ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
PHẠM DUY TÙNG
TRUYỀN THUYẾT VỀ NÚI NON XỨ LẠNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC
Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM
MÃ SỐ: 60 22 01 21
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGÔ THỊ THANH QUÝ
Thái Nguyên, năm 2014
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
http://www.lrc-tnu.edu.vn/
LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, tôi xin đƣợc bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc tới
TS. Ngô Thị Thanh Quý - ngƣời thầy đã tận tình hƣớng dẫn tôi trong quá
trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Tôi xin cảm ơn Ban giám hiệu, Khoa Sau đại học, Khoa Ngữ Văn
trƣờng Đại học sƣ phạm - Đại học Thái Nguyên… các thầy, cô tham gia
giảng dạy, hƣớng dẫn nghiên cứu khoa học đã truyền thụ tri thức, tạo mọi
điều kiện thuận lợi cho lớp cao học Văn học Việt Nam - K20 trong quá trình
học tập.
Xin chân thành cảm ơn các tổ chức, cá nhân trên địa bàn tỉnh Lạng
Sơn, đặc biệt là Thƣ viện tỉnh; cảm ơn gia đình, bạn bè, những ngƣời đã nhiệt
tình giúp đỡ tôi trong việc điền dã khảo sát tƣ liệu. Đó là nguồn cổ vũ, động
viên lớn lao cho tôi trong quá trình lựa chọn và viết đề tài.
Cuối cùng tôi xin cảm ơn quý thầy, cô giáo đã đọc và chỉ rõ những
thành công cũng nhƣ hạn chế trong luận văn tốt nghiệp này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Thái Nguyên, tháng 4 năm 2014
Tác giả luận văn
Phạm Duy Tùng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
http://www.lrc-tnu.edu.vn/
i
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 4
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ............................................................... 10
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .............................................................. 11
5. Phƣơng pháp nghiên cứu ............................................................................. 12
6. Đóng góp của luận văn. ............................................................................... 12
7. Cấu trúc của luận văn .................................................................................. 13
Chƣơng 1: VÙNG ĐẤT, CON NGƢỜI XỨ LẠNG VỚI SỰ HÌNH THÀNH,
TỒN TẠI VÀ LƢU TRUYỀN CỦA TRUYỀN THUYẾT DÂN GIAN ....... 14
1.1. Vùng đất, con ngƣời xứ Lạng .................................................................. 14
1.1.1. Khái niệm xứ Lạng................................................................................ 14
1.1.2. Đặc điểm địa lý, điều kiện tự nhiên ...................................................... 17
1.1.3. Đặc điểm lịch sử, văn hóa các tộc ngƣời cƣ trú ở xứ Lạng .................. 20
1.2. Văn hóa, văn học dân gian xứ Lạng......................................................... 24
1.2.1. Khái quát về văn hóa dân gian xứ Lạng................................................ 24
1.2.2. Khái quát về văn học dân gian xứ Lạng................................................ 26
Chƣơng 2: ĐẶC ĐIỂM TRUYỀN THUYẾT VỀ NÚI NON XỨ LẠNG ..... 30
2.1. Cơ sở lý thuyết về thể loại truyền thuyết ................................................. 30
2.1.1. Khái niệm về truyền thuyết ................................................................... 30
2.1.2. Phân loại truyền thuyết.......................................................................... 32
2.2. Truyền thuyết về núi non xứ Lạng ........................................................... 34
2.2.1. Truyền thuyết núi non xứ Lạng gắn với các thần tự nhiên ................... 36
2.2.2. Truyền thuyết núi non xứ Lạng với đề tài chống giặc ngoại xâm ....... 41
2.2.3. Nhân vật trong truyền thuyết về núi non xứ Lạng ................................ 55
2.2.4. Một số motif trong truyền thuyết về núi non xứ Lạng .......................... 57
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
http://www.lrc-tnu.edu.vn/
2.2.5. Sự đồng dạng trong truyền thuyết về núi non xứ Lạng ........................ 61
2.2.6. Tính dị biệt trong các truyền thuyết về núi non xứ Lạng ..................... 66
Chƣơng 3: TRUYỀN THUYẾT VỀ NÚI NON TRONG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA
XÃ HỘI ĐƢƠNG ĐẠI TẠI LẠNG SƠN ........................................................ 74
3.1. Sự tồn tại và lƣu truyền của truyền thuyết về núi non tại Lạng Sơn............. 74
3.1.1. Các địa danh gắn với truyền thuyết về núi non tại Lạng Sơn .................... 74
3.1.2. Tín ngƣỡng và lễ hội có liên quan đến truyền thuyết về núi non tại Lạng Sơn 78
3.2. Một số đề xuất và kiến nghị ........................................................................ 90
PHẦN KẾT LUẬN ...................................................................................... 94
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................ 97
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
http://www.lrc-tnu.edu.vn/
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Lý do khoa học
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, gồm có 54 dân tộc cùng chung
sống, trong đó ngƣời Kinh (Việt) chiếm đa số (85,73%). Bên cạnh đó là các
tộc ngƣời khác nhƣ: Tày, Thái, Khơ me, Mƣờng, Nùng… Do vậy, nƣớc ta có
nhiều ngữ hệ và bản sắc văn hóa tộc ngƣời khác nhau. Trải qua chiều dài lịch
sử, các dân tộc Việt Nam đã cùng chung sống, kiên cƣờng đấu tranh dựng
nƣớc, giữ nƣớc, xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Trong quá trình đó, nƣớc ta đã
trở thành một cộng đồng văn hóa vừa đa dạng vừa thống nhất. Mỗi một dân
tộc lại có nghĩa vụ, trách nhiệm gìn giữ và phát huy bản sắc, phong tục tập
quán, vốn truyền thống văn hóa riêng của mình.
Theo địa lý tự nhiên, miền Bắc đƣợc chia thành 3 vùng lãnh thổ nhỏ: Tây
Bắc Bộ, Đông Bắc Bộ và Đồng Bằng sông Hồng. Khu vực Đông Bắc Bộ bao
gồm toàn bộ vùng rừng núi từ phía Đông sông Hồng ra đến sát biển, nay gồm
các tỉnh: Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Quảng
Ninh. Vùng văn hóa Đông Bắc Bắc Bộ bao gồm các tiểu vùng: Đông Bắc
(Quảng Ninh), Việt Bắc, xứ Lạng, rẻo cao biên giới Việt - Trung. Trong đó,
xứ Lạng là nơi chung sống của nhiều dân tộc, chiếm đa số là dân tộc Tày Nùng và một số dân tộc ít ngƣời khác. Nhiều nghiên cứu khoa học đã khẳng
định đây là mảnh đất tiềm ẩn nhiều giá trị văn hóa, văn học truyền thống.
Nghiên cứu văn học dân gian qua việc tiến hành khảo sát, tìm hiểu
truyền thuyết địa danh về núi non đƣợc lƣu truyền, tồn tại trong đời sống các
dân tộc xứ Lạng có tác dụng tăng cƣờng sự hiểu biết về các giá trị tinh thần
đặc sắc nơi đây, đồng thời phát huy sự tin cậy, đoàn kết, gắn bó giữa các dân
tộc, qua đó góp phần vào việc xây dựng đất nƣớc ngày càng văn minh, giàu
đẹp. Xứ Lạng không chỉ là một vùng đất có giá trị văn hóa độc đáo, đặc sắc
mà còn là cửa ngõ giao thƣơng quốc tế, có vai trò quan trọng trong việc phát
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
http://www.lrc-tnu.edu.vn/
2
triển kinh tế của đất nƣớc. Ngày nay, mặt trái của sự toàn cầu hóa cũng tác
động tới các giá trị truyền thống. Những giá trị văn hóa nơi đây đang dần bị
ảnh hƣởng bởi cuộc sống mƣu sinh. Trong quá trình hội nhập, các văn hóa
phẩm đồi trụy, phản động từ bên ngoài vào nƣớc ta gây tác động tiêu cực đến
thuần phong mỹ tục của dân tộc Việt Nam nói chung cũng nhƣ cộng đồng các
dân tộc xứ Lạng nói riêng. Vì vậy, khai thác và phát huy nguồn mạch văn hóa
dân tộc, văn học dân gian của xứ Lạng là một việc làm thiết thực, mang tính
thời sự góp phần gìn giữ và phát huy bản sắc dân tộc Việt Nam.
Truyền thuyết dân gian Việt Nam nói chung và truyền thuyết các dân tộc
thiểu số nói riêng là đối tƣợng nghiên cứu của nhiều nhà khoa học xã hội &
nhân văn, trong đó có khoa học văn học dân gian. Việc nghiên cứu truyền
thuyết xứ Lạng về mảng đề tài núi non là một hƣớng nghiên cứu có nhiều
triển vọng. Xứ Lạng có một vị thế rất quan trọng của vùng Đông Bắc Bắc Bộ,
nơi đã chứng kiến nhiều lần quân giặc phải thất điên bát đảo khi chúng xâm
lƣợc nƣớc ta. Địa thế tự nhiên của vùng với nhiều núi non (hƣớng dốc, hƣớng
địa hình rất đa dạng và phức tạp) đã góp phần hình thành thế chiến lược của
vùng Đông Bắc Việt Nam. Xứ Lạng còn là một trong những cái nôi của văn
hóa dân gian Tày - Nùng. Trải qua nhiều thế kỷ, trong quá trình lao động
sản xuất và đấu tranh xã hội, dân tộc Tày - Nùng nói chung và ngƣời Tày Nùng ở xứ Lạng nói riêng đã xây dựng cho mình một kho tàng văn học dân
gian truyền thống mang đậm bản sắc văn hóa tộc ngƣời, nhƣng cũng không
phá vỡ tính thống nhất chung của văn hóa Việt Nam. Nơi đây hội tụ đa dạng
các loại hình văn học dân gian, trong đó có thể loại truyền thuyết.
Việc chú trọng khai thác những di sản văn hóa, văn học dân gian của các
dân tộc thiểu số miền núi cùng với nhiệm vụ nghiên cứu, tìm hiểu những di
sản văn học quý báu của dân tộc Kinh (Việt) chính là việc làm góp phần thiết
thực vào công cuộc xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa ở một quốc gia đa
dân tộc với nền văn hóa thống nhất trong đa dạng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
http://www.lrc-tnu.edu.vn/
3
1.2. Lý do thực tiễn
Là con em đồng bào các dân tộc nơi đây, tôi tự hào đƣợc sinh ra và lớn
lên trên quê hƣơng xứ Lạng, nơi biên cƣơng địa đầu tổ quốc. Miền đất đã đi
vào văn hóa, văn học dân gian của dân tộc với những câu ca dao, dân ca lƣu
truyền từ xa xƣa.
Sinh sống và trƣởng thành tại khu vực miền núi phía Bắc nên ấn tƣợng thân
thuộc trong tôi là những dãy núi tuy không cao, nhƣng nhiều và kế tiếp nhau ẩn
hiện trong lớp sƣơng mù mờ ảo. Mỗi làng, mỗi bản nơi đây đều có những ngọn
núi mang tên riêng rất độc đáo nhƣ: núi Thành Lạng, núi Phja Vệ, Chóp Chài,
Công Mẫu (Mẫu Sơn), núi Yên Ngựa, núi Phƣợng Hoàng, Kỳ Lân, dãy Kai
Kinh… Mỗi ngọn núi, tên núi đều ẩn chứa trong đó là những truyện kể, truyền
thuyết dân gian đƣợc ngƣời dân các dân tộc nơi đây gìn giữ và lƣu truyền qua
nhiều thế hệ. Việc tìm hiểu, khảo sát, nghiên cứu, phân tích các truyền thuyết
dân gian, đặc biệt là các truyền thuyết gắn liền với núi non trong khu vực xứ
Lạng sẽ giúp chúng ta có thêm những khám phá mới về các giá trị tự nhiên và xã
hội đƣợc sáng tạo, gìn giữ và lƣu truyền trong cộng đồng dân tộc nơi đây.
Hiện nay, việc nghiên cứu, giảng dạy văn học dân gian địa phƣơng ngày
càng đƣợc chú trọng trong quá trình phát triển chƣơng trình ở các cấp học. Là
một sinh viên, học viên ngành sƣ phạm Ngữ văn, tƣơng lai là giáo viên, tôi
thiết nghĩ nghiên cứu về văn học dân gian nói chung và truyền thuyết núi non
xứ Lạng nói riêng là việc làm thiết thực.
Do đó, trên cơ sở tiếp tục kế thừa thành tựu của các nhà nghiên cứu,
chúng tôi chọn đề tài Truyền thuyết về núi non xứ Lạng với mong muốn đóng
góp phần nào ý kiến của mình vào công việc nghiên cứu văn học dân gian
các dân tộc ít ngƣời hiện nay ở thể loại truyền thuyết. Đồng thời là ngƣời dân
có thời gian sinh sống và gắn bó với bà con dân tộc nơi đây, tôi muốn góp
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
http://www.lrc-tnu.edu.vn/
4
phần tri ân của mình với quê hƣơng xứ Lạng. Khai thác nguồn tƣ liệu văn học
dân gian địa phƣơng, làm phong phú thêm bài giảng trong quá trình giảng dạy.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Lược sử nghiên cứu thể loại truyền thuyết
Truyền thuyết của Việt Nam đã đƣợc một số tác giả ngƣời phƣơng Bắc
ghi chép thành văn bản từ khá sớm - ngay từ thời kì Bắc thuộc trong các
cuốn: Giao Châu ngoại vực (thế kỉ IV) và Nam Việt chí (thế kỉ V). Đến thế
kỉ XIV – XV, một số tác giả ngƣời Việt cũng bắt đầu chú ý sƣu tầm, ghi chép
thể loại này nhƣ: Đỗ Thiện, Lý Tế Xuyên, Trần Thế Pháp… với các cuốn:
Ngoại sử kí, Việt điện u linh, Lĩnh Nam chích quái… Tuy lúc bấy giờ các tác
giả chƣa quan tâm về mặt thể loại nhƣng họ cũng đã thấy rằng so với những
truyện dân gian khác đây là những câu chuyện về lịch sử mang đậm yếu tố
hoang đƣờng, kì ảo. Sau này, truyền thuyết không những đƣợc công nhận là
một thể tài vững chắc, hoàn chỉnh của văn học dân gian mà còn đƣợc thống
nhất về mặt thuật ngữ. Các tác giả: Đỗ Bình Trị, Lê Chí Quế, Kiều Thu
Hoạch, Hoàng Tiến Tựu… đều nhất trí khẳng định sự tồn tại của truyền
thuyết - Truyền thuyết là một thể loại của văn học dân gian.
Đến nay, chúng ta đã thấy có nhiều công trình nghiên cứu truyền thuyết
với tư cách là một thể loại của văn học dân gian có giá trị nhƣ:
- Nhiều tác giả (1971), Truyền thống anh hùng dân tộc trong loại hình tự sự
dân gian Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
- Cao Huy Đỉnh (1974), Tìm hiểu tiến trình văn học dân gian, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội.
- Đỗ Bình Trị (1991), Văn học dân gian Việt Nam Tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
- Nguyễn Thị An (2000), Đặc trưng nghiên cứu thể loại truyền thuyết Luận án tiến sĩ.
- Bùi Mạnh Nhị (2000), Văn học dân gian những công trình nghiên cứu, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
http://www.lrc-tnu.edu.vn/
5
- Lê Chí Quế chủ biên (2001), Văn học dân gian Việt Nam, Nxb Đại học quốc
gia, Hà Nội.
- Vũ Anh Tuấn chủ biên (2012), Giáo trình văn học dân gian, Nxb Giáo Dục
Việt Nam, Hà Nội.
Các công trình này đã nghiên cứu đặc điểm, phân loại, thi pháp… để tìm
ra đƣợc những đặc trƣng cơ bản của truyền thuyết. Từ đó có cơ sở để phân
biệt truyền thuyết với các thể loại tự sự dân gian khác. Bên cạnh việc nghiên
cứu các truyền thuyết hàng đầu của kho tàng truyền thuyết ngƣời Việt nói
trên, chúng ta còn thấy xuất hiện xu hƣớng nghiên cứu truyền thuyết theo
vùng. Hiện nay, hƣớng nghiên cứu này ngày càng đƣợc mở rộng và đã thu
đƣợc nhiều kết quả thú vị. Các công trình nghiên cứu truyền thuyết gắn với
địa phƣơng có thể kể đến nhƣ:
- Bùi Văn Nguyên (1969), Hình tượng anh hùng trong truyện dân gian các
dân tộc thiểu số miền Bắc, Tạp chí Văn học, số 9, tr 64-74.
- Nhiều tác giả (1976), Truyện cổ Hà Sơn Bình, Ty văn hóa thông tin Hà Sơn Bình.
- Nguyễn Thế Dũng (2001), Truyền thuyết và lễ hội Hai Bà Trưng ở Hát Môn
- Phú Thọ - Hà Tây - Luận văn thạc sĩ, Đại học Sƣ phạm Hà Nội.
- Nguyễn Thị Ngọc Lan (2003), Truyền thuyết và lễ hội Lạc Long Quân - Âu
Cơ ở Bình Đà - Hà Tây - Luận văn thạc sĩ, Đại học Sƣ phạm Hà Nội.
- Lê Thị Thoan (2005), Tìm hiểu mô típ sinh nở thần kì của các thành
hoàng làng trong truyền thuyết và thần tích của người Việt ở Bắc Bộ,
Luận văn thạc sĩ, Đại học Sƣ phạm Hà Nội.
- Hà Thị Diệp Lê (2008), Truyền thuyết về Đức Thánh tổ Nguyễn Minh Không
và lễ hội làng nghề Tống Xá ở Yên Xá, Ý Yên, Nam Định, Luận văn thạc sĩ,
Đại học Sƣ phạm Hà Nội.
Những công trình trên đều đặt truyền thuyết trong môi trƣờng mà nó ra
đời, tồn tại, phát triển để nghiên cứu và thấy rằng: các truyền thuyết có mối
quan hệ sâu sắc với văn hóa, lễ hội, tín ngƣỡng của nhân dân địa phƣơng và
các đặc điểm địa lý, lịch sử, văn hóa của địa phƣơng cũng có tác động không
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
http://www.lrc-tnu.edu.vn/
6
nhỏ tới truyền thuyết. Nhƣ vậy, đây là một hƣớng nghiên cứu mang lại những
phát hiện giá trị.
2.2. Tình hình nghiên cứu truyền thuyết dân gian của các dân tộc miền núi
phía Bắc
Khi tìm hiểu giá trị nội dung tƣ tƣởng nhiều mặt của truyền thuyết các dân
tộc Việt Nam, chúng ta mới chỉ chú ý khai thác trên các văn bản cố định và đối
tƣợng khảo sát chủ yếu tập trung vào các tác phẩm tiêu biểu của ngƣời Kinh
(Việt). Gần đây trong các công trình nghiên cứu “trường hợp” về mối quan hệ
giữa truyền thuyết và lễ hội, các nhà nghiên cứu đã ít nhiều có ý thức đặt tác
phẩm vào các ngữ cảnh xã hội và môi trƣờng văn hóa của nó đồng thời mở rộng
biên độ khảo sát vào kho tàng truyền thuyết của các dân tộc ở miền núi.
Cùng với văn học dân gian của ngƣời Kinh (Việt), bộ phận văn học dân
gian của ngƣời Tày - Nùng (cƣ dân bản địa, chủ thể ở vùng Đông Bắc với
bản sắc riêng của một tộc ngƣời miền núi) và các dân tộc thiểu số khác, đã
góp phần làm nên bộ mặt phong phú đa dạng của văn học dân gian Việt
Nam… Văn học dân gian của các dân tộc ít ngƣời nơi đây đã đƣợc phản ánh
khá đa dạng, ở đầy đủ các thể loại (thần thoại, truyền thuyết, truyện cổ tích,
truyện cƣời, ca dao, tục ngữ…) và một số thể loại dân ca đặc sắc nhƣ: then,
pụt, sli, lƣợn, hát quan lang… việc nghiên cứu truyền thuyết dân gian các dân
tộc miền núi đến thời điểm này vẫn còn nhiều khoảng trống. Hiện nay, đề tài
về văn học dân gian các dân tộc miền núi cũng thu hút đƣợc sự quan tâm của
các nhà nghiên cứu, học viên, sinh viên:
* Nhóm nghiên cứu về đề tài văn học dân gian các dân tộc thiểu số Việt
Nam nói chung:
- Võ Quang Nhơn (1977), Thần thoại và truyền thuyết các dân tộc ít người,
một bộ phận của nền văn học dân gian Việt Nam thống nhất và đa dạng, Tạp
chí Văn học, số 6, trang 47 - 57, Hà Nội.
- Vũ Anh Tuấn (1984), Suy nghĩ về một số biểu tượng đặc thù trong truyện cổ
tích miền núi, Tạp chí Văn hóa dân gian, số 2, trang 63 - 66, Hà Nội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
http://www.lrc-tnu.edu.vn/
7
- Hà Thị Bích Hiền (2000), Tìm hiểu quan niệm về cái đẹp và nghệ thuật
trong văn hóa dân gian các dân tộc thiểu số Việt Nam, Luận Văn Thạc sĩ Đại
học Sƣ phạm Hà Nội.
- Đặng Nghiêm Vạn chủ biên (2002), Tổng tập văn học các dân tộc thiểu số
Việt Nam, Nxb Đà Nẵng.
- Nguyễn Việt Hùng (2011), Sự tích vọng phu và tín ngưỡng thờ đá, Nxb
Khoa học Xã Hội.
* Nhóm nghiên cứu về đề tài văn học dân gian các dân tộc thiểu số miền
núi phía Bắc:
- Nguyễn Hằng Phƣơng (1987), Hình tượng “người khổng lồ” trong loại hình
tự sự dân gian các dân tộc thiểu số miền Đông Bắc, Tây Bắc Việt Nam, Luận
văn tốt nghiệp sau đại học, trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội I, Hà Nội.
- Vũ Anh Tuấn (1991), Khảo sát cấu trúc và ý nghĩa một số típ truyện kể dân
gian Tày ở vùng Đông Bắc Việt Nam, Luận án PTS Khoa học Ngữ Văn,
trƣờng Đại học tổng hợp, Hà Nội.
- Mai Thu Thủy (2005), Khảo sát những đặc điểm truyền thuyết người Tày ở
Bắc Kạn, Luận Văn thạc sĩ Đại học Sƣ phạm Hà Nội.
- Hồ Thị Mai Hƣơng (2009), Khảo sát truyền thuyết về Lưu Nhân Chú ở vùng Đại
Từ Thái Nguyên, Luận văn thạc sĩ Ngữ Văn, Đại học Sƣ phạm Thái Nguyên.
- Nguyễn Thị Mai Quyên (2010), Truyện kể địa danh của người Thái ở Việt
Nam, Luận văn thạc sĩ Ngữ văn, Trƣờng Đại học Sƣ phạm Thái Nguyên.
- Phùng Thị Phƣơng Hạnh (2011), Khảo sát truyền thuyết các dân tộc lưu hành
ở Yên Bái, Luận văn thạc sĩ khoa học Ngữ Văn, Đại học Sƣ phạm Thái Nguyên.
- Nguyễn Thị Phƣơng Thủy (2013), Hệ thống truyền thuyết và lễ hội về võ
tướng Dương Tự Minh ở Thái Nguyên, Luận văn thạc sĩ Ngữ văn, Trƣờng Đại
học Sƣ phạm Thái Nguyên.
- Nguyễn Thị Minh Thu (2013), Truyện kể dân gian các dân tộc thiểu số miền
núi phía Bắc Việt Nam, Luận án Tiến Sĩ Khoa học Ngữ Văn, Học Viện Khoa
Học Xã Hội - Hà Nội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
http://www.lrc-tnu.edu.vn/
8
Điểm qua lịch sử nghiên cứu văn học dân gian các dân tộc thiếu số
miền núi phía Bắc ta có thể thấy, các công trình nghiên cứu đã đi từ khái quát
đến cụ thể về các đặc trƣng của văn học dân gian miền núi phía Bắc ở nhiều
thể loại khác nhau, nhƣng tập trung chủ yếu ở truyện kể dân gian. Các tác giả
nghiên cứu đi vào khảo sát truyền thuyết dân gian lƣu hành ở từng địa phƣơng
nhƣ: Bắc Cạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Yên Bái, Lạng Sơn… các truyền
thuyết này đƣợc tìm hiểu gắn với tín ngƣỡng và lễ hội của đồng bào các dân
tộc nơi đây. Trong các công trình nghiên cứu này, nổi bật hơn cả là mảng
truyền thuyết về các anh hùng dân tộc (anh hùng chống giặc ngoại xâm, anh
hùng văn hóa) nhƣ Thục Phán, Nùng Chí Cao, Lƣu Nhân Chú, Dƣơng Tự
Minh, Bế Khắc Triệu, Nàng Han… Bên cạnh đó, mảng truyền thuyết về địa
danh hiện nay tuy đã thu hút đƣợc sự quan tâm nghiên cứu nhƣng vẫn còn
nhiều khoảng trống. Do đó, việc tìm hiểu về truyền thuyết về núi non ở xứ
Lạng là một hƣớng nghiên cứu khả thi, bổ sung những khám phá mới về thể
loại truyền thuyết địa danh, góp phần làm phong phú thêm kho tàng văn học
dân gian các dân tộc miền núi phía Bắc nói riêng và văn học dân gian Việt
Nam nói chung.
2.3. Tình hình nghiên cứu về truyền thuyết ở xứ Lạng.
Văn hóa, văn học dân gian các dân tộc xứ Lạng là mảnh đất ẩn tàng
những giá trị đặc sắc đòi hỏi sự quan tâm và dụng công tìm hiểu. Trong phần
dẫn luận: Truyền thuyết các dân tộc thiểu số - phác thảo một diện mạo, nhà
nghiên cứu Trần Thị An đã có những đánh giá xoay quanh truyền thuyết của
các dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc: Truyền thuyết của các dân tộc thiểu
số đã thể hiện tín ngưỡng thờ thần tự nhiên của các dân tộc: thần nước, thần
núi, thần nai, thờ vực nước sâu, thờ thần cây, thần đá…Truyền thuyết các dân
tộc thiểu số biểu thị sự liên quan chặt chẽ giữa thần với đời sống con người.
Mối quan hệ thần - người trong truyền thuyết các dân tộc thiểu số được
thể hiện ở hai loại thái độ: thần phục và chống đối… Về mặt nghệ thuật, truyền
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
http://www.lrc-tnu.edu.vn/
9
thuyết các dân tộc thiểu số có kết cấu lỏng lẻo, các chi tiết nhiều khi được lắp
ghép một cách khá ngẫu nhiên, tính thống nhất của cốt truyện chưa thật rõ
ràng… Bên cạnh đó, một đặc điểm nổi trội của truyền thuyết các dân tộc thiểu
số là có sự đan xen nhiều thể loại. Có thể thấy rõ các dấu ấn của thần thoại,
truyện cổ tích và sử thi trong các truyền thuyết ở đây [1, tr. 812 - 823].
Truyền thuyết dân gian xứ Lạng đƣợc đề cập đến trong một số cuốn sách
viết về văn học dân gian miền núi phía Bắc, các truyện kể , luận văn, luận án…
và ngày càng đƣợc quan tâm khai thác, tìm hiểu. Có thể kể đến nhƣ:
- Nguyễn Duy Bắc (1997), Truyện cổ xứ Lạng, Tập 1, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
- Ủy ban nhân dân tỉnh Lạng Sơn (1999), Địa chí Lạng Sơn, Nxb Chính trị
quốc gia.
- Hoàng Thị Khánh Xuân (2007), Truyền thuyết Bàn Hồ và tục thờ cúng Bàn
Hồ của người Dao Lô Gang ở huyện Lộc Bình - tỉnh Lạng Sơn, Luận văn thạc
sĩ khoa học Ngữ văn, Trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội.
- Phạm Thị Huyền (2008), Truyền thuyết và lễ hội ven sông Kỳ Cùng - Lạng
Sơn, Khóa luận tốt nghiệp Ngữ Văn, Trƣờng Đại học Sƣ phạm Thái Nguyên.
- Nguyễn Thị Tân Hƣơng (2012), Khảo sát truyện kể dân gian Tày Nùng xứ
Lạng, luận văn thạc sĩ, trƣờng Đại học sƣ phạm – Đại học Thái Nguyên.
Xứ Lạng là một phần lãnh thổ gắn bó từ lâu đời của Việt Nam, nơi chung
sống của nhiều dân tộc anh em, có những nét đặc trƣng riêng. Với đặc điểm địa
thế tƣơng đối thấp, địa hình chủ yếu những núi thấp và đồi, ít núi trung bình và
không có núi cao. Xứ Lạng, mảnh đất nơi biên cƣơng, với trọng trách là phên
dậu của đất nƣớc, từng tên đất, tên núi, tên sông… đều gắn với những truyền
thuyết, truyện kể mang nét đặc trƣng riêng.
Qua việc nghiên cứu, tìm hiểu truyền thuyết dân gian về núi non xứ Lạng,
chúng tôi muốn giới thiệu thêm một nét đẹp trong kho tàng văn hóa, văn học
dân gian các dân tộc miền núi nơi đây, phần nào nói lên đƣợc đời sống tâm tƣ,
tình cảm mà đồng bào bản địa gửi gắm trong kho tàng văn học dân gian của mình.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
http://www.lrc-tnu.edu.vn/
10
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài là các truyện kể, truyền thuyết về đề tài
núi non đƣợc sƣu tầm, biên soạn, đã đƣợc xuất bản và các truyền thuyết đang
đƣợc lƣu truyền trong dân gian mà chƣa đƣợc ghi chép, khảo sát, nghiên cứu.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Theo nhiều nhà nghiên cứu, tình hình sƣu tầm truyện kể dân gian (trong
đó có truyền thuyết) các dân tộc thiểu số nói chung và ở miền núi phía Bắc
nói riêng có thể chia làm hai giai đoạn chính là giai đoạn trƣớc và sau Cách
mạng tháng Tám. Trên thực tế, những thành tựu sƣu tầm biên soạn về truyện
kể chủ yếu để lại dấu ấn ở giai đoạn sau Cách mạng tháng Tám. Vì thế, trong
phạm vi của đề tài, chúng tôi sẽ điểm lại lịch sử sƣu tầm, biên soạn truyện kể
các dân tộc miền núi phía Bắc một cách khái quát qua những công trình có giá
trị đƣợc công bố từ sau Cách mạng tháng Tám. Đó cũng là nguồn tƣ liệu
chính để chúng tôi tiến hành khảo sát, thống kê, phân tích và triển khai đề tài.
*Tài liệu chúng tôi chọn để khảo sát chính gồm có:
- Hà Văn Thƣ, Hoàng Nam, Vi Hồng Nhân, Vƣơng Toàn (1994), Ai lên xứ
Lạng, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
- Nguyễn Trƣờng Thanh (1987), Kỳ tích Chi Lăng, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
- Mã Thế Vinh (1996), Việt Nam Các Vùng Văn Hóa - Lạng Sơn Vùng Đất
Của Chi Lăng - Đồng Đăng - Kỳ Lừa, Nxb Trẻ.
- Nguyễn Duy Bắc, Hoàng An, Hoàng Tuấn Cƣ, Hoàng Nam, Vi Hồng Nhân
(1997), Truyện cổ xứ Lạng của dân tộc Tày và Nùng, Nxb Văn hóa dân tộc,
Hà Nội.
- Ủy ban nhân dân tỉnh Lạng Sơn (1999), Địa chí Lạng Sơn, Nxb Chính trị
quốc gia.
- Hoàng Páo, Hà Văn Thanh, Bế Kim Loan, Vũ Kiều Oanh (2002), Lễ hội dân
gian Lạng Sơn, Sở Văn hóa thông tin tỉnh Lạng Sơn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
http://www.lrc-tnu.edu.vn/
11
Ngoài ra chúng tôi còn mở rộng biên độ khảo sát các truyền thuyết về đề
tài núi non ở một số địa phƣơng và một số dân tộc khác trong khu vực miền
núi phía Bắc để làm sáng tỏ những vấn đề có liên quan.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Đích đặt ra mà đề tài cần đạt đƣợc là khảo sát, tìm hiểu đặc điểm truyền
thuyết xứ Lạng về mảng đề tài núi non đang đƣợc lƣu truyền trong cộng đồng
các dân tộc nơi đây trên bình diện thể loại, qua góc nhìn bản sắc văn hóa tộc
ngƣời. Nghiên cứu, phân tích, tìm ra sự tác động của vị trí địa lí, lịch sử, môi
trƣờng tự nhiên, văn hóa xã hội góp phần hình thành nên những sáng tạo tinh
thần đó.
Qua đó thấy đƣợc cái hay, cái đẹp của truyền thuyết địa danh về đề tài
núi non ở xứ Lạng nói riêng và truyền thuyết xứ Lạng nói chung. Góp phần
vào việc sƣu tầm, bảo tồn và giới thiệu những giá trị văn hóa tinh thần của
cộng đồng các dân tộc nơi đây, tôn vinh những giá trị truyền thống đậm đà
bản sắc dân tộc.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Tìm hiểu, nghiên cứu về vùng đất, văn hóa và con ngƣời xứ Lạng, nơi hình
thành và lƣu truyền những truyện kể, trong đó có truyền thuyết dân gian mang
nét đặc trƣng, độc đáo riêng. Qua đó tìm hiểu nguyên do vì sao nơi đây lại lƣu
giữ và tồn tại một số lƣợng đáng kể các truyền thuyết về địa danh, đặc biệt là các
truyền thuyết về núi non lại phong phú, đặc sắc và hấp dẫn đến nhƣ vậy.
Khái quát về văn học dân gian các dân tộc khu vực miền núi phía Bắc,
trong đó có thể loại truyền thuyết. Sƣu tầm, khảo sát các truyền thuyết địa danh
về núi non đang đƣợc ngƣời dân xứ Lạng truyền miệng hay đã xuất bản. Nghiên
cứu, phân tích, làm rõ những đặc trƣng của tiểu loại truyền thuyết này về mặt nội
dung, nhân vật, motif, sự tƣơng đồng và dị biệt… Qua đó tìm hiểu mối quan hệ
giữa truyền thuyết và tín ngƣỡng, lễ hội nơi đây, làm sáng tỏ và góp phần gìn giữ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
http://www.lrc-tnu.edu.vn/
12
những giá trị văn hóa đặc sắc của các dân tộc thiểu số nói riêng và dân tộc Việt
Nam nói chung, phát huy các giá trị tốt đẹp trong cuộc sống hiện nay.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để đạt đƣợc mục đích nghiên cứu, chúng tôi sử dụng các phƣơng pháp
có tính phổ biến trong nghiên cứu khoa học nhƣ:
* Phương pháp sưu tầm: Văn học dân gian ra đời sớm và đƣợc lƣu lại
trong trí nhớ của nhân dân bằng con đƣờng truyền miệng. Vì vậy để có thêm
tƣ liệu trong quá trình nghiên cứu chúng tôi sử dụng phƣơng pháp sƣu tầm.
* Phương pháp thống kê: Phƣơng pháp này giúp đƣa ra đƣợc những số
liệu cụ thể, chính xác về vấn đề cần khảo sát. Từ đó dẫn đến những kết luận
khách quan. (Thống kê dân số, tộc ngƣời, địa danh, số lƣợng truyền thuyết...).
* Phương pháp tổng hợp, hệ thống tư liệu: Phƣơng pháp hệ thống là
cách đặt các truyền thuyết về núi non xứ Lạng trong cùng một hệ thống các
truyền thuyết địa danh ở xứ Lạng cũng nhƣ các địa phƣơng khác, các dân tộc
khác để thấy đƣợc nét chung cũng nhƣ nét riêng của nó.
* Phương pháp phân tích văn bản văn học dân gian: Để tìm ra đƣợc
những đặc điểm về nội dung và nghệ thuật của các truyền thuyết, chúng tôi
lấy văn bản của các truyền thuyết làm cơ sở. Từ đó tiến hành hệ thống, phân
tích cụ thể hóa để làm nổi bật trọng tâm của các vấn đề cần nghiên cứu.
* Phương pháp nghiên cứu liên ngành: Để tìm hiểu đặc điểm và mối
quan hệ giữa truyền thuyết của các dân tộc và lý giải các hiện tƣợng, chúng tôi
sử dụng phƣơng pháp nghiên cứu này để kết hợp nhiều góc nhìn văn hóa, văn
học, địa lý, lịch sử, dân tộc học… trong đó góc nhìn văn học là trọng tâm.
6. Đóng góp của luận văn.
- Phác họa diện mạo chung của truyền thuyết dân gian các tộc ngƣời xứ Lạng,
đi sâu vào mảng truyền thuyết địa danh về đề tài núi non. Thống kê và phân
loại truyền thuyết về núi non đƣợc lƣu truyền nơi đây, bởi các truyền thuyết
này vốn đƣợc giới thiệu là các truyện cổ, đƣợc in lẻ tẻ trên các tạp chí và cuốn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
http://www.lrc-tnu.edu.vn/
13
sách đƣợc in ở địa phƣơng và trung ƣơng. Sƣu tầm, biên soạn, giới thiệu những
truyền thuyết về núi non xứ Lạng đang tồn tại nhƣng ít ngƣời biết đến.
- Làm rõ những đặc trƣng của thuyền thuyết dân gian các dân tộc xứ Lạng và
qua đó hiểu thêm đời sống văn hóa, tinh thần của con ngƣời cƣ trú trên địa
bàn này.
- Hiểu đƣợc mỗi quan hệ hữu cơ giữa văn học và những yếu tố ngoài văn
học. Những nhân tố đã chi phối sự tƣơng đồng và khác biệt của thể loại
truyền thuyết với các thể loại khác: lịch sử tộc ngƣời và vùng đất, văn
hóa truyền thống mỗi dân tộc, địa bàn cƣ trú.
- Góp phần bảo tồn, gìn giữ và phát huy những giá trị tinh thần của văn học
dân gian các dân tộc xứ Lạng nói riêng và văn học dân gian cả nƣớc nói
chung. Từ đó khẳng định sự bền vững của bản sắc văn hóa dân tộc các địa
phƣơng và của đất nƣớc Việt Nam.
7. Cấu trúc của luận văn
Luận văn ngoài phần Mở đầu và Kết luận. Phần Nội dung gồm ba chƣơng:
Phần Nội dung
Chƣơng 1: Vùng đất, con ngƣời xứ Lạng với sự hình thành, tồn tại và
lƣu truyền của truyền thuyết dân gian
Chƣơng 2: Đặc điểm truyền thuyết về núi non xứ Lạng
Chƣơng 3: Truyền thuyết về núi non xứ lạng trong đời sống văn hóa xã hội
đƣơng đại tại Lạng Sơn
Phụ lục: Phần này của luận văn bao gồm hệ thống các truyền thuyết đã
đƣợc sƣu tầm và sƣu tầm thêm.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
http://www.lrc-tnu.edu.vn/
14
Chƣơng 1
VÙNG ĐẤT, CON NGƢỜI XỨ LẠNG VỚI SỰ HÌNH THÀNH, TỒN
TẠI VÀ LƢU TRUYỀN CỦA TRUYỀN THUYẾT DÂN GIAN
Trong phạm vi cho phép của đề tài, chúng tôi không có tham vọng đi sâu
vào tất cả các vấn đề thuộc điều kiện tự nhiên, kinh tế, chính trị cũng nhƣ xã
hội của xứ Lạng mà chỉ đi vào tìm hiểu những yếu tố có tác động đến sự hình
thành và lƣu truyền truyền thuyết dân gian nơi đây, đặc biệt là mảng truyền
thuyết về núi non. Vì vậy, trong quá trình nghiên cứu, khảo sát, tìm hiểu
chúng tôi tập trung vào hai phƣơng diện cụ thể: Vùng đất, con ngƣời và văn
hoá văn học dân gian xứ Lạng. Đặc biệt chúng tôi còn đi sâu vào tìm hiểu các
khía cạnh về điều kiện tự nhiên, lịch sử tộc ngƣời và văn hoá văn học dân
gian của cộng đồng các dân tộc cƣ trú trên địa bàn - đây chính là những yếu tố
có tác động sâu sắc đến đối tƣợng nghiên cứu.
1.1. Vùng đất, con ngƣời xứ Lạng
Quá trình nảy sinh, tồn tại và phát triển của văn học dân gian nói chung
và truyền thuyết dân gian nói riêng bao giờ cũng gắn liền với điều kiện lịch
sử, văn hoá, xã hội và tâm lý của con ngƣời. Do đó, trƣớc khi khảo sát các
truyền thuyết xứ Lạng - trong đó có truyền thuyết về núi non - cần phải có
những tìm hiểu về vùng đất, con ngƣời nơi đây.
1.1.1. Khái niệm xứ Lạng
Xứ Lạng là một phần lãnh thổ gắn bó từ lâu đời của Việt Nam, là nơi
chung sống của nhiều dân tộc anh em, miền đất thân thƣơng còn vang vọng
trong ca dao, dân ca lƣu truyền từ muôn đời nay. Đó nhƣ lời mời tha thiết đối
với du khách muôn phƣơng, là cách giới thiệu về xứ Lạng rất thơ, mang đậm
sắc thái dân gian. Thật gần gũi nhƣng vẫn có dáng nét, cá tính riêng. Nhƣng
tại sao lại gọi là xứ Lạng và xứ Lạng có từ bao giờ? Có một số tài liệu giải
thích nhƣ sau:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
http://www.lrc-tnu.edu.vn/
15
Theo sách Cơ sở văn hoá Việt Nam: tên “xứ” là một khái từ được sử
dụng khá linh hoạt trong dân gian. Có khi nó được dùng để chỉ một không
gian hẹp như xứ đồng, hay một xóm nào đó. Có khi từ này lại được dùng chỉ
một không gian rộng hơn: xứ Đông, xứ Đoài, xứ Nam, xứ Bắc, tức là bốn xứ
xung quanh kinh thành Thăng Long thời nhà Trần, nhà Lê; hoặc dùng chỉ
các xứ như xứ Lạng, xứ Nghệ... Các từ này, khi thì tương đương với một trấn
như cách phân chia địa giới phong kiến, nhưng có khi lại không, mà tương
đương với một tỉnh… [57, tr. 113-114]. Dù thế nào, “xứ” vẫn là từ dùng để
biểu đạt sự khác biệt giữa các vùng đất, chứng tỏ sự phân biệt trong tâm thức
dân gian. Điều đáng quan tâm là khi phân biệt các xứ, ngƣời dân từ trong lịch
sử đã có ý thức phân biệt sự khác nhau về văn hoá.
Tác giả Ngô Đức Thịnh, trong cuốn Bản sắc văn hóa vùng ở Việt
Nam cho rằng: Trước tiên, có thể nhận biết sắc thái riêng của xứ Lạng từ góc
độ tự nhiên, con người và lịch sử. Thời Trần, Lê chính quyền phong kiến
trung ương đã từng chia nước ta thành các đơn vị “trấn” và “xứ”, có lẽ bởi
thế mà từ đó trong dân gian mới có các tên xứ Lạng, xứ Huế, xứ Quảng, xứ
Thanh… Cũng trong dân gian, cái tên “xứ” hay “mường” có thể hiểu theo
nhiều phạm vi rộng hẹp khác nhau. Có thể đó là một địa danh như Khâu Lừa
hay hẹp hơn nữa là thành Khâu Ôn, trung tâm xưa của xứ Lạng. Tuy nhiên,
cũng có thể hiểu rộng ra theo cách hiểu ngày nay - xứ Lạng là Lạng Sơn, hay
rộng hơn nữa theo cách phân chia đơn vị hành chính xưa, bao gồm một phần
đất Bắc Giang (Lạng Giang) và phần lớn Cao Bằng. Theo quan niệm của cha
ông xưa, tiếp giáp với kinh đô Thăng Long là “tứ trấn nội kinh” (gồm Kinh
Bắc, Sơn Nam, Hải Đông, Sơn Tây), xa hơn nữa về phía Bắc là xứ Lạng, về
phía Nam là xứ Thanh, xứ Nghệ… [49, tr 113-114].
Theo các tác giả trong cuốn “Lạng Sơn nơi địa đầu tổ quốc” khi nghiên
cứu về văn hóa xứ Lạng cho rằng:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
http://www.lrc-tnu.edu.vn/
16
Xứ Lạng được coi là một tiểu vùng văn hóa riêng biệt nằm trong vùng
văn hóa Việt Bắc - Đông Bắc. Ngay từ “xứ Lạng” (trước chỉ tỉnh Lạng Sơn)
cũng đã hàm nghĩa đây là một vùng văn hóa dân gian (FOLKLORE) và “xứ”
là một từ chỉ một vùng có thể rộng mà có thể hẹp, rất hẹp và thường do dân
gian gọi mà thành và “xứ” cũng thường ứng với một đơn vị hành chính nhất
định mà thường gọi là một tỉnh. Từ “xứ” ngày nay chỉ để gọi trong dân gian
trong văn hóa văn nghệ, nó không được coi là một đơn vị hành chính quốc
gia. Từ “xứ” gọi là một “vùng xứ” để gây một ấn tượng cảnh quan nào đó
của một vùng có cái gì đó nổi bật và riêng biệt. Ngày nay vẫn có các vùng
quê hương được gọi là “xứ”, trong đó có xứ Lạng, nhưng không nhiều chẳng
hạn như: xứ Huế, xứ Nghệ, xứ Lạng, xứ Thanh, xứ Quảng” [5, tr. 33-34].
Còn trong cuốn “Ai lên xứ Lạng” của nhóm tác giả Hà Văn Thƣ, Hoàng
Nam, Vi Hồng Nhân, Vƣơng Toàn thì cho rằng:
Đã có rất nhiều nhà nghiên cứu, nhà văn hoá, nhà thơ đặt câu hỏi vì sao
gọi là “xứ Lạng”? “Xứ Lạng” có nghĩa là gì? Cái tên gọi xưa nay nó quen
thuộc, nó gần gũi thân thương đến mức như tên gọi của chính ta, như cơm ăn
nước uống và không khí thở hàng ngày. Nhưng hồ dễ mấy ai đã giải thích
được một cách thấu đáo dù là người sống rất lâu ở xứ Lạng chăng nữa! Để
lý giải được hai từ đó và một số vấn đề khác nữa, năm 1985, Sở văn hoá
thông tin tỉnh Lạng Sơn đã tổ chức một cuộc hội thảo khoa học về xứ Lạng Lạng Sơn. Nhiều nhà nghiên cứu đã thử lý giải nó nhằm làm sáng tỏ
nhiều vấn đề còn chưa xác định, đất nước ta có bao nhiêu vùng gọi là xứ ? xứ
Quảng, xứ Huế, xứ Nghệ, xứ Thanh và xứ Lạng... Tổng hợp các nghiên cứu
thì xứ Lạng theo các nhà nghiên cứu đã đưa ra giả thiết từ “Lạng” là một từ
Hán - Việt cổ kết hợp với từ “Lũng” trong ngôn ngữ Tày, Nùng dưới dạng
ngữ âm Hán - Việt cổ, theo ngữ nghĩa cổ để chỉ địa danh các điểm cư trú Tày,
Nùng. Xứ Lạng là xứ sở gồm có nhiều lũng. Và như vậy, Lạng có nghĩa là
“Núi Cao Đẹp” như hình dáng núi Lạng đã được miêu tả. Xứ Lạng là xứ sở
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
http://www.lrc-tnu.edu.vn/
- Xem thêm -