Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tổ chức hoạt động phân tích hình tượng nhân vật trong dạy học đọc hiểu văn bản “...

Tài liệu Tổ chức hoạt động phân tích hình tượng nhân vật trong dạy học đọc hiểu văn bản “ chữ người tử tù của nguyễn tuân ở trường thpt (2017)

.PDF
73
209
137

Mô tả:

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA NGỮ VĂN TRẦN THỊ ÁNH PHƢƠNG TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG PHÂN TÍCH HÌNH TƢỢNG NHÂN VẬT TRONG DẠY HỌC ĐỌC HIỂU VĂN BẢN “CHỮ NGƢỜI TỬ TÙ” CỦA NGUYỄN TUÂN Ở TRƢỜNG THPT KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Phƣơng pháp dạy học Ngữ Văn HÀ NỘI - 2017 TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA NGỮ VĂN TRẦN THỊ ÁNH PHƢƠNG TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG PHÂN TÍCH HÌNH TƢỢNG NHÂN VẬT TRONG DẠY HỌC ĐỌC HIỂU VĂN BẢN “CHỮ NGƢỜI TỬ TÙ” CỦA NGUYỄN TUÂN Ở TRƢỜNG THPT KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Phƣơng pháp dạy học Ngữ Văn Ngƣời hƣớng dẫn khoa học ThS. Trần Hạnh Phƣơng HÀ NỘI - 2017 LỜI CẢM ƠN Để thực hiện được khóa luận này, tác giả khóa luận đã nhận được sự giúp đỡ thường xuyên, tận tình chu đáo của các thầy cô giáo trong khoa Ngữ Văn- Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2, đặc biệt là các thầy cô giáo trong tổ bộ môn Phương pháp dạy học và Th.S Trần Hạnh Phương-người hướng dẫn trực tiếp. Tác giả xin được bày tỏ lòng biết ơn và gửi lời cảm ơn trân trọng nhất tới các thầy cô …! Hà Nội, ngày 04 tháng 05 năm 2017 Tác giả khóa luận Trần Thị Ánh Phương LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan khóa luận tốt nghiệp “Tổ chức hoạt động phân tích hình tượng nhân vật trong dạy học đọc hiểu văn bản Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân ở trường THPT” là kết quả nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nghiên cứu trong khóa luận là trung thực và chưa từng được nghiên cứu trong bất kì một công trình nghiên cứu nào. Hà Nội, ngày 04 tháng 05 năm 2017 Tác giả khóa luận Trần Thị Ánh Phương KÍ HIỆU VIẾT TẮT GV: giáo viên HS: học sinh PPDH: phương pháp dạy học TP: tác phẩm TPVH: tác phẩm văn học TPVC: tác phẩm văn chương TTC: tính tích cực THPT: trung học phổ thông SGK: sách giáo khoa VBVH: văn bản văn học MỤC LỤC MỞ ĐẦU..............................................................................................................................1 1. Lý do chọn đề tài .............................................................................................................1 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề .............................................................................................3 3. Mục đích nghiên cứu ......................................................................................................6 4. Nhiệm vụ của nghiên cứu...............................................................................................7 5. Đối tượng nghiên cứu .....................................................................................................7 6. Phạm vi nghiên cứu.........................................................................................................7 7. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................................7 8. Bố cục của khóa luận ......................................................................................................7 NỘI DUNG..........................................................................................................................8 CHƢƠNG1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG ...............................................8 1.1. Cơ sở lý luận .................................................................................................................8 1.1.1. Vấn đề về tiếp nhận văn học ...................................................................................8 1.1.1.1. Khái niệm tiếp nhận văn học................................................................................8 1.1.1.2. Đặc trưng của tiếp nhận văn học ........................................................................9 1.1.1.3. Định hướng của tiếp nhận văn học ...................................................................10 1.1.1.4. Bạn đọc với vấn đề tiếp nhận văn học ..............................................................15 1.1.2. Vấn đề đọc - hiểu, dạy học đọc hiểu văn bản văn học .......................................15 1.1.2.1. Khái niệm đọc - hiểu ...........................................................................................15 1.1.2.2. Khái niệm dạy học đọc-hiểu văn bản văn học.................................................17 1.1.2.3. Chức năng, vai trò của đọc - hiểu .....................................................................17 1.1.2.4. Mô hình dạy học đọc-hiểu văn bản văn học ....................................................18 1.1.2.5. Mối quan hệ đọc hiểu văn bản văn học- phương pháp dạy học tích cực ............20 1.1.3. Phương pháp dạy học tích cực ..............................................................................21 1.1.3.1. Khái niệm tích cực, phương pháp dạy học tích cực ........................................21 1.1.3.2. Đặc trưng của phương pháp dạy học tích cực.................................................23 1.1.3.3. Các nguyên tắc dạy học tích cực .......................................................................26 1.1.3.4. Các phương pháp dạy học tích cực ...................................................................27 CHƢƠNG 2. VẬN DỤNG PHƢƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH CỰCVÀO TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG PHÂN TÍCH HÌNH TƢỢNG NHÂN VẬT TRONG “CHỮ NGƢỜI TỬ TÙ” (NGUYỄN TUÂN).............................................................31 2.1. Phương pháp thảo luận nhóm. ..................................................................................31 2.2. Phương pháp phát vấn ...............................................................................................35 2.3. Phương pháp nêu và giải quyết vấn đề....................................................................37 CHƢƠNG 3 : GIÁO ÁN THỰC NGHIỆM ..............................................................41 KẾT LUẬN .......................................................................................................................56 TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤC LỤC MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1.Văn chương hình thành, tồn tại và phát triển như một dòng chảy, trong dòng chảy nó là sự kết tinh kế thừa giữa truyền thống lịch sử và hiện đại. Văn chương nghệ thuật không bao giờ ngưng đọng. Có khi nó phải trải qua những thác ghềnh, những con sóng lớn dữ dội nhưng có khi nó lại trôi đi một cách phẳng lặng và bình yên. Trong nhà trường THPT môn Ngữ văn là một môn học quan trọng, không chỉ có học để tiếp thu kiến thức mà nó còn là một môn học phục vụ cho các em thi tốt nghiệp và các trường cao đẳng đại học. Văn học luôn hướng cho chúng ta tìm đến cái Chân- Thiện – Mĩ để tâm hồn mỗi chúng ta thấy yêu cuộc sống,yêu nhân loại. Không những thế văn học còn cho chúng ta thấy rõ từng bước đi, từng nhịp đập, từng hơi thở của lịch sử xuyên suốt qua từng chặng đường, từng thời kì, từng giai đoạn với những nấc thăng trầm khác nhau. Công việc dạy học văn là một công việc quan trọng. Giáo viên cần dạy và tập cho học sinh tiếp nhận văn chương một cách sáng tạo, bồi dưỡng năng lực tư duy văn học, tư duy thẩm mĩ để mỗi em tiếp nhận chủ động những giá trị văn minh văn hóa tinh thần của dân tộc và nhân loại. 1.2.Tuy nhiên việc dạy học văn trong nhà trường đang gặp rất nhiều khó khăn.Hơn nữa trong thời điểm hiện nay nhiều giáo viên chưa biết cách dạy đọc-hiểu văn bản văn học theo năng lực của học sinh. Nhiều ý kiến phê bình về công việc dạy học văn trong nhà trường làm cho học sinh ngày càng chán học văn và sợ học văn, hay là học văn theo mẫu. Học sinh có quá nhiều lỗi sai về cách dùng từ và lỗi diễn đạt hoặc chưa cảm nhận được cái hay và cái đẹp của văn chương... Học sinh học văn theomột khuân mẫu theo những cách sắp đặt của giáo viên. Có thể thấy nguyên nhân chủ yếu là do cách dạy của giáo viên. Giáo viên chưa thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ, đặc trưng của môn Ngữ văn. Thứ hai giáo viên dạy theo phương pháp thuyết giảng là chính. Lên lớp, giáo viên chỉ giảng dạy theo bài soạn, nói thay, làm thay, cảm thụ thay những cái hay cái đẹp của tác phẩm văn chương. 1 Học sinh chỉ có nhiệm vụ ghi chép lại, học thuộc rồi trả bài một cách máy móc. Từ đó dẫn đến những thói quen lười suy nghĩ, lười tư duy, thiếu sáng tạo... Vì vậy vấn đề cấp thiết xảy ra là phải thường xuyên đổi mới phương pháp dạy học. Trong đó dạy học ngữ văn theo hướng đọc- hiểu được xem là giải pháp hữu hiệu góp phần cải thiện và nâng cao chất lượng dạy và học Ngữ văn ở trường THPT. 1.3.Những năm gần đây giáo dục đã trải qua nhiều sự thay đổi quan trọng. Năm 2003 Giáo Dục, chương trình, SGK môn Ngữ văn THPT đã có sự điều chỉnh. Từ đó, PPDH cũng đổi mới. Chương trình giáo dục phổ thông hiện hành cũng nêu rõ: “Phải phát huy tích cực,tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc trưng của môn học, đặc điểm đối tượng của học sinh, điều kiện của từng lớp học, bồi dưỡng cho học sinh phương pháp tự học, khả năng hợp tác, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm đem lại niềm vui, hứng thú và trách nhiệm học tập cho học sinh”.[Quyết định số 16/2006/QĐBGDĐT ngày 05/05/2006 của Bộ trưởng Bộ Giáo Dục. Đào Tạo] Trên thực tế việc dạy học theo định hướng tích cực đã được giáo viên quán triệt về mặt quan điểm và nhận thức về lý luận. Tuy nhiên dạy học theo phương pháp đổi mới hiện nay là một điều hết sức khó khăn, nan giải… Để tổ chức một hoạt động đọc hiểu theo phương pháp dạy học đổi mới là một việc không dễ dàng nếu người giáo viên không đổi mới cách dạy, chắc hẳn học sinh sẽ không chủ động tích cực trong việc học của mình. Vì vậy đây là một “bài toán” khó trong thời đại ngày nay… Nguyễn Tuân là một trong những tác gia lớn của nền văn học Việt Nam và cũng là một trong 9 tác gia được chọn giảng dạy trong nhà trường phổ thông. Ông là nhà văn có vị trí vững chắc trong lịch sử văn học của dân tộc, người đã tìm cho mình tiếng nói riêng nhờ một phong cách văn học vô cùng đặc sắc.Ngòi bút của ông đã đi vào nhiều vấn đề, nhiều vẻ của những hình tượng. Và ở hai thời kì trước và sau Cách mạng tháng Tám, sáng tác của Nguyễn Tuân đã có sự khác biệt khá rõ nét. Đi vào văn chương của Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám có thể thấy cái Đẹp ở “Chữ người tử tù” trong tập truyện ngắn “Vang bóng một thời” viết về những 2 con người trong quá khứ đã từng vang bóng: những người anh hùng hảo hán thất thế.Nguyễn Tuân đã cố níu giữ những giá trị tinh thần, giá trị văn hóa của dân tộc còn ẩn sau thói chơi chữ của các nhân vật trong tác phẩm này. Đề cao vẻ đẹp “thiên lương” của những con người biết trân trọng cái đẹp, biết “ngông” trên cái tài năng của mình. Vì vậy dạy văn bản “Chữ người tử tù” trong nhà trường phổ thông sẽ góp phần đưa những giá trị vẻ đẹp của một thời đã qua đến với học sinh và giúp các em tiếp cận với “người chiến sĩ ngôn từ đã đưa cái đẹp thăng hoa đến một độ cao hiếm thấy trong văn học Việt Nam” (Hoài Anh) 1.4.Là một sinh viên sư phạm, một giáo viên tương lai, thông qua việc thực hiện đề tài này, tác giả muốn tích lũy được nhiều kinh nghiệm quý báu, bước đầu tiếp cận được với phương pháp dạy học đổi mới và phương pháp nghiên cứu khoa học. Tất cả những cơ sở thực tiễn trên là lý do em chọn đề tài: Tổ chức hoạt động phân tích hình tượng nhân vật trong dạy học đọc hiểu văn bản “ Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân ở trường THPT. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 2.1. Trên thế giới Phương pháp dạy học tích cực là hệ thống những phương pháp dạy học nhằm phát huy cao độ tính tích cực hoạt động của học sinh trong quá trình học tập, vấn đề này đã được nhiều tác giả nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhau. Trong lịch sử phát triển của giáo dục và nhà trường, tư tưởng về dạy học tích cực đã được các nhà giáo dục biết đến từ lâu. Từ thời cổ đại các nhà sư phạm tiền bối đã từng nói đến tầm quan trọng to lớn của việc phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh và nhắc đến các phương pháp, biện pháp phát huy tính tích cực. + Socrat (469-339 TCN) nhà triết học, người thầy vĩ đại của Hy Lạp cổ đại đã từng dạy học trò của mình bằng cách luôn đặt ra những câu hỏi gợi mở, nhằm giúp cho người đọc dần dần phát hiện ra chân lý + Khổng Tử (551-479TCN) nhà triết học, nhà giáo dục vĩ đại của Trung Hoa cổ đại đòi hỏi người ta phải học hỏi tìm tòi, suy nghĩ và đào sâu trong quá trình học. 3 Ông nói “không tức giận vì muốn biết, thì không gợi mở cho, không bực tức vì không rõ được thì không bày vẽ cho. Vật có bốn góc, bảo cho một góc mà không suy ra ba góc kia thì không dạy nữa”. + Komensky (1592-1670) là một nhà tư tưởng Clovakia, nhà lý luận giáo dục đã đưa ra bí quyết về phương pháp giảng dạy “Bí quyết của giáo dục là rèn luyện cho các em một tâm hồn dễ dàng tích cực, tự do, ngăn cản được những điều mà các em muốn làm, ngược lại đẩy các em vào những điều mà chúng không muốn”. Trong thế kỉ XX, các nhà giáo dục Đông, Tây đều tìm đến con đường phát huy tính tích cực học tập, chủ động, sáng tạo của người học cụ thể như: Kharlamop nhà giáo dục học Xô Viết trong cuốn “Phát huy tính tích cực của học sinh như thế nào?” Một trong những vấn đề căn bản mà nhà trường Xô Viết hiện nay đang lo lắng và giải quyết là việc phát huy tính tích cực trong hoạt động nhận thức của học sinh trong quá trình học”. Căn cứ vào những tác giả nêu trên chúng tôi thấy việc nghiên cứu về phương pháp dạy học tích cực trên thế giới đang đi trước chúng ta từ rất lâu. Người ta đã thấy được rõ vai trò to lớn của phương pháp dạy học tích cực đối với sự nghiệp giáo dục và phát triển của xã hội. 2.2. Ở Việt Nam Ở nước ta ngay từ những năm 60 của thế kỉ XX dạy học tích cực đã bắt đầu được đề cập một cách trực tiếp hoặc gián tiếp trong cuốn giáo trình Giaó dục học, Tâm lý học, phương pháp giảng dạy bộ môn…Trong các trường sư phạm đã bắt đầu xuất hiện tư tưởng “Phương pháp giáo dục tích cực”, khẩu hiệu biến quá trình “đào tạo thành quá trình tự đào tạo”. Tại Nghị quyết thứ IV của Ban chấp hành TW khóa VII đã chỉ rõ: Đổi mới phương pháp giảng dạy ở các cấp học, bậc học…áp dụng những phương pháp giáo dục hiện đại để bồi dưỡng cho học sinh năng lực tư duy, sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề.[1993]. 2.3. Các công trình nghiên cứu đọc-hiểu và phƣơng pháp dạy học tích cực 2.3.1. Công trình nghiên cứu đọc-hiểu 4 Thuật ngữ “đọc-hiểu” là việc dạy học Ngữ văn theo hướng đọc -hiểu được nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước quan tâm: -V.A.Nhicoxki trong “ Phương pháp giảng dạy văn học ở nhà trường phổ thông” đã chú ý đến hoạt động đọc, vị trí của người học sinh trong nhà trường PT, đặc biệt tác giả chú ý đến việc đọc diễn cảm của HS - Z.Ia.Rez trong “Phương pháp luận dạy học” đã trình bày một hệ thống các phương pháp, biện pháp dạy học, đặc biệt chú ý đến đọc sáng tạo Ở Việt Nam từ những năm 80 của thế kỉ XX đã xuất hiện nhiều cuốn sách viết về phương pháp dạy học đọc-hiểu -GS.TS.Nguyễn Thanh Hùng (Đại học Sư phạm Hà Nội) trong bài viết “Đọc hiểu văn chương” trên tờ tạp chí GD số 92, tháng 7, năm 2014 cũng đưa ra những kiến giải về khái niệm đọc-hiểu.Theo ông “Đọc hiểu văn chương là đọc cái chủ quan của người viết bằng cách đồng hóa tâm hồn, tình cảm, suy nghĩ của mình trong trang sách”, nghĩa là một quá trình đồng sáng tạo. Tác giả của bài viết cũng chia “đọc” làm ba dạng: Đọc kĩ, đọc sâu, đọc sáng tạo [tháng 7, năm 2014] - Cố GS. Phan Trọng Luận trong cuốn “Phương pháp dạy học văn” đã xem đọc diễn cảm là một trong ba phương pháp thường dùng trong quá trình thâm nhập tác phẩm. Trong chuyên luận “Cảm thụ văn học, giảng dạy văn học”, tác giả đã phân tích rõ tầm quan trọng của hoạt động học[Nxb Giáo dục, 1983] -GS.TS.Trần Đình Sử trong bài viết “Dạy học văn là dạy học sinh đọc-hiểu văn bản” để bàn luận về vấn đề thế nào là đọc hiểu văn bản thông qua cắt nghĩa đọc là gì,hiểu là gì. Ông cho rằng đọc - hiểu văn bản có hai bước: Hiểu thông báo và hiểu ý nghĩa 2.3.2. Công trình nghiên cứu phƣơng pháp dạy học tích cực Các nhà giáo dục học đã có công trong việc áp dụng phương pháp dạy học tích cực vào giảng dạy như: +Phạm Văn Đồng trong bài: “Một phương pháp cực kì quý báu” đăng trên báo Nhân Dân vào tháng 11/1994 đã nói: “PP dạy học mà các đồng chí nêu ra nói gọn lại là lấy người học làm trung tâm”. Người ta phải đặt ra những câu hỏi, đưa ra những câu chuyện có tính hấp dẫn, khêu gợi, đòi hỏi người nghe, người đọc dẫu là 5 suy nghĩ kém cỏi cũng phải chịu khó suy nghĩ, tìm tòi…PPDH tích cực này có khả năng phát triển được những năng lực đang ngủ yên ở mỗi con người… + Nguyễn Kì trong bài viết “Biến quá trình dạy học bằng quá trình tự học” đã đưa ra những cơ sở tích cực về phương pháp dạy học tích cực. Tác giả cũng chỉ rõ quá trình tự học là quá trình tự nghiên cứu,tự thể hiện, tự kiểm tra, tự điều chỉnh dưới sự hướng dẫn tổ chức trọng tài của thầy.[Tạp chí NCGD số 7/1993] + Trần Bá Hoành với các bài “Dạy học lấy học sinh làm trung tâm”đăng trên Tạp chí NCDG số 1/1994/ bài: “Phương pháp tích cực” đăng trên Tạp chí NCGD số 3/1996/ bài “Phát triển chí sáng tạo của học sinh và vai trò của giáo viên” đăng trên Tạp chí số 9/1999,nêu rõ: thế nào là dạy học lấy học sinh làm trung tâm, thế nào là phương pháp tích cực, thế nào là phương pháp hợp tác…tác giả cũng đã chỉ rõ những đặc trưng của phương pháp tích cực. + PGS-TS Nguyễn Ngọc Bảo với cuốn sách “Phát triển tính tích cực, tự lực của học sinh trong quá trình dạy học” tác giả đã đưa ra quan niệm học là hoạt động tích cực, tự lực và là trung tâm c ủa quá trình dạy học và đã nêu lên các phương pháp nhằm tích cực hóa hoạt động của học sinh. Như vậy có nhiều công trình nghiên cứu về PPDH tích cực, trong công trình nghiên cứu khoa học của tôi cũng chỉ đi sâu vào một phần nhỏ của PPDH tích cực trong việc phân tích cắt nghĩa hình tượng nhân vật trong dạy học đọc-hiểu văn bản. 3. Mục đích nghiên cứu -Mục đích của nghiên cứu nhằm: + Củng cố và nâng cao hiểu biết về phương pháp dạy học môn Ngữ Văn theo hướng đổi mới. + Hình thành phát triển năng lực cho học sinh. + Đưa văn bản “Chữ người tử tù” đến với học sinh theo đúng hướng của phương pháp. + Bồi dưỡng năng lực đọc-hiểu, cảm thụ tác phẩm, làm cơ sở cần thiết cho việc dạy học Ngữ Văn sau này của trường phổ thông. 6 + Đề xuất cách thức ứng dụng dạy học tích cực vào đọc hiểu văn bản văn học ở trường THPT. 4. Nhiệm vụ của nghiên cứu -Tập hợp các vấn đề lý luận liên quan đến đề tài nghiên cứu. -Khảo sát thống kê các công trình nghiên cứu đọc-hiểu, các công trình nghiên cứu phương pháp dạy học tích cực. -Xử lý và phát triển các vấn đề khảo sát, vận dụng vào văn bản “Chữ người tử tù”. 5. Đối tƣợng nghiên cứu -Đề tài nghiên cứu về vấn đề “Tổ chức hoạt động phân tích hình tượng nhân vật trong dạy học đọc hiểu văn bản (Chữ người tử tù- Nguyễn Tuân) ở nhà trường THPT”. 6. Phạm vi nghiên cứu -Luận văn tập trung nghiên cứu phương pháp dạy học tích cực trong các hoạt động dạy học đọc-hiểu văn bản văn học. Tuy nhiên tập trung nhất là hoạt động “Phân tích hình tượng nhân vật Huấn Cao (Chữ người tử tù-Nguyễn Tuân)”cũng như khả năng vận dụng nó trong giờ dạy học đọc hiểu văn bản văn học, giúp cho học sinh phát huy tính tích cực chủ động, sáng tạo. 7. Phƣơng pháp nghiên cứu Khóa luận sử dụng những phương pháp sau đây: -Phương pháp phân tích tổng hợp -Phương pháp so sánh, đối chiếu -Phương pháp thực nghiệm sư phạm 8. Bố cục của khóa luận Khóa luận gồm có: Mở đầu Nội dung Chương 1: Những vấn đề lý luận chung Chương 2: Vận dụng phương pháp dạy học tích cực vào tổ chức hoạt động phân tích hình tượng nhân vật trong “Chữ người tử tù” (Nguyễn Tuân) 7 Chương 3: Giáoán thực nghiệm Kết luận NỘI DUNG Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG 1.1. Cơ sở lý luận 1.1.1. Vấn đề về tiếp nhận văn học 1.1.1.1. Khái niệm tiếp nhận văn học Theo “Từ điển tiếng việt”, 2009,(Hoàng Hiệp):“Tiếp nhận là đón nhận cái từ người khác, nơi khác chuyển giao cho”[5;tr.1269] Theo giáo trình “Lý luận văn học”,(Phương Lựu chủ biên): “Tiếp nhận văn học là giai đoạn hoàn tất quá trình sáng tác-giao tiếp của văn học. Người nghệ sĩ sáng tạo ra tác phẩm văn học là truyền đạt những cảm nhận khách quan về cuộc đời cho người đọc. Chỉ khi được bạn đọc tiếp nhận,quá trình sáng tạo mới hoàn tất. Thực chất của quá trình này là chuyển cảm xúc đến bạn đọc cộng hưởng cảm xúc đó” [14; tr.221] Theo GS.Nguyễn Thanh Hùng trong Chuyên luận: “Đọc và tiếp nhận tác phẩm văn chương” lại quan niệm “Tiếp nhận tác phẩm văn học là đem lại cho người đọc sự hưởng thụ và hứng thú trí tuệ hướng vào người đọc để củng cố và phát triển một cách phong phú những khả năng thuộc thế giới tinh thần và năng lực cảm xúc của con người trước đời sống”[6; tr.105] Theo Từ điển thuật ngữ văn học, (Lê Bá Hán chủ biên): “Tiếp nhận văn học là hoạt động chiếm lĩnh các giá trị tư tưởng, thẩm mĩ của các tác phẩm văn học bắt đầu từ sự cảm nhận văn bản ngôn từ, hình tượng nghệ thuật, tư tưởng cảm hứng, quan niệm nghệ thuật, tài nghệ của tác giả cho đến sản phẩm sau khi đọc: Cách hiểu, ấn tượng trong trí nhớ ảnh hưởng trong hoạt động sáng tạo, bản dịch, chuyển thể…” [3; tr.325] Như vậy, về thực chất, tiếp nhận văn học là một cuộc giao tiếp, đối thoạt tự do giữa người đọc với nhà văn thông qua tác phẩm. Nó đòi hỏi người đọc phải tham 8 gia bằng tất cả trái tim, khối óc, hứng thú, nhân cách và tri thức của mình. Có thể nói là được xem như một quá trình “đối tượng hóa sức mạnh bản chất người” của cá thể trong xã hội. Để thực hiện quá trình đó thì chủ thể tiếp nhận không chỉ dựa vào những phân tích văn bản ngôn từ một cách máy móc rồi khái quát giá trị ý nghĩa của tác phẩm. Nói tới tiếp nhận là đề cập đến hai phương diện thống nhất bản chất của một vấn đề: về phía đối tượng tức tác phẩm văn học, khi được tiếp nhận nó không còn là những “kí hiệu tĩnh” không còn là những kí hiệu mang tính khách quan của những con chữ khô khan, mà trở nên một thế giới có hồn, có đời sống, có số phận, hoàn cảnh, sự việc và tâm lí.Có được điều đó hay không và có được đến mức độ nào- nhân tố có vai trò quyết định lại do khả năng chuyển kí hiệu thẩm mĩ sang hoạt động thẩm mĩ của chủ thế tiếp nhận: “người đọc”. Việc dạy tác phẩm văn chương trong nhà trường thực chất là dạy cho học sinh cách tiếp nhận văn học. Nhưng tiếp nhận văn học với học sinh là tiếp nhận dưới sự giúp đỡ, gợi ý, dẫn dắt của giáo viên. Giáo viên cần phải lưu ý: Mỗi tác phẩm văn học đều được người nghệ sĩ sáng tạo bằng những phương thức riêng, vì vậy giáo viên cần phải nắm được những phương thức đặc trưng ấy để giúp học sinh có cách tiếp nhận cho phù hợp và đạt hiệu quả cao. 1.1.1.2. Đặc trưng của tiếp nhận văn học Tiếp nhận văn học là một hoạt động tinh thần. Nó là một quá trình đưa tác phẩm văn học đến với độc giả-người tiếp nhận. Hoạt động này nhằm thỏa mãn nhu cầu tất yếu của con người là hưởng thụ thẩm mĩ, nhu cầu hiểu biết, nâng cao tầm đón nhận làm giàu vốn sống. - Con đường nhà văn sáng tạo ra tác phẩm Quá trình sáng tạo của người nghệ sĩ có thể hình dung như sau: Đời sống -> Nhà văn -> Tác phẩm Nhà văn đứng trước cuộc sống muôn màu muôn vẻ, bằng óc tưởng tượng và trí tưởng tượng phong phú, nhà văn đã tạo ra TPVH - “đứa con tinh thần của mình”. Song văn chương là địa hạt của sự sáng tạo, nó không bao giờ dung nạp nhưng thứ sẵn có, theo khuân mẫu từ trước mà đòi hỏi sự sáng tạo của người nghệ sĩ. Bởi thế 9 TPVC đích thực sẽ vượt qua sự băng ngoại của thời gian và sống mãi với loài người đến ngày tận thế. - Con đường chiếm lĩnh tác phẩm văn học. Tiếp nhận văn học trước hết đòi hỏi người đọc phải có khả năng cảm thụ, thấu hiểu lớp ngôn từ, hình ảnh giọng điệu trong thơ hay tình tiết, cốt truyện nhân vật trong văn xuôi. Sau đó qua hệ thống hình tượng như là sự kết tinh sâu sắc của tư tưởng, tình cảm của nhà văn, người đọc sẽ tiếp xúc với ý đồ sáng tạo của người nghệ sĩ. Người đọc sẽ sống với tác phẩm văn học, rung động với nó, vừa đắm chìm trong thế giới nghệ thuật của nhà văn, vừa tỉnh táo lắng nghe những thông điệp của tác giả, thưởng thức cái hay, cái đẹp qua tài năng sáng tạo của người nghệ sĩ. Bằng trí tưởng tượng kinh nghiệm sống, vốn văn hóa và những rung động sâu sắc trong tâm hồn, người đọc sẽ cùng tái hiện bồi đắp những nét phác họa thường rất hàm súc của nhà văn thành những bức tranh đời sống chân thực, sống động, những hình tượng hoàn chỉnh để rồi quan sát, đối chiếu, đối thoại, yêu, ghét, tự rút ra cho mình những bài học nhân sinh quý giá. Văn học qua quá trình tiếp nhận tích cực ấy sẽ giúp cho con người có thêm những hiểu biết, trải nghiệm về cuộc đời. Như vậy, chiếm lĩnh tác phẩm văn học thực chất là quá trình đi ngược lại con đường sáng tạo của nhà văn: Tác phẩm-> Nhà văn -> Đời sống 1.1.1.3. Định hướng của tiếp nhận văn học GS.TS Nguyễn Thanh Hùng trong cuốn: “Hiểu văn, dạy văn” có ý kiến: “Tác phẩm văn học là sản phẩm tinh thần của quá trình tư duy, sáng tạo của nhà văn. Nó thể hiện các chức năng của mình thông qua lớp ngôn từ mà nhà văn đã sử dụng như một phương tiện giao tiếp. Mỗi tác phẩm văn học tồn tại dưới dạng vật chất là một cấu trúc chỉnh thể. Tuy nhiên, nó chỉ mới mang tính tiềm tàng khi độc giả chưa biến chúng thành hiện thực thông qua việc tiếp nhận và cảm thụ của mình”. [8; tr.48] Như vậy, thực chất của quá trình sáng tác văn học là quá trình chuyển cảm xúc của tác giả đến với bạn đọc. Bên cạnh đó, mỗi tác phẩm văn chương là những sinh thể cực kì đa dạng và độc đáo. Mà đối tượng HS là một thế giới vô cùng phong 10 phú và đa dạng. Bởi vậy công thức dập khuân, máy móc trong giảng dạy tác phẩm văn chương đều không thích hợp với bản chất sáng tạo của lao động, phân tích tiếp nhận văn chương. Theo PGS.TS.Bùi Minh Đức trong chuyên luận: “Hệ thống hoạt động đọc-hiểu văn bản văn học ở nhà trường THPT” thường được triển khai qua năm hoạt động: * Hoạt động tạo tâm thế Đây là hoạt động có tính chất chuẩn bị cho quá trình tiếp nhận văn học ở bạn đọc HS. Nhiệm vụ của hoạt động này là kiến tạo môi trường cảm thụ, giúp cho HS thoát khỏi những không gian riêng tư, cá nhân bên ngoài chuyển vào không gian thẩm mĩ, tạm gạt bỏ những bộn bề của đời thường để “tham dự” vào cuộc giao tiếp nghệ thuật của nhà văn. Bằng những cách tác động nào đó,GV phải tạo được cho HS một “tâm thế” tiếp nhận, thu hút được sự chú ý của các em đối với bài học, gây được sự “hứng thú” tiếp nhận và một ý thức sẵn sàng nhập cuộc đầy say mê với khát vọng trở thành bạn đọc sáng tạo của nhà văn. Một số biện pháp tạo tâm thế tiếp nhận văn học cho HS: -Tạo tâm thế tiếp nhận bằng một cuộc thi nhỏ: Tổ chức cuộc thi nhỏ(Thi giới thiệu tác giả, tác phẩm, trả lời nhanh các bài tập trắc nghiệm…) giữa các HS hoặc các tổ, nhóm làm một biện pháp có thể thu hút sự chú ý HS tạo tâm thế tiếp nhận và không khí cần thiết cho giờ học trước khi HS bước vào giai đoạn đọc-hiểu văn bản. -Tạo tâm thế học tập bằng những lời giới thiệu hay, ấn tượng: Một lời mở đầu bài học thật hấp dẫn sẽ có tác dụng không nhỏ thu hẹp khoảng cách giữa HS và tác phẩm. Về tâm lý con người thường bị thu hút, lôi cuốn bởi những lời nói hay, những cách nói độc đáo và đầy ấn tượng. Chính vì vậy, dẫn dắt vào bài cũng là nghệ thuật sư phạm của người GV. -Tạo tâm thế học tập qua việc ứng dụng các phương tiện kĩ thuật hiện đại: Bằng những hình ảnh, âm thanh, màu sắc, bảng biểu… Trực quan sinh động, các phương tiện kĩ thuật hiện đại có thể tác động vào cùng một lúc vào nhiều giác quan khiến cho HS, các em phải chú ý, tạm gạt những mối quan tâm cá nhân để bước vào bài học. * Hoạt động tri giác ngôn ngữ 11 Hoạt động này nằm trong giai đoạn đầu của quá trình cảm thụ tác phẩm từ lớp vỏ đến lớp hình. Quá trình nhận thức thẩm mĩ chỉ thực sự bắt đầu khi người đọc làm sống dạy những kí hiệu, những con chữ câm lặng trên trang giấy. Tác dụng của hoạt động tri giác ngôn ngữ là giúp cho HS cảm nhận tác phẩm ở cấp độ chỉnh thể, bước đầu hình dung được cuộc sống mà nhà văn đã miêu tả trong tác phẩm và giọng điệu nghệ thuật của người nghệ sĩ. Đây cũng là hoạt động tiền đề cho hoạt động tưởng tượng tái hiện tiếp theo. Một số biện pháp tổ chức HS tri giác ngôn ngữ nghệ thuật một cách chủ động, sáng tạo. Đọc văn là biện pháp chủ đạo để tri giác ngôn ngữ nghệ thuật. Đọc ở nhà, đọc trên lớp, đọc thành tiếng, đọc cá nhân, đọc cùng bạn, đọc nhanh toàn bộ văn bản để cảm nhận âm hưởng chung để toát lên chỉnh thể bài văn, bài thơ. Đọc chậm, đọc kĩ, đọc sâu kết hợp tra từ điển, tìm hiểu chú thích, điển tích, điển cố để hiểu được ý nghĩa của câu chữ, đoạn văn, đoạn thơ…là những hình thức khác nhau của hoạt động đọc văn có thể tổ chức một cách linh hoạt ở HS để việc tri giác ngôn ngữ đạt được hiệu quả cao nhất. * Hoạt động tái hiện hình tượng Tiếp nối hoạt động tri giác ngôn ngữhoạt động tái hiện hình tượng giúp cho HS bước vào thế giới nghệ thuật của tác phẩm. Chức năng của hoạt động này kích thích trí tưởng tượng của HS giúp cho các em nhìn ra bức tranh thiên nhiên và đời sống con người mà nhà văn đã khắc họa trong tác phẩm. Điều cần chú ý là GV không tưởng tượng, tái hiện thay cho HS, GV nên kiên trì gợi mở để HS nhận thức cuộc sống trong tác phẩm qua trí tưởng tượng chính của các em. Nói cách khác, GV phải có biện pháp giúp cho HS chuyển thế giới hình tượng trong tác phẩm thành những hiện tượng tâm lí tinh thần trong đầu các em, để các em có thể sống với nó, trải nghiệm cùng các nhân vật. Các biện pháp tổ chức cho HS hoạt động tái hiện hình tượng văn học một cách tích cực và sáng tạo. 12 -Tái thuật và tái thuật sáng tạo thế giới hình tượng trong tác phẩm: Tái thuật là biện pháp rất căn bản để HS nắm chi tiết, cốt truyện, hành động, tâm trạng nhân vật…được nhà văn miêu tả trong tác phẩm. Tái thuật sáng tạo đòi hỏi HS phải tích cực hóa trí tưởng tượng của mình để “lấp chỗ trống” hoặc để diễn giải rõ hơn những “ ý tứ, sự tình” còn chưa hiện rõ nét và đ ầy đủ. -Tái hiện hình tượng nghệ thuật qua biện pháp sơ đồ hóa những diễn biến chi tiết trong truyện và mối quan hệ giữa các nhân vật. Biện pháp này không chỉ dừng lại ở những yêu cầu sơ đồ hóa một cách thuần túy mà cái chính là HS còn tiên đoán ý đồ nghệ thuật của nhà văn, xác định được các ý nghĩa toát lên từ các mối quan hệ nhân vật-nhân vật; nhân vật-sự kiện; nhân vật-hình ảnh thiên nhiên… - Trực quan hóa bức tranh thế giới hình tượng bằng các loại hình tác phẩm khác(tranh vẽ,băng hình,tượng…) Đây là biện pháp chuyển hình tượng “phi vật thể”-hình tượng không thể soi ngắm bằng mắt thường sang những hình tượng có tính trực quan. * Hoạt động phân tích cắt nghĩa Hoạt động này là bước tiếp theo trong quá trình nhận thức thẩm mĩ của bạn đọc HS. Nó bao gồm những thao tác tiếp nhận mang tính chất lí tính, từng bước đưa HS đọc thâm nhập sâu vào văn bản nghệ thuật. Khám phá từng nét nghĩa, lớp nghĩa để rồi cuối cùng nắm bắt được chủ đề, giá trị tư tưởng, nghệ thuật của tác phẩm. Một số biện pháp tổ chức HS hoạt động phân tích cắt nghĩa -Phân tích, cắt nghĩa và đánh giá khái quát bằng đàm thoại, gợi mở: Thực chất của biện pháp này là GV thiết kế một hệ thống câu hỏi có tính logic chặt chẽ, dẫn dắt HS đi từ sự cảm thụ cụ thể đến khái quát ý nghĩa của các chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm, từ những kết luận mang tính bộ phận đến những kết luận khái quát hơn và cuối cùng là chủ đề tư tưởng. -Phân tích, cắt nghĩa văn học bằng biện pháp so sánh: So sánh giúp cho HS đi sâu khám phá các tầng ý nghĩa của chi tiết nghệ thuật được định hướng, phân tích, cắt nghĩa. So sánh là một thao tác tư duy có khả năng kích ho ạt các vận động trí tuệ của con người để tường giải cái hay cái đẹp. Điều cốt yếu là GV không tiến 13
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất