện Phật giáo Việt Nam tại Thành phố Hồ Chí Minh với “Phật giáo nhập th61 và phát triển” (Nxb Tôn giáo, 2008) đã tập hợp bài viết của các nhà khoa học, các nhà trí thức Phật giáo viết về vai trò của Phật giáo trong các lĩnh vực và đời sống xã hội Việt Nma hiện nay như: Phật giáo trong thời kỳ hội nhập và phát triển, Phật giáo với chính trị xã hội, Phật giáo với sự phát triển bền vững của đất nước, Phật giáo với xã hội dân sự, Phật giáo với sự nghiệp độc lập, Phật giáo với các vấn nạn giao thông, Phật giáo với đời sống tâm linh, Phật giáo với việc xây dựng nền kinh tế nhân bản, Phật giáo với hoạt động từ thiện nhân đạo… Nhìn chung, Phật giáo và vai trò của Phật giáo trong đời sống xã hội thu hút nhiều nhà khoa học nghiên cứu với nhiều khía cạnh khác nhau. Đa số các nghiên cứu này đủ nhấn mạnh những giá trị của Phật giáo về giá trị đạo đức, giá trị tinh thần, thẩm mỹ… Tuy nhiên, theo tôi thì chưa thấy có công trình nào bàn về những hạn chế của Phật giáo đối với đời sống của người Việt Nam một cách có hệ thống. Chính vì vậy, trên cơ sở kế thừa thành quả nghiên cứu của các nhà khoa học đi trước, đề tài tập trung vào việc hệ thống hoá những giá trị cũng như hạn chế của Phật giáo đối với đời sống của người Việt Nam hiện nay và đưa ra một số giải pháp cơ bản để giải quyết.  Mục đích và nhiệm vụ đề tài Mục đích: đề tải đi sâu vào phân tích những thành tựu, giá trị và hạn chế của Phật giáo đối với đời sống của người Việt Nam trong các mặt của đời sống xã hội nhất là giai đoạn hiện nay. Đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy những thành quả tích cực và hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của Phật giáo trong quá trình xây dựng đời sống mới. Nhiệm vụ: Để thực hiện mục đích nghiên cứu trên đề tài có nhiệm vụ: - Khái quát về Phật giáo, những nội dung cơ bản trong giáo lý, giáo luật của Phật giáo, chỉ ra đặc điểm và thực trạng Phật giáo Việt Nam hiện nay thông qua quá trình hình thành du nhập và phát triển tại Việt Nam. - Phân tích những ảnh hưởng tích cực và hạn chế của Phật giáo trên một số phương diện cơ bản trong đời sống của người Việt Nam nhất là trong giai đoạn hiện nay. - Đề xuất quan điểm và một số giải pháp nhằm phát huy những kết quả tích cực đã đạt được, hạn chế những vấn đề còn mang tính hạn chế, tác động tiêu cực trong quá trình xây dựng đời sống mới xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay. Trong bài viết này, người viết không nhằm mục đích trình bày toàn bộ hệ thống tư tưởng của Phật giáo một cách chi tiết toàn mỹ, mà chỉ đưa ra những khái quát chung về những khía cạnh căn bản. Qua đó muốn cho người đọc thấy được những ảnh hưởng sâu sắc nhất của tư tưởng Phật giáo đối với đời sống văn hóa tinh thần người Việt.  Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề tôn giáo. Đề tài dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quán triệt đường lối đổi mới của Đảng, Nhà nước, đồng thời vận dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu như, logic và lịch sử, phân tích tổng hợp.  Đóng góp mới của đề tài Trong quá trình nghiên cứu về Phật giáo của các nhà khoa học trước đây cũng như hiện nay, đa số đều nhìn nhận những giá trị tốt đẹp của Phật giáo trong đời sống xã hội Việt Nam. Đóng góp mới của đề tài là nhìn nhận và tập trung phân tích những mặt hạn chế của Phật giáo nói chung và ở Việt Nam nói riêng đến đời sống của con người và xã hội Việt Nam hiện nay, giai đoạn đổi mới đất nước theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Và quan trọng hơn là qua việc nghiên cứu, dựa trên những kết quả đánh giá, đề tài sẽ khái quát được những giải pháp cơ bản để góp phần giảm thiểu các tác động không mong muốn của Phật giáo.  Ý nghĩa lý luận và thực tiễn Đề tài mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn sau đây: Thứ nhất, đề tài góp phần đưa ra những màu sắc mới trong việc nhìn nhận và nghiên cứu về tôn giáo nói chung và Phật giáo nói riêng cho các nhà nghiên cứu trong lĩnh vực này. Thứ hai, đề tài góp phần làm rõ ảnh hưởng hai mặt của Phật giáo đối với đời sống của người Việt Nam và những vấn đề đặt ra hiện nay nhằm tìm kiếm các phải pháp để phát huy thành quả và hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của Phật giáo trong quá trình xây dựng đời sống mới ở Việt Nam. Thứ ba, đề tài góp phần cung cấp các luận cứ khoa học và thực tiễn giúp Đảng và Nhà nước đề ra những chính sách phù hợp nhằm đoàn kết, phát huy vai trò của các tôn giáo trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước hiện nay.  Kết cấu đề tài Đề tài chính gồm ba phần Phần thứ nhất: Sự hình thành và phát triển của Phật giáo - Khái quát về Phật giáo - Sự hình thành và phát triển của Phật giáo vào Việt Nam Phần thứ hai: Tư tưởng triết học của Phật giáo Phần thứ ba: Những quan điểm về giá trị và hạn chế của Triết học Phật giáo, những giải pháp cơ bản. Mong rằng qua bài viết này sẽ giúp cho độc giả nắm bắt được những nét đại cương về Phật giáo Việt Nam và tầm ảnh hưởng của nó trong đời sống văn hóa tinh thần của người Việt. Dù hết sức cố gắng , nhưng với kiến thức còn hạn chế và thời lượng cho phép nên vẫn không sao tránh khỏi những sai sót trong quá trình tìm hiểu, nghiên cứu, kính mong Quí Bậc Giáo Thọ Sư, Giáo sư hướng dẫn chỉ giáo. MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU................................................................................................................ i MỤC LỤC................................................................................................................... vii DANH MỤC VIẾT TẮT.............................................................................................. ix CHƯƠNG 1: SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA PHẬT GIÁO....................1 1.1 Khái quát về Phật giáo......................................................................................... 1 Sự ra đời của Phật giáo............................................................................. 1 Con đường truyền đi của đạo Phật............................................................ 2 Tìm hiểu về đạo Phật................................................................................ 4 Thế giới quan của Phật giáo..................................................................... 5 Nhân sinh quan Phật giáo......................................................................... 6 1.2 Sự hình thành và phát triển của Phật giáo vào Việt Nam..................................... 8 CHƯƠNG 2: TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA PHẬT GIÁO...................................... 11 2.1. Nhân quả............................................................................................................ 11 2.2. Luân hồi............................................................................................................. 14 2.3. Tứ diệu đế.......................................................................................................... 15 2.4. Bát chính đạo...................................................................................................... 17 CHƯƠNG 3 NHỮNG QUAN ĐIỂM VỀ GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ CỦA TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO, NHỮNG GIẢI PHÁP CƠ BẢN........................................................... 20 3.1 Những quan điểm về giá trị của Triết học Phật Giáo.......................................... 20 Phật giáo góp phần kiến tạo một xã hội bình đẳng, bác ái......................20 Phật giáo góp phần tạo nên bản sắc văn hóa dân tộc..............................20 Phật giáo khuyên mọi người sống lương thiện, tu tâm dưỡng tính.........21 Giáo lý của Đạo Phật góp phần giáo dục đạo đức con người................. 22 Phật giáo có ảnh hưởng tích cực đến các mối quan hệ gia đình, xã hội . 24 3.2 Những quan điểm về hạn chế của Triết học Phật Giáo....................................... 25 3.3 Những giải pháp cơ bản..................................................................................... 28 CHƯƠNG 4: KẾT LUẬN........................................................................................... 36 TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................................ 37 DANH MỤC VIẾT TẮT Nxb: Nhà xuất bản KHXH: Khoa học xã hội CTQG: Chính trị Quốc gia CNXH: Chủ nghĩa xã hội Giảng viên bộ môn: PGS.TS Hà Trọng Thà Đề tài: Tư tưởng triết học của phật giáo và sự ảnh hưởng của nó đến đời sống văn hóa tinh thần của người Việt. CHƯƠNG 1: SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA PHẬT GIÁO 1.1 Khái quát về Phật giáo Sự ra đời của Phật giáo Trong lịch sử triết học của ấn Độ, mà thực chất là lịch sử phát triển của các hệ tư tưởng triết học xen lẫn với tôn giáo, có một thời kỳ là thời kỳ Bàlamôn giáo, Phật giáo (từ thế kỷ VI trước công nguyên đến thế kỷ thứ VI sau công nguyên). Ở thời kỳ này, mặc dù nền kinh tế đã phát triển hơn trước, nhưng nó vẫn bị kìm hãm bởi tính chất tổ chức kiên cố của công xã nông thôn, bởi sự phân chia đẳng cấp khắc nghiệt và sự thống trị của nhà nước trung ương tập quyền. Trong lĩnh vực đời sống tinh thần của xã hội, các trào lưu triết học, mà thực chất là các hệ tư tưởng của các tầng lớp khác nhau trong xã hội, xuất hiện đa dạng nhưng chia thành hai hệ thống chính đối lập nhau: chính thống và không chính thống. Hệ tư tưởng chính thống với thế giới quan duy tâm, tôn giáo của kinh Veda và giáo lý Bàlamôn trở thành hệ tư tưởng của giai cấp thống trị. Nhưng hệ tư tưởng không chính thống với đạo Phật, đạo Jaina và phong trào đòi tự do tư tưởng, đòi bình đẳng xã hội ở vùng Đông ấn lại ăn sâu vào mọi tầng lớp nhân dân. Đạo Phật đã hình thành ở ấn Độ vào khoảng thế kỷ thứ VI trước công nguyên, người sáng lập là thái tử Sidharta (Tất Đạt Đa) (Cồ - đăm), với tư cách là một trong những hệ tư tưởng tiên phong chống phân chia giai cấp, kì thị màu da và đồng cảm với nỗi khổ của nhân dân ấn Độ nói riêng, với con người nói chung. Thái tử Tất Đạt Đa (Sidharta) là con vua Tịnh Phạn (Sudhodana) nước Ca Tỳ La Vệ (Kapila vastu). Truyền kể vào năm 624 trước công nguyên, hoàng hậu MaDa (Maya) sinh hạ một hoàng tử tuấn tú tại vườn ngự uyển Lâm Tỳ Ni (Lumbini) dưới gốc cây Ưu Bát La, thường gọi là cây Vô Ưu (asokaa) có hoa với sắc màu rực rỡ. Thái tử sinh vào ngày trăng tròn tháng Vésaka, nhằm ngày rằm tháng tư âm lịch và được đặt tên là Tất Đạt Đa. Lớn lên, thái tử văn võ toàn tài, vợ là công chúa Da Du Đà La (Yasodava) con vua Thiện Giác, cuộc sống rất đầy đủ, sung sướng. Nhưng những điều mắt thấy tai nghe về những nỗi đau khổ của con người đã ám ảnh tâm tư thái tử. Một ngày kia, thái tử ra đi, tương truyền ngài đến dòng A Nô Ma 1 cắt tóc làm đạo sĩ. Ngài rủ năm người đến vùng Uruvela tu khổ hạnh trong 6 năm. Nhưng sau 6 năm học đạo và khổ hạnh, thái tử thấy kẻ hưởng lạc sẽ bê tha thối nát, còn tu hành khổ hạnh chỉ chuốc thêm khổ thân, chỉ có con đường trung đạo mới mong thành chính quả. Bởi thế, Thái tử đã bỏ 5 anh em ông Kiều Trần Như, dùng bát sữa của mục nữ Tu Xá Đề (Sajata), xuống sông Ni Liên tắm rửa, rồi lên thiền quán dưới gốc cây pipal (cây Tất Bát La, xứ Ba La Nại) lớn và ngồi dưới gốc cây suy nghĩ. Tương truyền là qua 49 ngày, ngài đã chứng tam minh tức là Túc mạng minh, Thiên nhân minh và Lậu tận minh, thành Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni, năm 36 tuổi. Gốc cây chỗ ngài ngồi gọi là Bồ đề đạo dưỡng (Bodhimanda) hay Kim cương tọa (Vadjrasana). Sau đó, ngài tìm 5 người bạn trước đây, giác ngộ cho họ, rồi cùng họ trong suốt 40 năm còn lại của cuộc đời đi truyền bá tư tưởng của mình. Có những câu chuyện đã thành huyền thoại về Phật như Phật đã dừng chân bên vệ đường xâu kim cho bà già mù lòa, săn sóc, dọn dẹp ô uế cho người bệnh, nhận cơm thừa của một tiện nữ dâng cúng... Từ những việc nhỏ nhất, tất cả đều thể hiện lòng từ bi bác ái của Ngài và đạo của Ngài. Con đường truyền đi của đạo Phật Sau Phật Niết bàn, các đệ tử Phật kiết tập 4 lần. Qua cuộc kiết tập lần thứ hai, do quan điểm bất đồng, Phật giáo chia thành hai phái: Thượng tọa bộ và Đại chúng bộ. Thượng toạ bộ chủ trương bảo thủ y nguyên Phật giáo ban đầu, đọc kinh bằng tiếng Pali. Đại chúng bộ có tư tưởng cấp tiến, phóng khóang đọc kinh bằng tiếng Sanskrit. Dị biệt tiếp tục phát triển, về sau giáo đoàn Phật giáo cho làm hai hệ là Nam truyền và Bắc truyền. Thượng toạ bộ chi phối Nam ấn và Phật giáo Nam truyền liên tục hưng thịnh. Đại chúng bộ chi phối Bắc ấn, nhưng mãi đến thời Bồ Tát Mã Minh (Asvaghosha) 5 thế kỷ sau Phật niết bàn, mới mở màn hưng thịnh và sáng rỡ nhất là thời kỳ Bồ Tát Long Thọ (Nagarjuna) đầu thế kỷ II sau công nguyên. Phật giáo vào Việt Nam bằng con đường dân giã và mang tính tự phát thông qua các thương nhân Ấn Độ và các nhà truyền giáo Trung Quốc. Công lao đầu tiên của việc Phật giáo du nhập vào Việt Nam phải kể đến vai trò của các thương nhân Ấn Độ. Từ những năm đầu công nguyên người Ấn Độ đã đi buôn bán với nhiều nước trong vùng Địa trung hải, Trung Đông, Đế quốc La Mã. Họ đi nhiều nơi để tìm nguyên liệu, hàng hoá. Chính trong quá trình đó, họ đã tới Đông Nam Á, trong đó có đất Giao Chỉ. Nhiều nhà nghiên cứu chỉ ra rằng, trung tâm Phật giáo đầu tiên ở Việt Nam - Luy Lâu - được hình thành trước tiên là do sự viếng thăm của các thương nhân người Ấn. Họ đến Việt Nam trước cả các tăng sĩ, họ đến mang theo cả những kỹ thuật canh tác, y thuật, phong tục tập quán và sinh hoạt tôn giáo của người Ấn Độ (Bà la môn giáo và Phật giáo). Những đặc điểm văn hóa này đã có ảnh hưởng đến đời sống của người dân bản địa Việt Nam. Như vậy, các thương nhân Ấn Độ đã tham gia một cách tự phát vào quá trình truyền bá Phật giáo vào các xứ phương Đông, trong đó có Việt Nam. Hay nói cách khác, họ đã đem Phật giáo đến Việt Nam một cách tự phát, không có chủ đích. Tuy nhiên, Phật giáo ở Giao Chỉ thời kỳ này mới chỉ là những sinh hoạt tín ngưỡng đơn sơ giới hạn trong sự đọc Tam quy, cúng dường Phật pháp, bố thí chứ chưa có kinh điển. Tiếp sau các tăng sĩ Ấn Độ là các nhà sư người Trung Quốc. Lúc này nước Việt Nam đang chịu sự đô hộ Trung Hoa. Các nhà sư Trung Quốc đến Việt Nam truyền đạo lúc này chưa phải do được người Việt mời, thỉnh mà cũng hoàn toàn mang tính tự phát. Chỉ đến khi nước Việt Nam bước vào thời kỳ tự chủ, vua Lê Đại Hành mới cho người sang Trung Hoa mời sư về thỉnh kinh. Phật giáo vào Việt Nam chủ yếu bằng con đường hòa bình, ít gây ra xung đột với văn hoá bản địa. Phật giáo đến với dân tộc Việt Nam một cách rất tự nhiên. Ngay từ buổi đầu mới du nhập, Phật giáo đã nhanh chóng được người Việt đón nhận mà hầu như không gặp phải bất kỳ một trở ngại nào. Thậm trí, nó còn được tiếp nhận một cách nhanh chóng vì bản thân nó có nhiều điểm phù hợp với hệ thống tín ngưỡng của người Việt cổ. Người Việt thời kỳ này tin tưởng có ông Trời ở trên cao, nhìn thấu mọi việc dưới đất, trừng phạt kẻ ác, giúp đỡ người thiện. Linh hồn con người không chết đi cùng thể xác mà nó vẫn còn tồn tại xung quanh người thân để che chở, bảo vệ, phù hộ họ. Bên cạnh đó họ còn tin có ma xó, tin vào thầy mo, thầy cúng… Trong bối cảnh như vậy, Phật giáo với thuyết Nhân quả nghiệp báo, luân hồi, với những quan niệm về công đức, Tam bảo… không những không đi ngược với tín ngưỡng của người Việt mà còn rất phù hợp nên nó đã được tiếp nhận nhanh chóng. Đồng thời, trong hoàn cảnh bị đô hộ bởi thế lực ngoại bang, người Việt đã tìm thấy ở Phật giáo một nền tảng tư tưởng để củng cố bản sắc dân tộc. Phật giáo Nam truyền lan đến các nước phía Nam ấn: Tích Lan, Thái Lan, Miến Điện, Lào, Campuchia và đa số trở thành quốc giáo. Phật giáo Bắc truyền lan đến các vùng phía Bắc ấn (Tây Tạng, Trung Quốc, Nhật Bản, ... ) mà mỗi nước lại có màu sắc riêng. Trung Hoa đã làm cho Phật giáo Bắc truyền thêm rực sáng. Sau này còn gọi Phật giáo Nam truyền là Phật giáo Tiểu Thừa, còn Phật giáo Bắc truyền là Phật giáo Đại Thừa. Với hai con đường thuỷ và bộ Phật giáo cũng vào Việt Nam những thế kỷ đầu công nguyên. Tìm hiểu về đạo Phật Phật giáo được sáng lập trên căn bản trí tuệ, lấy trí tuệ làm nền tảng để giải thoát con người. Phật giáo chủ trương công bằng, con người có quy luật nhân quả (Dhamma niyama) tức là con người là chủ nhân của chính mình. Phật giáo không phải là một tôn giáo vì Phật giáo không phải là một tín ngưỡng có hệ thống, lấy đức tin và tôn sùng lễ bái làm cứu cánh. Hơn nữa, Phật giáo không trung thành với một thần linh hay siêu nhiên nào. Phật giáo khuyên con người tự phát triển khả năng và trí tuệ của chính mình. Phật giáo không phải là một triết lý, vì triết lý có tính chất mơ hồ. Có nhà hoạt động chính trị nổi tiếng từng nói: “Phật học là mẹ của triết học, nghiên cứu Phật học có thể bổ khuyết cho khoa học”. Phật học không những thích hợp với khoa học mà còn bổ sung những khiếm khuyết của khoa học. Vì vậy, Phật giáo không đòi hỏi nơi người Phật tử một đức tin mù quáng. Phật giáo khuyến khích và chủ trương tự do bình đẳng, phù hợp với lý trí và thời đại. Phật giáo là một nền giáo dục trí tuệ, nhân bản vô lượng vô biên, căn cứ vào nguyên lý và hiện tượng của vũ trụ. Nền giáo dục mà đức Phật dẫn dắt và chỉ dạy cho chúng sinh hài hòa âm dương, sống khiêm tốn và suy nghĩ linh hoạt. Khuyên con người làm những điều phúc đức, tốt lành trong xã hội và trong đời sống cá nhân hàng ngày từ những việc nhỏ nhất cho đến việc lớn nhất, vĩ đại nhất, dựa trên phương diện thời gian, không gian và bao hàm c ả quá khứ - hiện tại - và tương lai. Tóm lại, có nhiều cách định nghĩa Phật giáo, nhưng định nghĩa cách nào cũng nên nhớ câu: “Tất cả vì Phật pháp, tất cả vì chúng sinh!”. Và những điều này đã được các nhà hiền triết và các nhà tri thức đều phải công nhận đó là chân lý. Nói một cách khác Phật giáo là một chân lý trường tồn không gì có thể đổi thay được. Thế giới quan của Phật giáo Thế giới quan của Phật giáo nguyên thủy được phản ánh trong thuyết duyên khởi và được làm sáng tỏ qua phạm trù vô ngã và vô thường [1]. + Duyên Khởi là tư tưởng, giáo lý cơ bản nhất của Phật giáo, thể hiện quan điểm của Phật giáo đối với đời người, với tồn tại và sinh mệnh, là cơ sở triết học của giáo thuyết cụ thể và tư tưởng quan trọng của Phật giáo như nhân quả, trung đạo, bình đẳng, từ bi, giải thoát. Duyên khởi là nói tắt câu:”Chư pháp do nhân duyên nhi kh ởi” có nghĩa là các pháp đều do nhân duyên mà có. Pháp là tất cả mọi sự vật, bao gồm vật chất và tinh thần, kể cả giáo lý. Nhân là năng lực phát sinh, còn duyên là lực hỗ trợ cho nhân phát sinh. Tất cả các pháp đều sinh, diệt, tồn tại trong sự liên hệ mật thiết với nhau, không một pháp nào có thể tồn tại độc lập tuyệt đối. Sự vật chỉ “có” một cách giả tạo, một cách vô thường. - Nhân duyên hội họp thì sự vật là “có” - Nhân duyên tan rã thì sự vật là “không” Người thế gian không tu dưỡng, lầm sự vật, vạn pháp là thực có, là vĩnh viễn nên bám giữ vào các pháp, vào sự vật (sinh mệnh, danh vọng, tiền tài). Nhưng thực ra các pháp là vô thường, là chuyển biến và khi tan rã thì người thế gian đau khổ. Lý nhân duyên cho thấy sự vật hình thành do nhân duyên hòa h ợp, sự vật là hư giả, là giả hợp không có tính tồn tại. Như vậy con người làm chủ cuộc đời mình, vận mệnh mình. + Vô ngã là không có một thực thể tối thượng tồn tại vĩnh hằng nào. Vạn vật trong vũ trụ vốn không có tính thường hằng, nó chỉ là sự “giả hợp” do sự hội đủ nhân duyên nên thành ra tồn tại. Ngay bản thân sự tồn tại của thực tế con người chẳng qua cũng là do “ngũ uẩn” hội hợp lại: sắc (vật chất), thụ (cảm giác), tưởng (ấn tượng), hành (suy lý) và thức (ý thức).Theo cách phân loại khác-“lục tại”: địa (chất khoáng), thủy (chất nước), hỏa (nhiệt năng), phong (hơi thở), không (khoảng trống) và thức (ý thức). Nói tổng quát thì vạn vật chỉ là sự “hội hợp” của hai loại yếu tố vật chất “sắc’ và tinh thần “danh”. Như vậy thì không có cái gọi là tôi (vô ngã) + Vô thường là không có cái gì trường tồn và vĩnh cửu cả. Luật vô thường chi phối vũ trụ, vạn vật, thân và tâm ta. Sự vật luôn luôn biến đổi, không có gì là thường trụ, bất biến. Nó chuyển biến không ngừng và sự chuyển biến ấy diễn ra dưới hai hình thức: - Một là Sátna (Kshana) vô thường: là sự chuyển biến rất nhanh, trong một thời gian hết sức ngắn, ngắn hơn cả một nháy mắt, một hơi thở, một sự chuyển biến vừa khởi lên đã chấm dứt. - Hai là nhất kỳ vô thường: là sự chuyển biến trong từng giai đoạn. Sự vô thường thứ nhất là trạng thái chuyển biến nhanh chóng, liên tiếp, ngắn ngủi, là kết quả gây ra sự vô thường thứ hai. Nhất kỳ vô thường là trạng thái chuyển biến rõ rệt, kết thúc một trạng thái cũ, chuyển sang một trạng thái mới. Vạn vật luôn nằm trong chu trình sinh-trụ-dị-diệt, chúng bị lôi cuốn vào dòng biến hóa hư ảo vô cùng theo luật nhân quả. Nhân nhờ duyên mới sinh ra quả, quả nhờ duyên mà thành nhân mới, nhân mới lại nhờ duyên mà thành quả mới…, cứ như thế vạn vật biến đổi, hợp - tan, tan – hợp mà không có nguyên nhân đầu tiên và kết quả cuối cùng nào cả. Nhân sinh quan Phật giáo Nhân sinh quan Phật giáo là phần trọng tâm của triết học này. Cũng như nhiều trường phái khác của triết học Ấn Độ cổ đại, Phật giáo đặt vấn đề tìm kiếm mục tiêu cứu cánh nhân sinh ở sự “giải thoát” (Moska) khỏi vòng luân hồi, nghiệp báo để đạt đến trạng thái tồn tại Niết bàn (Nirvana). Tính quần chúng của luận điểm nhân sinh Phật giáo thể hiện ở chỗ nâng cao tinh thần “bình đẳng giác ngộ”, tức là quyền thực hiện sự giải thoát là cho tất cả mọi người và cao hơn nữa là của mọi “chúng sinh”. Điều này mang tính nhân bản sâu sắc, vượt qua giới hạn đẳng cấp khắc nghiệt vốn là một truyền thống chính trị Ấn Độ cổ đại. Nó nói lên khát vọng “tự do cho tất cả mọi người”, không thể là độc quyền cho một đẳng cấp nào, dù đó là đẳng cấp quý tộc, bình dân hay tiện nô. Nhưng đó không phải kêu gọi gián tiếp cho quyền bình đẳng về mặt chính trị mà là bình đẳng trong sự mưu cầu cứu cánh giác ngộ. Nội dung triết học nhân sinh của Phật giáo tập trung ở bốn luận điểm (gọi là “tứ diện đế”). Bốn luận điểm này được Phật giáo coi là bốn chân lý vĩ đại về cuộc sống nhân sinh cho bất cứ cuộc sống nhân sinh nào thuộc đẳng cấp nào. + Khổ đế: Sự thật nơi cuộc sống nhân sinh không có gì ngoài s ự đau khổ, rằng buộc hệ lụy, không có tự do. Đó là tám nỗi khổ trầm lâm bất tận mà bất cứ ai cũng phải gánh chịu; Sinh, Lão, Bệnh, Tử, Thụ, Biệt và Ly (yêu thương chia l ìa), Oán tăng hội (oán ghét nhau mà phải sống với nhau), Sở cầu bất đắc (cái mong muốn mà không đạt được), và Ngũ thụ uẩn (năm yếu tố vô thường nung nấu làm khổ) + Nhân đế: là luận điểm giải thích những nguyên nhân sự thật đau khổ nơi cuộc sống nhân sinh. Đó là 12 nguyên nhân (t hập nhị nhân duyên): 1. Vô minh, 2. Hành, 3.Thức, 4. Danh sắc, 5. Lục nhập, 6. Xúc, 7. Thụ, 8. Ái, 9. Thủ, 10. Hữu, 11. Sinh và 12. Lão tử. Trong 12 nhân duyên ấy thì “Vô minh” là nguyên nhân thâu tóm tất cả. Bởi vậy diệt trừ vô minh là diệt trừ tận gốc rễ sự đau khổ nhân sinh. + Diệt đế: Là luận điểm về khả năng có thể tiêu diệt được sự khổ nơi cuộc sống nhân sinh, đạt tới trạng thái Niết bàn, cứu cánh của hành động tự do. Luận điểm này cũng bộc lộ tinh thần lạc quan tôn giáo của Phật giáo; cũng thể hiện khát vọng nhân bản của nó muốn hướng con người đến niềm hạnh phúc “tuyệt đối”, khát vọng của con người tới Chân – Thiện – Mỹ. + Đạo đế: là luận điểm về con đường thể hiện sự diệt khổ, đạt tới giải thoát. Đó không phải là con đường sử dụng bạo lực mà là con đường “tu đạo”, thực chất của con đường này là hoàn thiện đạo đức cá nhân. Sự giải phóng mang ý nghĩa của sự thực hiện cá nhân, không mang ý nghĩa của những phong trào cách mạng hay cải cách xã hội. Đây là nét đặc biệt của “tinh thần giải phóng nhân sinh” của Phật giáo. Con đường giải thoát, diệt khổ thực chất là tiêu diệt vô minh (sự tăm tối, không sáng suốt), gồm tám con đường (Bát chính đạo). Đó là: - Chính kiến: Phải nhận thức đúng, phân biệt đ ược phải trái - Chính tư duy: Suy nghĩ phải, phải chính, phải đúng đắn. - Chính nghiệp: Hành động phải chân chính, phải đúng đắn. - Chính ngữ: Nói phải đúng, không gian dối, không vu oan cho người khác. - Chính mệnh: Sống trung thực, không tham lam, vụ lợi, gian tà - Chính tịnh tiến: Phải siêng năng học tập, có ý thức vươn lên để đạt tới chân lý. - Chính niệm: Phải luôn luôn hướng về đạo lý chân chính. - Chính định: Kiên định tập trung tư tưởng vào con đường chính, không bị thoái chí, lay chuyển trước mọi cám dỗ. Theo Bát chính đạo, con người có thể diệt trừ vô minh, giải thoát, nhập vào cõi Niết bàn - Nirvana. Niết Bàn là trạng thái yên tĩnh, sáng suốt, chấm dứt sinh tử, luân hồi. Như vậy Phật giáo có tư tưởng biện chứng, mang tính duy tâm chủ quan. 1.2 Sự hình thành và phát triển của Phật giáo vào Việt Nam Ngày nay, căn cứ vào các tài liệu và các lập luận khoa học, giới nghiên cứu hầu hết đồng ý rằng Đạo Phật đã truyền vào Việt Nam rất sớm, nhất là từ cuối thế kỷ thứ II đến đầu thế kỷ thứ III Tây Lịch [2]. Trung tâm văn hóa Luy Lâu chính là nơi các vị sư Ấn Độ đến truyền đạo. Trung tâm Phật giáo Luy Lâu là trụ sở của Giao Chỉ, nằm ở trung tâm đồng bằng sông Hồng Việt Nam (Hà Bắc). Từ đây có những tuyến đường thủy bộ nối với Bành Thành và Lạc Dương. Các nhà buôn người Ấn Độ và người Trung Á đến buôn bán ở đây rất sớm và theo sau họ các nhà sư đến hành đạo. “Theo sách Lĩnh Nam Chích Quái viết vào thời Trần có chuyện Chử Đồng Tử, chàng trai nghèo ở đầm Dạ Trạch (Hưng Yên), kết duyên với công chúa Tiên Dung con gái vua Hùng. Sau đó, Chử Đồng Tử trên đường đi buôn, chàng đã gặp một nhà sư Ấn Độ ở trong một túp lều trên đảo Quỳnh Viên. Nhà sư giảng đạo cho Đồng Tử, Đồng Tử đã giác ngộ đạo Phật được nhà sư Ấn Độ cho một chiếc gậy và một nón lá để có thể chống gậy úp nón lên làm phép cầu mưa cầu nắng. Khi trở về Chử Đồng Tử đã truyền Phật pháp cho công chúa Tiên Dung và nhi ều người khác” [3,4]. Câu chuyện trên phần nào cũng đã phản ảnh Phật giáo du nhập vào đồng bằng Bắc bộ khá sớm trước khi tiếp nhận văn hóa Trung Hoa. Vì Phật giáo trực tiếp với người Ấn Độ nên thời ấy dân Việt Nam gọi Phật là ông Bụt bởi từ chữ Buddha mà ra, về sau khi Phật giáo đã qua Trung Hoa thì Buddha đựơc phiên âm qua tiếng Hán là Phật Đà và để lại tiếng Phật được phổ biến sử dụng. Phật giáo ăn sâu, bám rễ vào Việt Nam từ rất sớm. Đến đời nhà Lý, nhà Trần, Phật giáo phát triển cực thịnh, được coi là quốc giáo, ảnh hưởng đến tất cả mọi vấn đề trong cuộc sống. Đến thế kỷ 20, mặc dù ảnh hưởng mạnh của quá trình Âu hóa, Phật giáo Việt Nam lại phát triển mạnh mẽ, khởi đầu từ các đô thị miền Nam với các đóng góp quan trọng của các nhà sư Khánh Hòa và Thiện Chiếu [8]. Bốn giai đoạn lịch sử của Phật giáo Việt Nam • Từ đầu công nguyên đến hết thời kỳ Bắc thuộc là giai đoạn hình thành và phát triển rộng khắp • Thời Đại Việt là giai đoạn cực thịnh • Từ đời Hậu Lê đến cuối thế kỷ 19 là giai đoạn suy thoái • Từ đầu thế kỷ 20 đến nay là giai đoạn phục hưng. Đại thừa có ba tông phái được truyền vào Việt Nam [8]: + Thiền tông: là một tông phái Phật giáo do nhà sư Ấn Độ Bồ Đề Đạt Ma sáng lập ra ở Trung Quốc vào đầu thế kỷ thứ 6. Thiền là cách gọi tắt của Thiền na (Dhyana), có nghĩa là "Tĩnh tâm", chủ trương tập trung trí tuệ để quán định (thiền) nhằm đạt đến chân lý giác ngộ của đạo Phật. + Tịnh độ tông: là một tông phái Phật giáo, chủ trương tu dựa trên tha lực của Phật A Di Đà. Trong Tịnh Độ tông, có tồn tại một cõi Phật cụ thể, gọi là Thế Giới Cực Lạc do đức Phật A Di làm giáo chủ. Việc tu hành được mở rộng ra những hành động đơn giản như đi thăm chùa, tụng danh Phật A Di Đà. Nhờ vậy mà Tịnh Độ tông là tông phái phổ biến khắp cõi Việt Nam. + Mật tông là một tông phái Phật giáo chủ trương sử dụng những phép tu tụng niệm các mật chú để đạt đến chân lý giác ngộ. Mật tông là sự hợp nhất giới luật của thuyết nhất thiết hữu bộ (Sarvastivada) và nghi thức tác pháp của Kim Cương thừa. Đạo Phật hội nhập vào văn minh Việt Nam là cả một quá trình lâu dài mãi cho đến ngày nay và vẫn tiếp tục, đó là sự hòa mình của đạo Phật, với tư thế là một luồng văn hóa ngoại lai vào nền văn hóa của dân tộc Việt Nam. Có thể nói đó là quá trình đạo Phật dần dần được bản địa hóa, Việt Nam hóa, biến thành một phần cơ thể của nền văn minh Việt Nam [9].
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan