Đề tài 1. Trình bày tư tưởng HCM về vấn đề dân tộc.
Từ quan điểm của HCM về mối quan hệ giữa cách mạng
thuộc địa và cách mạng chính quốc, theo anh (chị) ngày
nay, Đảng và NN vận dụng quan điểm này như thế nào?
I, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC
1. Vấn đề dân tộc thuộc địa
Dẫn: Chủ nghĩa Mác Lênin đã nêu lên những quan điểm cơ bản về mối quan hệ
biện chứng giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp. Theo quan điểm của CN Mác
Lenin chỉ có đứng trên lập trường quan điểm giai cấp vô sản mới giải quyết đầy đủ
vấn đề dân tộc.
A, Thực chất của vấn đề dân tộc thuộc địa
- Là vấn đề đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, giành độc lập dân tộc, thực hiện
quyền dân tộc tự quyết, thành lập Nhà Nước độc lập dân tộc.
Dẫn: Hồ Chí Minh viết nhiều tác phẩm như Tâm địa thực dân, Bình đẳng, Vực
thẳm thuộc địa, Công cuộc khai hóa giết người…tố cáo chủ nghĩa thực dân, vạch
trần cái gọi là “khai hóa văn minh” của chúng.
Nếu như C. Mác bàn nhiều về cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản, V.I.
Lênin bàn nhiều về cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, thì Hồ Chí Minh tập
trung
bàn
về
cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân và đấu tranh giải phóng dân tộc ở thuộc
địa.
- Là nội dung lựa chọn con đường phát triển cho dân tộc.
Dẫn: Trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của ĐCS VN đã xác định: Làm tư sản
dân quyền CM và thổ địa CM để đi tới XHCS - là hướng phát triển lâu dài. Đó
chính là con đường độc lập dân tộc gắn liền với CNXH.
B, Độc lập dân tộc- Nội dung cốt lõi của vấn đề dân tộc thuộc địa
- Cách tiếp cận về quyền con người: Người tìm hiểu và tiếp cận những nhân tố về
con người được nêu trong Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước Mĩ, tuyên ngôn
nhân quyền và dân quyền 1791 của CM Pháp như quyền bình đẳng, quyền tự do,
quyền mưu cầu hạnh phúc…- NAQ đã khái quát và nâng cao thành quyền dân tộc:
“Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đảng, dân tộc nào cũng có quyền
sống, quyền sung sướng và quyền tự do”
- Nội dung của độc lập dân tộc: là khát vọng lớn nhất của các dân tộc thuộc địa.
Độc lập tự do là mục tiêu chiến đấu, là nguồn sức mạnh làm nên mọi chiến thắng
của dân tộc VN trong TK XX, một tư tưởng lớn trong thời đại giải phóng dân tộc.
Dẫn: Hồ Chí Minh nói: “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ Quốc tôi, đấy là
tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu”.
+ Trong bản yêu sách 8 gửi tới Hội nghị Vacxay (6/1919), NAQ đã đòi những
quyền tự do, dân chủ cho nhân dân An Nam.
+ Trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, tư tưởng cốt lõi là độc lập, tự do
cho dân tộc.
+ Tháng 5/1941, HCM chủ trì Hội nghị lần VIII của BCH Trung Ương Đảng, chỉ
rõ mục tiêu của CM VN là “cờ treo độc lập, nền xây bình quyền”.
+ CMT8 thành công, người thay mặt cho Chính phủ lâm thời đọc bản Tuyên ngôn
độc lập để khẳng định nền độc lập và quyền tự do của dân tộc VN.
+ Sau CMT8, trong thư gửi Liện Hợp Quốc và Chính phủ các nước, HCM trịnh
trọng tuyên bố nần độc lập của ta và quyết tâm sẽ chiến đấu đến cùng để bảo vệ
nền độc lập ấy.
+ Trong cuộc kháng chiến chống Td Pháp lần 2 và chống sự can thiệp của Đế quốc
Mỹ, HCM cùng Trung Ương Đảng lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cuộc chiến và
luôn nêu cao khẩu hiệu: “Không có gì quý hơn độc lập tự do”.
Dẫn: Không có gì quý hơn độc lập, tự do là mục tiêu chiến đấu, là nguồn sức
mạnh
làm
nên chiến thắng của dân tộc Việt Nam, đồng thời cũng là nguồn động viên đối với
các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới. Vì vậy, Người được tôn vinh là “Anh hùng
giải
phóng dân tộc” của Việt Nam, là “Người khởi xướng cuộc đấu tranh giải phóng
của
các dân tộc thuộc địa trong thế kỷ XX”
C, Chủ nghĩa dân tộc - một động lực lớn của đất nước
- Từ những năm 20 của thế kỷ XX, Nguyễn Ái Quốc đã nhận thấy sự áp bức, bóc
lột
của
chủ nghĩa đế quốc đối với các dân tộc thuộc địa càng nặng nề, thì phản ứng của
dân
tộc bị áp bức càng quyết liệt. Không chỉ quần chúng lao động (công nhân và nông
dân), mà cả các giai cấp và tầng lớp trên trong xã hội (tiểu tư sản, tư sản và địa
chủ)
đều phải chịu nỗi nhục của người dân mất nước, của một dân tộc mất độc lập, tự
do.
- Cùng với sự lên án chủ nghĩa thực dân và cổ vũ các dân tộc thuộc địa vùng dậy
đấu
tranh, Hồ Chí Minh khẳng định: đối với các dân tộc ở phương Đông, “chủ nghĩa
dân
tộc là một động lực lớn của đất nước”. Vì thế, “người ta sẽ không làm gì được cho
người An Nam nếu không dựa trên các lực lượng vĩ đại, và duy nhất của đời sống
xã
hội của họ”. Người kiến nghị về Cương lĩnh hành động của Quốc tế Cộng sản là:
“Phát động chủ nghĩa dân tộc nhân danh Quốc tế Cộng sản…Khi chủ nghĩa dân
tộc
của họ giành thắng lợi…nhất định chủ nghĩa dân tộc ấy sẽ biến thành chủ nghĩa
quốc tế”.
- Hồ Chí Minh thấy rõ sức mạnh của chủ nghĩa dân tộc với tư cách là chủ nghĩa
yêu
nước chân chính của các dân tộc thuộc địa. Đó là sức mạnh chiến đấu và thắng lợi
trước bất cứ thế lực ngoại xâm nào.
- Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ nghĩa dân tộc chân chính “là một bộ phận của
tinh
thần quốc tế”, “khác hẳn với tinh thần “vị quốc” của bọn đế quốc phản động”.
Xuất phát từ sự phân tích quan hệ giai cấp trong xã hội thuộc địa, từ truyền thống
dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh đã đánh giá cao sức mạnh của chủ nghĩa dân tộc
mà
người cộng sản phải nắm lấy và phát huy, và Người cho đó là, “một chính sách
mang
tính hiện thực tuyệt vời”.
2. Mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp
A, Vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp có quan hệ chặt chẽ với nhau
* HCM coi trọng vấn đề dân tộc đề cao sức mạnh của CN yêu nước nhưng người
luôn đứng trên quan điểm của giai cấp để nhận thức và giải quyết vấn đề dân tộc.
* Sự kết hợp nhuần nhuyễn vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc của Hồ Chí Minh thể
hiện:
- Khẳng định vai trò lịch sử của giai cấp công nhân và quyền lãnh đạo duy nhất của
Đảng Cộng sản trong quá trình cách mạng Việt Nam.
- Chủ trương đại đoàn kết dân tộc rộng rãi trên nền tảng liên minh công nhân, nông
dân và tầng lớp trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng.
- Sử dụng bạo lực cách mạng của quần chúng để chống lại bạo lực phản cách mạng
của kẻ thù.
- Thiết lập chính quyền nhà nước của dân, do dân và vì dân.
- Gắn kết mục tiêu độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội.
B, Giải phóng dân tộc là vấn đề trên hết, trước hết là độc lập dân tộc gắn liền
với CNXH
- Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH: thể hiện ở phương hướng chiến lược của
CM VN được đề ra tại cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, làm “tư sản dân
quyền CM” và “thổ địa CM” để đi tới “XHCS”
- HCM khẳng định: chỉ có CNXH, CNCS mới giải phóng được các dân tộc bị áp
bức và những lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ.
=> Tư tưởng vừa phản ánh mối quan hệ khăng khít giữa mục tiêu giải phóng dân
tộc với mục tiêu giải phóng giai cấp và giải phóng con người.
C, Giải phóng dân tộc tạo tiền đề để giải phóng giai cấp
Vì chúng có mối quan hệ chặt chẽ và vấn đề giải phóng dân tộc là vấn đề trên hết
nên sau khi giải phóng dân tộc thành công sẽ là tiền đề cho giải phóng giai cấp.
Dẫn: Hồ Chí Minh giải quyết vấn để dân tộc theo quan điểm giai cấp, nhưng đồng
thời đặt vấn đề giai cấp trong vấn đề dân tộc. Giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị
của chủ nghĩa thực dân là điều kiện để giải phóng giai cấp. Vì thế, lợi ích của giai
cấp phải phục tùng lợi ích của dân tộc.
Tháng 5-1941, Người cùng với Trung ương Đảng khẳng định: “Trong lúc này
quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc
gia, của dân tộc. Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải
phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn
thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai
cấp đến vạn năm cũng không đòi lại lại được”.
D, Giữ vững độc lập của dân tộc mình, đồng thời tôn trọng độc lập của dân
tộc khác
- Là một chiến sĩ quốc tế chân chính, Hồ Chí Minh không chỉ đấu tranh cho độc
lập của dân tộc Việt Nam, mà còn đấu tranh cho độc lập của tất cả các dân tộc bị
áp
bức.
Nêu cao tinh thần độc lập tự chủ, thực hiện nguyên tắc quyền dân tộc tự quyết,
nhưng Hồ Chí Minh không quên nghĩa vụ quốc tế trong việc ủng hộ các cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc trên thế giới, đề ra khẩu hiệu “giúp bạn là tự giúp mình",
và chủ trương phải bằng thắng lợi của cách mạng mỗi nước mà đóng góp vào
thắng
lợi
chung
của
cách
mạng
thế
giới.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc mang tính khoa học và cách mạng sâu
sắc, thể hiện sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa dân tộc và giai cấp, chủ nghĩa yêu
nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng. Đúng như Ph. Ăngghen từng
nói: những tư tưởng dân tộc chân chính trong phong trào công nhân bao giờ cũng
là những tư tưởng quốc tế chân chính”.
Kết Luận: Với Tư tưởng này, NAQ không chỉ được tôn vinh là “Anh hùng
giải phóng dân tộc” của VN mà còn được thừa nhận là “Người khởi xướng
cuộc đấu tranh giải phóng các dân tộc thuộc địa trong nửa thế kỉ XX”.
* Mối quan hệ giữa cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa và cách mạng
vô sản ở chính quốc:
Dẫn: Trong khoảng 10 năm vượt qua các đại dương, đến với nhân loại cần lao
đang tranh đấu ở nhiều châu lục và quốc gia trên thế giới, NAQ đã kết hợp tìm
hiểu lý luận và khảo sát thực tiễn, nhất là ở 3 nước tư bản Anh, Pháp, Mỹ.
- HCM thấy được CMT10 Nga không chỉ là một cuộc CMVS, mà còn là một cuộc
CM giải phóng dân tộc.
=> Nó nêu tấm gương sáng về sự nghiệp giải phóng các dân tộc thuộc địa và “mở
ra trước mắt họ thời đại CM chống đế quốc, thời đại giả phóng dân tộc”.
- Theo Hồ Chí Minh thì cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa và cách mạng
vô sản ở chính quốc quan hệ mật thiết và tác động qua lại lẫn nhau trong cuộc đấu
tranh chống kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc.
- Đó là mối quan hệ bình đẳng chứ không phải là quan hệ lệ thuộc, hoặc quan hệ
chính, phụ.
- Nhận thức đúng vai trò, vị trí chiến lược của cách mạng thuộc địa Nguyễn Ái
Quốc cho rằng cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa có khả năng giành thắng
lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc.
=> Hồ Chí Minh đã thấy được khả năng tự giải phóng của các dân tộc thuộc địa.
Thực tiễn các mạng tháng Tám, thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp, chống
Mỹ đã chứng minh luận điểm trên của Hồ Chí Minh là đúng đắn .
*VẬN DỤNG:
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng
dân tộc trong công cuộc đổi mới hiện nay.
1. Khơi dậy sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc, nguồn
động lực mạnh mẽ xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Hội nghị Trung ương 6 (khóa 7) đã xác định rõ nguồn lực để xây dựng và phát
triển đất nước. Trong đó nguồn lực con người cả về thể chất và tinh thần là quan
trọng nhất. Cần khơi dậy truyền thống yêu nước của con người Việt Nam biến
thành động lực để chiến thắng kẻ thù, xây dựng và phát triển kinh tế.
2. Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh nhận thức và giải quyết vấn đề dân tộc trên
quan điểm giai cấp.
Khẳng định rõ vai trò, sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản, của Đảng cộng sản,
kết hợp vấn đề dân tộc và giai cấp đưa cách mạng Việt Nam từ giải phóng dân tộc
lên CNXH. Đại đoàn kết dân tộc rộng rãi trên nền tảng liên minh công nông và
tầng lớp tri thức do Đảng lãnh đạo. Trong đấu tranh giành chính quyền phải sử
dụng bạo lực của quần chúng cách mạng chống bạo lực phản cách mạng. Kiên trì
mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH.
3. Chăm lo xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, giải quyết tốt mới quan hệ giữa
các dân tộc anh em trong cộng đồng dân tộc Việt Nam.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của đảng nêu: vấn đề dân tộc và đại đoàn
kết dân tộc luôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng. Lịch sử ghi nhận
công lao của các dân tộc miền núi đóng góp to lớn vào thắng lợi của cuộc kháng
chiến chống xâm lược. Hồ Chí Minh nói: đồng bào miền núi đã có nhiều công
trạng vẻ vang và oanh liệt.
Trong công tác đền ơn đáp nghĩa Hồ Chí Minh chỉ thị, Các cấp bộ Đảng phải thi
hành đúng chính sách dân tộc, Thực hiện sự đoàn kết, bình đẳng, tương trợ giữa
các dân tộc sao cho đạt mục tiêu: nhân dân no ấm hơn, mạnh khỏe hơn. Văn hóa sẽ
cao hơn. Giao thông thuận tiện hơn. Bản làng vui tươi hơn. Quốc phòng vững vàng
hơn.
Đề tài 2. Trình bày tư tưởng HCM về CNXH và sự vận
dụng của Đảng ta trong vào công cuộc xây dựng CNXH ở
Việt Nam hiện nay?
1. Tính tất yếu của CNXH ở Việt Nam.
*Cơ sở thực tiễn Việt Nam
+Quan điểm của HCM là: tiến lên CNXH là bước phát triển tất yếu
của VN sau khi nước nhà giành được độc lập theo con đường cách
mạng vô sản.
+ HCM khẳng định: "chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại,
đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc
sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất.
2. Đặc trưng của CNXH ở VN
a. Cách tiếp cận của HCM về CNXH.
HCM tiếp thu lý luận về CNXH khoa học của lý luận Mác - Lênin
trước hết là từ khát vọng giải phóng dân tộc VN.
+Tiếp cận ở phương diện đạo đức, hướng đến giá trị nhân đạo,
nhân văn mácxít.
+Bao trùm lên tất cả là HCM tiếp cận CNLM từ phương diện văn
hóa.
b. Bản chất và đặc trưng tổng quát của CNXH
Bản chất:
+ HCM coi CNXH là một chế độ xã hội bao gồm các mặt rất
phong phú, hoàn chỉnh, trong đó, con người được phát triển toàn
diện, tự do.
+HCM diễn đạt quan niệm của mình về CNXH trên một số mặt
nào đó của nó như: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội...
+HCM quan niệm về CNXH ở nước ta bằng cách nhấn mạnh mục
tiêu vì lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân.
+HCM nêu lên CNXH ở VN trong ý thức, động lực của toàn dân
dưới sự lãnh đạo của ĐCSVN.
Đặc trưng:
+Đó là một chế độ chính trị do nhân dân làm chủ.
+CNXH là một chế độ xã hội có nền kinh tế phát triển cao, gắn
liền với sự phát triển của khoa học kỹ thuật.
+CNXH là chế độ không còn người bóc lột người.
+CNXH là một xã hội phát triển cao về văn hóa, đạo đức.
3. Quan niệm của HCM về mục tiêu, động lực của CNXH ở
VN.
a. Mục tiêu
Mục tiêu chung của CNXH là độc lập tự do cho dân tộc, hạnh phúc
cho nhân dân. Tính ưu việt hơn hẳn so với các chế độ xã hội đã
tồn tại trong lịch sử, chỉ ra mục tiêu giải phóng con người một
cách toàn diện. Mục tiêu cao nhất của chủ nghĩa xã hội là nâng
cao đời sống cho nhân dân.
Mục tiêu cụ thể:
Về chính trị, xây dựng chế độ nhân dân lao động làm chủ, Nhà
nước thực sự của dân, do dân, vì dân.
Về kinh tế, phát triển công-nông nghiệp hiện đại, khoa học-kỹ
thuật tiên tiến, cách bóc lột xoá bỏ dần, đời sống vật chất của
nhân dân ngày càng cải thiện.
Về văn hoá - xã hội, phát triển giáo dục, nâng cao dân trí, phát
triển văn hoá nghệ thuật...
Về con người: trước hết Người quan tâm đến tư tưởng XHCN, có
đức và tài.
b. Động lực của CNXH: phát huy các nguồn động lực về vật chất
và tư tưởng cho việc xây dựng CNXH. Gồm động lực bên trong và
động lực bên ngoài.
Động lực bên trong: Vốn, Khoa học kỹ thuật, Con người - là động
lực quan trọng và quyết định.
Nguồn lực con người phải phát huy trên cả hai phương diện: cộng
đồng và cá nhân.
Coi trọng động lực lợi ích kinh tế.
Tác động cả chính trị và tinh thần của người lao động. Người coi
trọng cả văn hoá, khoa học, giáo dục là động lực không thể thiếu
của chủ nghĩa xã hội.
Sử dụng vai trò điều tiết của các nhân tố khác như: văn hoá, đạo
đức, pháp luật đối với hoạt động của con người.
Động lực bên ngoài: sức mạnh thời đại, ĐKQT
Khắc phục lực cản, yếu tố kìm hãm, triệt tiêu nguồn năng lượng
vốn có của chủ nghĩa xã hội.
Kết luận: Quan điểm của HCM về những đặc trưng bản chất
của CNXH ở VN là những quan điểm khoa học, hoàn chỉnh về hệ
thống. Những quan điểm đó dựa trên cơ sở học thuyết Mác-Lenin
và có sự bổ sung một số đặc trưng truyền thống của VN. Những
đặc trưng bản chất đó được HCM khái quát thành những cụm từ:
CNXH là dân giàu, nước mạnh, XH công bằng, dân chủ, đạo đức,
văn minh. Đó là một chế độ ưu việt nhất trong xã hội, một chế độ
tự do và nhân đạo.
2. VẬN DỤNG
Tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH và con đường quá độ lên CNXH
ở Việt Nam là một hệ thống các luận điểm về bản chất, mục
tiêu của CNXH, về tính tất yếu khách quan của thời kì quá độ,
các bước đi, biện pháp xây dựng CNXH trong thời kì quá độ ở
Việt Nam.
Ngày nay, nước ta đang xây dựng CNXH trong bối cảnh trong
nước và thế giới có nhiều thay đổi so với sinh thời của Hồ Chí
Minh. Những luận điểm của Người về CNXH và con đường quá
độ lên CNXH vẫn là cơ sở lí luận và phương pháp luận chỉ đạo
chúng ta suy nghĩ tìm tòi để tìm ra bước đi, cách làm phù hợp
với tình hình mới.
Những thành tựu đạt được trong những năm qua đã khẳng định
đường lối, chính sách đổi mới của Đảng là đúng đắn. Bên cạnh
những thuận lợi và thời cơ, đất nước ta vẫn đang đứng trước
những khó khăn và thách thức lớn. Để tận dụng thời cơ, vượt
qua thách thức, tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, Đảng ta
tiếp tục kiên trì vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh với tinh thần
sáng tạo, nhằm giải quyết tốt các vấn đề do thực tiễn cách
mạng Việt Nam đặt ra.
1. Giữ vững mục tiêu của CNXH
Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là con đường cách mạng
đúng đắn của dân tộc Việt Nam mà Hồ Chí Minh đã lựa chọn, là
mục tiêu bất biến mà nhân dân ta đã kiên trì phấn đấu hy sinh
hơn bảy mươi năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng. Hồ Chí Minh
cho rằng nếu nước độc lập mà nhân dân không được hưởng
hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì. Muốn
xoá bỏ cuộc sống nghèo nàn lạc hậu, sau khi giành độc lập
chúng ta không có con đường nào khác là phải tiến lên CNXH.
Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để xây dựng CNXH và
CNXH là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc.
Hiện nay Đảng và nhân dân ta đang tiến hành công cuộc đổi
mới nhằm mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh" cũng chính là để hoàn thành thắng lợi mục
tiêu đó trong hoàn cảnh mới, hoàn toàn không phải là thay đổi
mục tiêu đi lên CNXH.
Nền kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế... có mặt tích cực và
mặt tiêu cực. Mặt tích cực của nền kinh tế thị trường là kích
thích sản xuất phát triển, làm cho nền kinh tế và con người
năng động, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, đào thải
những yếu tố bảo thủ, thụ động. Mặt tiêu cực là đẻ ra các tệ
nạn buôn gian bán lận, lừa đảo, chạy theo đồng tiền, tham
nhũng, phân hoá giàu nghèo ngày càng tăng, tình trạng thất
nghiệp, tha hoá, biến chất một bộ phận cán bộ có chức, có
quyền...
Vấn đề đặt ra là chúng ta phải tận dụng được các mặt tích cực
của nó, đồng thời phải biết ngăn chặn, phòng tránh các mặt
tiêu cực để giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Tăng trưởng
kinh tế phải gắn liền với công bằng xã hội, với sự lành mạnh về
đạo đức và tinh thần. Tư tưởng Hồ Chí Minh đã chỉ ra cho
chúng ta phương hướng và phương pháp suy nghĩ để tìm ra
những giải pháp hữu hiệu nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu đi
lên CNXH ở nước ta.
2. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, khơi dậy mạnh mẽ
tất cả các nguồn lực, trước hết là nguồn nội lực để thực hiện
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là yêu cầu có tính tất yếu đối
với các nước nông nghiệp lạc hậu quá độ lên CNXH chưa qua
giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa.
Theo Hồ Chí Minh: CNXH là công trình tập thể của nhân dân, do
nhân dân tự xây dựng; phải đem tài dân, sức dân, của dân làm
lợi cho dân.
Để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá thành công, cần
phát huy tất cả các nguồn lực bên trong và bên ngoài, nhưng
chủ yếu vẫn phải lấy nguồn lực bên trong làm gốc mới sử dụng
tốt, có hiệu quả nguồn lực bên ngoài. Nguồn lực bên trong bao
gồm con người (trí tuệ, tài năng, sức lực), đất đai, tài nguyên,
của cải ... của đất nước. Để khơi dậy mạnh mẽ nguồn lực đó,
cần phải phát huy cao độ quyền làm chủ của nhân dân, tạo
nên không khí dân chủ trong xã hội. Muốn vậy phải nâng cao
dân trí, bồi dưỡng văn hoá chính trị, cung cấp đầy đủ thông tin
cho mỗi người dân, thực hiện tốt cơ chế dân biết, dân bàn, dân
làm, dân kiểm tra, tạo điều kiện cho mỗi người dân được tham
gia giám sát công việc của Nhà nước. Đồng thời phải thực hiện
nhất quán chiến lược đại đoàn kết của Hồ Chí Minh, trên cơ sở
lấy liên minh công - nông - trí thức làm nòng cốt, tranh thủ sự
đóng góp của tất cả những ai tán tành sự nghiệp đổi mới vì
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh.
3. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại
Công cuộc đổi mới của đất nước ta diễn ra trong hoàn cảnh
cuộc cách mạng khoa học và công nghệ trên thế giới phát triển
mạnh và xu thế toàn cầu hoá đang ngày càng mở rộng.
Chúng ta phải tranh thủ tối đa sức mạnh của thời đại do cách
mạng khoa học-công nghệ, xu thế toàn cầu hoá tạo ra, phát
huy hiệu lực và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, có cơ chế,
chính sách tốt để thu hút đầu tư nhằm khai thác và sử dụng tốt
nhất các nguồn lực bên ngoài như vốn, kinh nghiệm quản lí và
công nghệ hiện đại, thực hiện kết hợp sức mạnh dân tộc với
sức mạnh thời đại theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Muốn vậy, tranh
thủ hợp tác đi đôi với thường xuyên khơi dậy chủ nghĩa yêu
nước, tinh thần dân tộc của mỗi người dân Việt Nam để đem
nhân lực, vật lực, tài lực phục vụ sự nghiệp xây dựng, phát
triển đất nước. Giao lưu, hội nhập phải gắn liền với không
ngừng trau dồi bản lĩnh và bản sắc văn hoá dân tộc để tiếp thu
tinh hoa văn hoá nhân loại, loại trừ các yếu tố văn hoá độc hại.
Bởi vì chỉ có bản lĩnh và bản sắc văn hoá dân tộc mới có thể
tiếp thu được tinh hoa văn hoá của nhân loại và loại bỏ được
những yếu tố tiêu cực, phản động.
4. Chăm lo xây dựng Đảng vững mạnh, làm trong sạch bộ máy
Nhà nước, đẩy mạnh đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng,
lãng phí, thực hiện cần kiệm xây dựng CNXH
Để phát huy được quyền làm chủ của người dân, trước hết cán
bộ đảng và nhà nước phải trong sạch, liêm khiết, phải thực sự
là người đầy tớ trung thành và tận tuỵ của nhân dân. Đảng và
Nhà nước có đường lối, chính sách đúng đắn nhưng đội ngũ cán
bộ thừa hành nhiệm vụ tham nhũng, cửa quyền, không tận tuỵ
thì chẳng những đường lối, chính sách đó không đi được vào
người dân mà còn trở thành nguyên nhân gây ra những bất
bình trong xã hội. Vì vậy, phải không ngừng chăm lo xây dựng
Đảng vững mạnh, gắn bó máu thịt với nhân dân. Muốn thế,
phải xây dựng Nhà nước trong sạch, thực sự là của dân, do
dân, vì dân. Kiên quyết loại trừ các phần tử thoái hoá, biến
chất ra khỏi bộ máy chính quyền. Tệ quan liêu, tham nhũng,
mất dân chủ, tác phong cửa quyền, lối sống xa hoa, lãng phí
của một bộ phận cán bộ có chức, có quyền đã làm ảnh hưởng
đến niềm tin của quần chúng vào tương lai của CNXH.
Giáo dục nhân dân tích cực tham gia lao động, sản xuất đồng
thời ý thức tiết kiệm để xây dựng đất nước. Hồ Chí Minh nói,
sản xuất mà không tiết kiệm thì như gió vào nhà trống không
lại hoàn không. Hiện nay đất nước ta còn là một nước nghèo vì
vậy phải coi tiết kiệm không chỉ là một nếp sống đạo đức, là
một chính sách kinh tế, là vấn đề chính trị mà còn là một nét
đẹp của văn hoá Việt Nam.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH và con đường quá độ lên CNXH
ở Việt Nam thực sự là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho sự
nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay. Tư tưởng đó cần phải được
quán triệt trong cơ chế, chính sách và pháp luật của Nhà nước,
trong nhận thức và hành động của mỗi cán bộ, đảng viên. Trên
cơ sở đó sẽ mang lại hiệu quả kinh tế-xã hội trong thực tế, cải
thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, từ đó củng
cố niềm tin của nhân dân vào thắng lợi của CNXH trên đất
nước ta.
Đề tài 3. Chứng minh độc lập dân tộc gắn liền với
CNXH là tư tưởng cốt lõi, xuyên suốt trong tư tưởng HCM.
Trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc hiện nay,
Đảng đã vận dụng tư tưởng này như thế nào.
I.ĐẶT VẤN ĐỀ .
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là một trong những nội
dung cốt lõi nhất trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, là tư tưởng
chính trị đặc sắc, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt và bao trùm trong di sản tư
tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng đặc sắc ấy thể hiện nhất quán mục tiêu
của con đường cách mạng mà Người đã lựa chọn, nó vừa đáp ứng được
yêu cầu bức xúc của dân tộc và khát vọng của quần chúng nhân dân
giành lấy độc lập, tự do, ấm no và hạnh phúc, giải phóng cuộc đời lầm
than, đói khổ dưới ách thống trị tàn bạo của chủ nghĩa thực dân, đế
quốc và bè lũ tay sai. Tư tưởng ấy đã đưa dân tộc ta đến độc lập, tự do,
nước nhà Bắc – Nam thống nhất và ngày nay, đó là nguồn sức mạnh
trong sự nghiệp xây dựng một xã hội Việt Nam mới xã hội chủ nghĩa:
dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh. .Độc lập dân tộc
gắn liền với CNXH đây cũng là vấn đề của thời đại- thời đại quá độ từ
chủ nghĩa tư bản lên CNXH trên phạm vi thế giới
Nghiên cứu nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền
với CNXH không chỉ là vấn đề của quá khứ lịch sử mà còn có ý nghĩa lý
luận và thực tiễn nóng hổi trong giai đoạn hiện nay và lâu dài hơn nữa.
II.GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ A.NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TƯ TƯỞNG HỒ
CHÍ MINH VỀ ĐỘC LẬP DÂN TỘC GẮN LIỀN VỚI CNXH.
1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH.
a.Quan niệm của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc: Quan niệm của
Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc trong thời đại cách mạng vô sản được
thể hiện trên những luận điểm cơ bản sau đây:
Một là, độc lập dân tộc phải là độc lập thực sự, độc lập hoàn
toàn với đầy đủ chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ, chính
trị, kinh tế, văn hóa, an ninh, quốc phòng. Quyền độc lập dân tộc
là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Đối với một người dân mất
nước, cái quý nhất trên đời là độc lập của Tổ quốc, tự do của nhân dân.
Như Hồ Chí Minh đã từng nói: Cái mà tôi cần nhất trên đời là: Đồng bào
tôi được tự do, Tổ quốc tôi được độc lập…Hồ Chí Minh là người đã đưa
ra chân lý bất hủ, có giá trị cho mọi thời đại: “không có gì quý hơn độc
lập tự do”. Đó không chỉ là lý tưởng mà còn là lẽ sống, là học thuyết
cách mạng của Hồ Chí Minh, là lý do chiến đấu, là nguồn sức mạnh làm
nên chiến thắng, nguồn động viên đối với các dân tộc bị áp bức trên
thế giới. Nước Việt Nam của người Việt Nam, mọi vấn đề thuộc chủ
quyền quốc gia Việt Nam phải do người Việt Nam tự giải quyết. Nhân
dân Việt Nam không chấp nhận sự can thiệp dưới bất cứ hình thức nào.
Theo Hồ Chí Minh quyền độc lập dân tộc là quyền thiêng liêng, là trên
hết, dù có phải hy sinh đến đâu cũng phải giành và giữ cho được quyền
độc lập ấy.
Hai là, Giá trị thực sự của độc lập dân tộc phải được thể hiện ở
các quyền tự do và hạnh phúc mà nhân dân được hưởng. “Nếu
nước được độc lập, mà dân không được hưởng hạnh phúc tự do, thì độc
lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”. Độc lập dân tộc phải được đặt trong
khối thống nhất bền vững, đoàn kết chặt chẽ của các tộc người, các
miền tổ quốc, giữa các tôn giáo và tất cả các giai cấp, tầng lớp nhân
dân yêu nước, đồng bào trong nước và kiều bào ở nước ngoài.
Ba là, Độc lập dân tộc trong hòa bình chân chính. Hồ Chí Minh
luôn là người đi đầu, chủ động tích cực bày tỏ ước vọng và tìm mọi giải
pháp cho sự nghiệp bảo vệ hòa bình, hết sức tránh xung đột, tránh
chiến tranh. Năm 1946 Người cùng với Trung ương Đảng chủ động ký
hiệp định sơ bộ 6-3, rồi chính Người trực tiếp ký tạm ước 14-9 với Chính
Phủ Pháp với mong muốn giải quyết cuộc tranh chấp bằng con đường
hòa bình. Khi thực dân Pháp khiêu khích gây xung đột, Hồ Chí Minh đã
kêu gọi nhân dân Việt Nam kiên trì thi hành những điều khoản đã ký
trong tạm ước. Đồng thời người cũng kêu gọi những người Pháp vì lợi
ích của hai dân tộc Việt- Pháp mà chấm dứt những hành động khiêu
khích. Khi chiến tranh nổ ra, trên cơ sở kiên quyết kháng chiến đến
cùng để bảo vệ chủ quyền quốc gia, Hồ Chí Minh vẫn luôn bày tỏ mong
muốn sẵng sàng đàm phán với chính phủ Pháp để kết thúc cuộc chiến
tranh, lập lại hòa bình, tránh làm tổn hại tiền của, xương máu của hai
dân tộc.
Bốn là, kết hợp nhuần nhuyễn dân tộc với giai cấp, độc lập dân
tộc với CNXH, chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế. Chủ
nghĩa yêu nước với tinh thần dân tộc là một động lực lớn của đất nước.
Xuất phát từ vị trí của người dân thuộc địa mất nước, từ truyền thống
dân tộc Việt nam, Nguyễn Ái Quốc đã đánh giá cao sức mạnh của chủ
nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc chân chính, coi đó là một động lực
lớn mà những người cộng sản phải nắm lấy và phát huy, không để rơi
vào tay giai cấp nào khác., phải nhận thức và giải quyết trên lập
trường của giai cấp vô sản. Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Tư
tưởng này vừa phản ánh quy luật khách quan của sự nghiệp giải phóng
dân tộc trong thời đại cách mạng vô sản, vừa phản ánh mối quan hệ
khăng khít giữa mục tiêu giải phóng dân tộc với mục tiêu giải phóng
giai cấp và giải phóng con người. Đến Hồ Chí Minh, chủ nghĩa yêu nước
truyền thống đã phát triển thành chủ nghĩa yêu nước hiện đại, độc lập
dân tộc gắn liền với CNXH. Độc lập cho dân tộc mình đồng thời độc lập
cho tất cả dân tộc. Hồ Chí Minh khẳng định: quyền tự do, độc lập là
quyền bất khả xâm phạm của các dân tộc. Là một chiến sĩ quốc tế
chân chính, Hồ Chí Minh không chỉ đấu tranh cho độc lập của dân tộc
mình mà còn đấu tranh cho độc lập của tất cả các dân tộc bị áp bức.
Chủ nghĩa yêu nước chân chính luôn luôn thống nhất với chủ nghĩa
quốc tế trong sáng ở Hồ Chí Minh.
b. Quan niệm của Hồ Chí Minh về CNXH.
Quan niệm của Hồ Chí Minh về những đặc trưng bản chất của CNXH
bao gồm:
CNXH là một chế độ do nhân dân làm chủ, Nhà nước phải phát huy
quyền làm chủ của nhân dân để huy động được tính tích cực và sáng
tạo của nhân dân vào sự nghiệp xây dựng CNXH.
CNXH có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện
đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu, nhằm không
ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, trước hết
là nhân dân lao động.
CNXH là một xã hội phát triển cao về văn hóa, đạo đức, trong đó người
với người là bè bạn, là đồng chí, là anh em, con người được giaỉ phóng
khỏi áp bức, bóc lột, có cuộc sống vật chất và tinh thần phong phú,
được tạo điều kiện để phát triển hết mọi khả năng sẵn có của mình. ,
CNXH là một xã hội công bằng và hợp lý, làm nhiều hưởng nhiều, làm ít
hưởng ít, không làm không hưởng, các dân tộc bình đẳng, miền núi tiến
kịp miền xuôi.
CNXH là một công trình tập thể của nhân dân, do nhân dân tự xây
dựng lấy dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Tóm Lại: Quan niệm của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH có
mối quan hệ biện chứng với nhau, gắn liền nhau, phản ánh quan điểm
cách mạng không ngừng, một quá trình vận động liên tục của lịch sử
cách mạng Việt Nam, gồm hai giai đoạn, mỗi giai đoạn ứng với mỗi
nhiệm vụ nhất định của tiến trình phát triển. Điều này đã được Hồ Chí
Minh khẳng định trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng: Việt
Nam làm “tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới
xã hội cộng sản” nhằm “đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn
phong kiến” “làm cho nước Nam hoàn toàn độc lập”, “dựng ra chính
phủ công nông binh” để đi lên CNXH.
2. Mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong tư tưởng
Hồ Chí Minh:
a..Giành độc lập dân tộc để đi lên CNXH
- Giành độc lập dân tộc để đi lên CNXH, điều này khác với các bậc tiền
bối yêu nước trước đó- họ mới chỉ đề cập đến việc giành độc lập dân
tộc mà chưa gắn bó giữa độc lập dân tộc với tiến bộ xã hội, với CNXH.
- Để có độc lập thật sự cho dân tộc, tự do, hạnh phúc hoàn toàn cho
nhân dân không có con đường nào khác là con đường cách mạng vô
sản, con đường độc lập dân tộc gắn liền với CNXH.
- Cách mạng giải phóng dân tộc là một bộ phận của cách mạng vô sản,
là một trong những “cái cánh” của cách mạng vô sản. Gắn cách mạng
giải phóng dân tộc của Việt Nam với cách mạng thế giới, đưa dân tộc
ta vào quỹ đạo của thời đại, đưa cách mạng giải phóng dân tộc tiến lên
cách mạng XHCN. Đây là một phát hiện, một sáng tạo lớn về con
đường phát triển cách mạng ở các nước thuộc địa nữa phong kiến.
- Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH phù hợp với nguyện vọng của dân
tộc Việt Nam và xu thế của thời đại quá độ lên CNXH được mở đầu từ
cách mạng tháng mười Nga (1917).
- Tư tưởng đó được thực tiễn cách mạng Việt Nam chứng minh tính
đúng đắn của nó cho đến hôm nay. (Đại hội X của Đảng một lần nữa
khẳng định: Trong quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác- lê
Nin và tư tưởng HCM).
b. Giành độc lập dân tộc là mục tiêu trực tiếp, trước hết, là tiền
đề đi lên CNXH:
Thứ nhất, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lê Nin về vấn đề
giải phóng dân tộc và giai cấp: các ông cho rằng: phải giải phóng
giai cấp trước thì mới giải phóng được dân tộc và vấn đề giải phóng
dân tộc phải phụ thuộc vào vấn đề giải phóng giai cấp. Trong Tuyên
ngôn Đảng cộng sản Mác- Ăngghen đã chỉ rõ “hãy xóa bỏ nạn người
bóc lột người thì nạn dân tộc này bóc lột dân tộc khác cũng sẽ bị xóa
bỏ”. Lê Nin cũng cho rằng cần phải ưu tiên đặt vấn đề giải phóng giai
cấp vô sản trước: “Các dân tộc phải sẵn sàng chịu đựng hy sinh vì sự
giải phóng giai cấp vô sản chống chủ nghĩa thực dân thế giới”.
Thứ hai, theo quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vấn đề
giải phóng dân tộc và giai cấp: Vận dụng sáng tạo quan niệm của
chủ nghĩa Mác- Lê Nin và điều kiện thuộc địa. Hồ Chí Minh nhấn mạnh
phải giải phóng dân tộc, giành độc lập cho dân tộc trước, coi việc giành
độc lập cho dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu, còn giải phóng giai cấp từng
bước thực hiện.
Trong giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ:
Xuất phát từ điều kiện xã hội Việt Nam là xã hội thuộc địa, nữa phong
kiến từ đó mà Hồ Chí Minh nhấn mạnh nhiệm vụ dân tộc, xác định mục
tiêu trực tiếp, cốt yếu của cách mạng Việt Nam là giành độc lập dân
tộc, nhưng không quên nhiệm vụ dân chủ, trong khi thực hiện nhiệm
vụ dân chủ, trước hết phải nhằm phục vụ nhiệm vụ dân tộc.
Đây là quan điểm nhất quán của Hồ Chí Minh.
Cương lĩnh chính trị đầu tiên Hồ Chí Minh chủ trương “Làm tư sản dân
quyền cách mạng và thổ địa cách mạng”.
Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (5-1941) xác định hơn bao giờ hết vấn
đề dân tộc giải phóng, đánh Pháp, đuổi Nhật, giành độc lập dân tộc lúc
này cao hơn hết thảy. “Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn
đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân
tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa
trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi
lại được”.
Trong 9 năm kháng chiến chống Pháp, Hồ Chí Minh xác định: “ về mục
đích trước mắt, Đảng Lao động Việt Nam đoàn kết và lãnh đạo toàn
dân kháng chiến cho đến thắng lợi hoàn toàn, tranh lại thống nhất và
độc lập hoàn toàn”.
Như vậy, theo quan niệm của Hồ Chí Minh, ở một nước thuộc địa nửa
phong kiến, mâu thuẫn dân tộc nổi lên hàng đầu cần phải giải quyết
trước tiên, độc lập dân tộc là mục tiêu trực tiếp, trước hết của cách
mạng.
Trong giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa:
Là tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, biến Việt Nam thành một
nước có lực lượng sản xuất hiện đại, văn hóa tiên tiến, nhân dân làm
chủ.
Tiểu kết: Như vậy, hai giai đoạn cách mạng nêu trên có mối quan hệ
chặt chẽ với nhau. Nhiệm vụ giai đoạn trước hoàn thành tạo tiền đề
cho việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ của giai đoạn sau và không
ngừng phát triển theo một quy luật dẫn tới mục đích.
c. Xây dựng CNXH là tạo những cơ sở giữ vững và phát triển
độc lập dân tộc:
- Theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc là mục tiêu, là tiền đề đi lên CNXH,
còn CNXH là phương hướng phát triển tất yếu của cách mạng dân tộc
dân chủ, là mục tiêu xa của cách mạng Việt Nam.
- Cách mạng xã hội chủ nghĩa là làm cho cách mạng DTDC được tiến
hành triệt để; đồng thời tạo ra những cơ sở đảm bảo cho nền độc lập
dân tộc được giữ vững và ngày càng củng cố, phát triển.
- Với các thiết chế kinh tế, chính trị và nền tảng tinh thần riêng, chủ
nghĩa xã hội có khả năng vận động phát triển liên tục, bảo vệ vững
chắc các thành quả cách mạng của nhân dân và nền độc lập của dân
tộc.
- Hồ Chí Minh đã thực hiện việc xây dựng CNXH trên tất cả các mặt:
kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội.
B.Ý NGHĨA LÝ LUẬN VÀ Ý NGHĨA THỰC TIỄN
1. Trong quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác- lê Nin và tư tưởng HCM:
- Đại hội VI của Đảng, đã mở ra thời kỳ đổi mới toàn diện của đất nước.
Đại hội đã rút ra những bài học lớn trong đó bài học đầu tiên là “Nắm
vững ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH. Đó là bài học xuyên suốt quá
trình cách mạng nước ta….”.
- Đại hội VII, VIII, IX, X tiếp tục hoàn thiện, phát triển đường lối đổi mới
do Đại hội VI của Đảng khởi xướng và một lần nữa khẳng định: “trong
quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác- lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh”.
- Thực hiện đổi mới, Đảng ta khẳng định: đổi mới không phải là từ bỏ
mục tiêu CNXH mà là làm cho CNXH được nhận thức đúng đắn hơn và
được xây dựng có hiệu quả hơn.
- Đổi mới không phải xa rời mà là nhận thức đúng, vận dụng sáng tạo
và phát triển chủ nghĩa Mác- Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy đó làm
nền tảng tư tưởng của Đảng và kim chỉ nam cho hành động cách
mạng.
- Đổi mới toàn diện, đồng bộ, có kế thừa, có bước đi, hình thức và cách
làm phù hợp.
- Đổi mới phải vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai
trò chủ động, sáng tạo của nhân dân, xuất phát từ thực tiễn nhạy bén
với cái mới.
2. Thực hiện độc lập dân tộc gắn liền với CNXH trong đổi mới là thực
hiện sự kết hợp giữa hai nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thực hiện độc lập dân tộc gắn liền với CNXH trong đổi mới như Đảng ta
khẳng định là thực hiện sự kết hợp giữa hai nhiệm vụ XD và bảo vệ Tổ
quốc.
Qua 20 năm đổi mới đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế- xã hội,
có sự thay đổi cơ bản và toàn diện. Kinh tế tăng trưởng khá nhanh, sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường
định hướng XHCN được đẩy mạnh. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ
rệt. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố
và tăng cường. Chính trị- xã hội ổn định. Quốc phòng và an ninh được
giữ vững. Vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng được nâng
cao…
Những thành tựu đó chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng
đắn, sáng tạo, phù hợp thực tiễn Việt Nam. Nhận thức về CNXH và con
đường đi lên CNXH ngày càng sáng tỏ hơn; hệ thống quan điểm lý luận
về công cuộc đổi mới, về xã hội XHCN và con đường đi lên CNXH ở Việt
Nam đã hình thành trên những nét cơ bản.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với CNXH tiếp tục soi
sáng là kim chỉ nam cho cách mạng Việt Nam
3.Những điều kiện bảo đảm cho độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội của cách mạng Việt Nam
Thứ nhất, trong suốt quá trình cách mạng, sự lãnh đạo của Đảng phải
được giữ vững, củng cố và tăng cường. Xuất phát từ quan điểm xây
dựng chủ nghĩa xã hội là một nhiệm vụ khó khăn hơn đánh đổ đế quốc,
phong kiến, Hồ Chí Minh khẳng định trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa
xã hội Đảng phải mạnh hơn bao giờ hết.
Thứ hai, khối đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh công - nông trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng phải được củng cố và mở rộng. Hồ
Chí Minh luôn đòi hỏi Đảng, Nhà nước và mỗi người dân cần nêu cao
trách nhiệm trong việc làm cho "rừng cây đại đoàn kết ấy đã nở hoa
kết trái và gốc rễ nó đang ăn sâu lan rộng khắp toàn dân, và nó có một
cái tương lai 'trường xuân bất lão'".
Thứ ba, sự ủng hộ giúp đỡ của các lực lượng cách mạng, hòa bình, dân
chủ và tiến bộ trên thế giới được giữ vững và phát triển. Để làm được
việc đó, ngay từ 1947, Hồ Chí Minh đã nêu cao chủ trương: "Làm bạn
với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai".
Ba nhân tố trên luôn được giữ vững và tăng cường, tác động qua lại,
liên quan chặt chẽ với nhau là điều kiện bảo đảm cho sự thắng lợi của
mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh
nhấn mạnh: "Đó là ba bài học lớn mà mỗi cán bộ và đảng viên cần ghi
sâu vào lòng và phát huy thêm mãi".
4. Sự thể hiện trên thực tế tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội
xuất hiện từ năm 1920, khi Người bắt gặp chủ nghĩa Mác-Lênin, và nó
được thể hiện rõ nét từ năm 1930. Sự thể hiện tư tưởng của Người về
độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội có thể phân thành 3 thời
kỳ chủ yếu.
Thời kỳ 1930 - 1945
Tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội của Hồ Chí Minh
thời kỳ này thể hiện rõ trong những Văn kiện do Hồ Chí Minh soạn thảo
được Hội nghị hợp nhất thông qua. Chánh cương vắn tắt của Đảng chỉ
rõ Đảng chủ trương "làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách
mạng để đi tới xã hội xã hội cộng sản". Hồ Chí Minh khẳng định sự
nghiệp giải phóng dân tộc ở Việt Nam được thực hiện bằng con đường
cách mạng vô sản: "Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có
con đường nào khác con đường cách mạng vô sản". Theo tư tưởng Hồ
Chí Minh điều đó có ý nghĩa là: Đối tượng của cuộc đấu tranh là thực
dân đế quốc và bọn tay sai chống lại độc lập dân tộc. Ở trong nước lực
lượng cách mạng bao gồm công nông là gốc và tất cả những ai có lòng
yêu nước, thương nòi. Về lực lượng cách mạng ngoài nước trong thời kỳ
này, Hồ Chí Minh nhấn mạnh sự ủng hộ của Quốc tế Cộng sản, Liên
bang cộng hòa xã hội chủ nghĩa xô viết, giai cấp công nhân và nhân
dân lao động chính quốc, các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc. Nhân tố
quyết định thắng lợi của cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc là sự
lãnh đạo của Đảng theo chủ nghĩa Mác-Lênin.
Thời kỳ 1945 - 1954
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội ở thời kỳ này được thể
hiện ở những chủ trương, đường lối chiến lược do Hồ Chí Minh khởi
xướng "vừa kháng chiến, vừa kiến quốc", "kháng chiến đi đôi với kiến
quốc", "kháng chiến hóa văn hóa, văn hóa hóa kháng chiến". Kháng
chiến tức là bảo vệ nền độc lập dân tộc, chống sự xâm lược lần thứ hai
của thực dân Pháp theo phương châm trường kỳ kháng chiến nhất định
thắng lợi. Kiến quốc theo Hồ Chí Minh là xây dựng, củng cố Nhà nước
dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á, xây dựng đời sống mới, xây
dựng những cơ sở đầu tiên của chủ nghĩa xã hội.
Thời kỳ 1954 - 1969
Ở thời kỳ này độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trong tư
tưởng Hồ Chí Minh thể hiện qua chủ trương: một Đảng Cộng sản lãnh
đạo thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược ở hai miền: xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở
miền Nam, tiến tới thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa
xã hội. Đây là một sáng tạo lý luận của Hồ Chí Minh. Ngày 2-9-1969,
Hồ Chí Minh qua đời. Theo chỉ dẫn của Người, nhân dân ta đã đánh cho
Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào. Với chiến dịch lịch sử mang tên Hồ Chí
Minh, mục tiêu của thời kỳ này được hoàn thành vào ngày 30-4-1975.
III.KẾT LUẬN
Thế kỷ XXI mở đầu thiên niên kỷ thứ ba của một thế giới đầy biến
động, cũng đồng thời mở ra một kỷ nguyên hội nhập, đua tranh gay
gắt của cộng đồng quốc tế. Dù thời cuộc biến đổi xoay vần ra sao, dù
phải đối mặt với xu thế toàn cầu hóa, với tất cả mặt tích cực và tiêu
cực, bất trắc; dù cho ai đó bị lóa mắt bởi những bộ áo cánh sặc sỡ của
chủ nghĩa tư bản thì hệ giá trị ấy - độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội,
trong ý thức và trong hành động vẫn là mục tiêu, lư tưởng, là quốc bảo
phù hợp xu thế thời đại. Mãi mãi giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội, bước vào thế kỷ XXI, dưới sự lãnh đạo của Đảng,
nhân dân ta tiếp tục giành thêm nhiều thắng lợi to lớn hơn nữa trong
sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng
chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, đưa đất nước ta
sánh vai cùng các nước trong khu vực và trên thế giới. Tư tưởng về độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là tổng hợp những quan điểm
chiến lược có ý nghĩa chỉ đạo lớn về chính trị và lý luận, về nhận thức
và hành động của toàn Đảng, toàn dân ta trong toàn bộ tiến trình cách
mạng Việt Nam. Đây là một đóng góp về lý luận vào kho tàng của chủ
nghĩa Mác-Lênin, vào lý luận cách mạng xã hội trong thời đại ngày nay
Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là hai
nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam. V.I. Lenin, người
thầy vĩ đại của cách mạng thế giới đã chỉ rõ: “Một cuộc cách
mạng chỉ có giá trị khi nào nó biết tự vệ”. Trải qua các giai
đoạn cách mạng, cùng với đường lối xây dựng và phát triển
kinh tế-xã hội, Đảng ta luôn đặt nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc là
- Xem thêm -