Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Đại cương Tìm hiểu về sự sụp đổ cnxh của liên xô và đông âu để khẳng định con đường đi lên...

Tài liệu Tìm hiểu về sự sụp đổ cnxh của liên xô và đông âu để khẳng định con đường đi lên cnxh của hồ chí minh là đúng đắn

.PDF
22
1
71

Mô tả:

lOMoARcPSD|17838488 TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN KHOA LÍ LUẬN - CHÍNH TRỊ BÀI TẬP LỚN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH Đề tài: Tìm hiểu về sự sụp đổ CNXH của Liên Xô và Đông Âu để khẳng định con đường đi lên CNXH của Hồ Chí Minh là đúng đắn Sinh viên thực hiện: Đỗ Thị Phương Anh Mã sinh viên: 11200082 Lớp học phần: Tư tưởng Hồ Chí Minh (122) _18 Hà Nội, ngày 5 tháng 10 năm 2022 Downloaded by hây hay ([email protected]) lOMoARcPSD|17838488 MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU...............................................................................................................1 PHẦN I: SỰ SỤP ĐỔ CNXH Ở LIÊN XÔ VÀ CÁC NƯỚC ĐÔNG ÂU................2 1.1. Bối cảnh lịch sử...............................................................................................2 1.1.1. Tình hình thế giới.......................................................................................2 1.1.2. Liên Xô......................................................................................................3 1.1.3. Các nước Đông Âu....................................................................................4 1.2. Nguyên nhân...................................................................................................5 1.2.1. Nguyên nhân khách quan...........................................................................5 1.2.2. Nguyên nhân chủ quan..............................................................................6 1.3. Ảnh hưởng của sự sụp đổ hệ thống XHCN tới Việt Nam..............................9 1.3.1. Tại thời điểm đó.........................................................................................9 1.3.2. Hiện tại và trong quá trình tiến tới xây dựng CNXH ở Việt Nam.............10 PHẦN II: KHẲNG ĐỊNH CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHXH Ở VIỆT NAM LÀ ĐÚNG ĐẮN................................................................................................................11 2.1. Bối cảnh đi lên con đường CNXH ở Việt Nam.............................................11 2.2. Vì sao khẳng định lựa chọn con đường đi lên CNXH ở nước ta là đúng đắn? 12 PHẦN III: NHẬN XÉT CỦA BẢN THÂN..............................................................16 KẾT LUẬN.................................................................................................................18 TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................................................19 Downloaded by hây hay ([email protected]) lOMoARcPSD|17838488 LỜI MỞ ĐẦU Sự tan rã của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu diễn ra vào cuối thập niên 1980 – đầu thập niên 1990 được coi là chấn động lớn nhất trong nền chính trị thế giới nửa cuối thế kỷ XX. Trong bối cảnh đó, chủ nghĩa Mác- Lênin bị thách thức nghiêm trọng. Một số học giả tư sản phương Tây đã quy chụp nguyên nhân của sự sụp đổ đó là do sự lỗi thời và những sai lầm từ chủ nghĩa Mác - Lênin. Tuy nhiên, chúng ta thấy rằng, sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu là sự sụp đổ của một mô hình chủ nghĩa xã hội - mô hình chủ nghĩa xã hội tập trung, quan liêu, bao cấp, hành chính, mệnh lệnh, xa rời quần chúng nhân dân với nhiều khuyết tật, chứ không phải là sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội nói chung. Việt Nam cũng là một quốc gia lựa chọn đi theo con đường CNXH và sự kiện sụp đổ của các nước đi đầu trong hệ thống XHCN trên thế giới đã ảnh hưởng không nhỏ đến tư tưởng chính trị, lập trường tới cán bộ và nhân dân ta lúc đó. Cho tới thời điểm hiện tại, công cuộc xây dựng CNXH ở nước ta chưa bao giờ đơn giản và dễ dàng; những vấn đề thực tiễn phát sinh chưa từng có trong tiền lệ lịch sử; những thế lực thù địch tuyên truyền những quan điểm sai lệch. Chính vì vậy, việc nghiên cứu và bàn luận về vấn đề này chưa bao giờ là không cần thiết và có giá trị cả về mặt lí luận và thực tiễn trong công cuộc xây dựng Đổi mới đất nước. Việc khẳng định con đường đi lên CNXH ở Việt Nam là một sự lựa chọn đúng đắn là một khảng định có căn cứ thực tiễn. Trong quá trình nghiên cứu và tìm hiểu đề tài, không thể tránh khỏi những thiếu sót, em mong nhận được sự góp ý từ cô để bài làm được hoàn thiện hơn. 1 Downloaded by hây hay ([email protected]) lOMoARcPSD|17838488 PHẦN I: SỰ SỤP ĐỔ CNXH Ở LIÊN XÔ VÀ CÁC NƯỚC ĐÔNG ÂU 1.1. Bối cảnh lịch sử 1.1.1. Tình hình thế giới Cuộc khủng hoảng năng lượng (1973) đã tác động mạnh mẽ đến tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của nhiều nước trên thế giới. Giá dầu mỏ tăng cao vào những năm 1970: khai thác ồ ạt chỉ tính riêng Ả Rập Xê Út đã khai thác từ 2 triệu thùng lên 10 triệu thùng mỗi ngày trong khi đó nhu cầu tiêu thụ dầu không đổi. Khủng hoảng dầu mỏ bắt đầu diễn ra từ ngày 17/10/1973 khi các nước thuộc Tổ chức Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) quyết định ngừng cung cấp nhiên liệu sang Mỹ, Nhật và Tây Âu, nhằm trừng phạt cho sự ủng hộ của nhóm này đối với Israel trong cuộc xung đột giữa Israel và liên quân Ai Cập - Syria. Lượng dầu bị cắt giảm tương đương với 7% sản lượng của cả thế giới thời kỳ đó. Sự kiện này đã khiến giá dầu thế giới tăng cao đột ngột và gây ra cuộc khủng hoảng kinh tế 1973-1975 trên quy mô toàn cầu. Ngày 16/10/1973, giá dầu mỏ từ 3,01 USD nhảy lên 5,11 USD một thùng, và tăng đến gần 12 USD vào giữa 1974. Đây được xem là cơn khủng hoảng đáng nhớ nhất trong thời kỳ những năm 1970. Những ai từng trải qua "cơn khủng hoảng dầu Trung Đông" sẽ không thể nào quên cảnh hàng người dài dằng dặc chờ đợi trước các cây xăng bởi nguồn cung ứng thiếu hụt nghiêm trọng và giá cả tăng cao. Trong thời gian khủng hoảng, tại nhiều bang ở Mỹ mỗi người dân chỉ được phép mua một lượng nhiên liệu nhất định, giá đã tăng trung bình 86% chỉ trong vòng một năm từ 1973 đến 1974. Thêm vào đó, một biến cố lớn nữa xảy đến với thị trường chứng khứng toàn cầu vào năm 1973 - 1974. Chỉ số FT30 của Sở giao dịch chứng khoán London bốc hơi 73% giá trị, khiến đô la Mỹ mất giá và làm cuộc khủng hoảng dầu lửa thêm tồi tệ. Thị trường chứng khoán Mỹ bốc hơi 97 tỷ USD, số tiền khổng lồ thời điểm đó, chỉ sau một tháng rưỡi. Trong suốt cuộc khủng hoảng, tại Mỹ, GDP giảm 3,2%, tỷ lệ thất nghiệp chạm mức 9%. Suy thoái và lạm phát lan rộng gây ảnh hưởng tới kinh tế toàn cầu cho tới tận thập niên 1980. Điều này đã khiến giá dầu lao dốc từ 35 USD/ thùng vào năm 1981 giảm xuống còn 10 USD năm 1986. Bên cạnh đó, để thích ứng với khủng hoảng năng lượng, nhiều nước tư bản chủ nghĩa đã đi sâu vào nghiên cứu khoa học, tiến hành cải cách tiến bộ. Cuộc cách mạng công 2 Downloaded by hây hay ([email protected]) lOMoARcPSD|17838488 nghệ đang diễn ra mạnh mẽ, xu thế toàn cầu hóa đang manh nha. Từ đó, đòi hỏi các nước phải tiến hành cải cách mở cửa áp dụng các tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất. 1.1.2. Liên Xô Sau thế chiến thứ II, mặc dù là nước thắng trận nhưng Liên bang Xô Viết bị thiệt hại nặng nề về người và của, đặc biệt là vấp phải sự chống phá của các phe đối lập nói chung và các nước tư bản nói riêng. Các nước tư bản đứng đầu là Mỹ, thực hiện chiến lược "toàn cầu chống XHCN" bằng những hành động cô lập kinh tế - chính trị, cũng từ đây thế giới bước vào thời kì "chiến tranh lạnh. Mỹ đưa ra lệnh "cấm vận" đối với Liên Xô, khiến tình hình nước này đã khó khăn này càng trở nên khó khăn hơn. Do chậm sửa đổi để thích ứng với tình hình mới, cuối những năm 70 đầu những năm 80, kinh tế liên xô lâm vào tình trạng trì trệ, suy thoái. Công cuộc cải tổ để lại nhiều hậu quả khi cải cách vội vàng và trên diện rộng. Những dấu hiệu đầu tiên của cuộc cải cách lớn là vào năm 1986 khi Gorbachev đưa ra chính sách glasnost (chính sách công khai hóa và minh bạch hóa đến mức tối đa các hoạt động của các cơ quan nhà nước và tự do thông tin và ngôn luận) và chính sách perestroika (chính sách cải cách chính trị và kinh tế để nhấn mạnh việc chống tham nhũng trong đội ngũ lãnh đạo Liên Xô và sự cần thiết của việc tái cơ cấu nền kinh tế). Tháng 3/1985, Gorbachev tiến hành cải tổ đất nước theo đường lối cải cách kinh tế triệt để, tiếp theo là cải cách hệ thống chính trị và đổi mới tư tưởng. Cải cách rượu để chặn chứng nghiện rượu dần tồi tệ ở Xô Viết: đẩy giá vodka, rượu và bia cao chót vót, việc mua bán cũng bị hạn chế; các nhà máy rượu vang buộc đóng cửa vì không có lượng tiêu thụ. Từ đó, ngân sách bị thất thu một khoản lớn 100 tỷ usd tương đương 500 tỷ usd hiện tại. Vấn đề cung ứng hàng tiêu dùng cho thị trường trở nên đặc biệt trầm trọng trong bối cảnh lượng tiền trong dân chúng tăng lên. Theo số liệu thống kê, thu nhập của gia đình công nhân viên chức từ năm 1983 đến năm 1989 tăng 8%, còn năm 1990 tăng 10% so với năm trước đó. Nếu mức lương bình quân hằng tháng của công nhân viên chức năm 1989 là 240 rúp, thì đến năm 1990 lên tới 270 rúp. Cuối thập niên 1980, tốc độ tăng lương bình quân cao gấp ba lần mức tăng thu nhập quốc dân. Hiện tượng thái quá này dẫn đến thực tế là vào đầu những năm 1990, nhu cầu hàng hóa và dịch vụ của người 3 Downloaded by hây hay ([email protected]) lOMoARcPSD|17838488 dân trên thị trường tiêu dùng không được đáp ứng lên tới 165 tỷ rúp. Ngay cả các hợp tác xã cũng không thể khắc phục được tình trạng mất cân đối giữa lượng tiền mặt và nguồn cung thị trường. Trong nước nở rộ “thị trường chợ đen”, nơi giá cả được niêm yết công khai tăng cao đối với những mặt hàng khan hiếm. Lạm phát đã làm mất giá mạnh tiền gửi của dân chúng và dẫn đến mức sống giảm sút nghiêm trọng. Theo số liệu của nhà báo, nhà kinh tế người Mỹ Jude Wanniski, “bằng cách phá giá đồng rúp, chính phủ Liên Xô trên thực tế đã thanh toán các khoản tiết kiệm cá nhân của người dân với tổng trị giá 600 tỷ rúp”. Lần đầu tiên trong nhiều thập kỷ ở Liên Xô xuất hiện nạn thất nghiệp. Đặc biệt bị ảnh hưởng là đội ngũ công nhân viên khu liên hợp công nghiệp - quân sự, nơi có tới hàng triệu người lao động. Đây cũng là thời điểm bắt đầu suy giảm năng lực quốc phòng của đất nước. Sau 6 năm do sai lầm trong quá trình cải tổ, đất nước Xô Viết khủng hoảng toàn diện. Kinh tế chuyển sang nền kinh tế thị trường vội vã, thiếu sự điều tiết của nhà nước nên gây ra hỗn loạn, thu nhập giảm sút nghiêm trọng. Chính trị xã hội mất ổn định xung đột sắc tộc, ly khai liên bang, thực hiện đa nguyên chính trị làm suy yếu vai trò lãnh đạo của Đảng và nhà nước. Năm 1990, Gorbachev tự bầu làm tổng thống. Tháng 8/1991, sau cuộc đảo chính lật đổ Gorbachev thất bại, Đảng cộng sản Liên Xô bị đình chỉ hoạt động. chính phủ Liên bang bị tê liệt. Ngày 25/12/1991, Tổng thống Gorbachev từ chức, chấm dứt chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô sau 74 năm tồn tại. 1.1.3. Các nước Đông Âu Sau khi hoàn thành cuộc cách mạng dân chủ nhân dân từ năm 1949 các nước Đông Âu bước vào giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội. Sau 20 năm xây dựng đất nước cùng với sự giúp đỡ của Liên Xô các nước Đông Âu đã trở thành những nước công - nông nghiệp bộ mặt kinh tế - xã hội của đất nước đã thay đổi căn bản và sâu sắc. Từ đầu những năm 80 của thế kỷ XX, các nước Đông Âu lâm vào khủng hoảng toàn diện về kinh tế và chính trị; bắt đầu từ Ba Lan rồi lan sang các nước Đông Âu và lên đến đỉnh cao vào năm 1988. Những nhà lãnh đạo đất nước quan liêu, bảo thủ, tham 4 Downloaded by hây hay ([email protected]) lOMoARcPSD|17838488 nhũng đồng thời bị các nước đế quốc bên ngoài kích động, quần chúng biểu tình, đòi thi hành cải cách kinh tế chính trị, thực hiện chế độ đa nguyên về chính trị, tổng tuyển cử tự do. Các nước Đông Âu lần lượt từ bỏ quyền lãnh đạo của Đảng chấp nhận đa nguyên, đa đảng và tiến hành tổng tuyển cử, chấm dứt chế độ XHCN, lập nước cộng hòa. Kết quả là các thế lực chống Chủ nghĩa xã hội thắng cử lên nắm chính quyền. Cuối năm 1989 chế độ Xã hội chủ nghĩa bị sụp đổ hầu hết ở Đông Âu. 1.2. Nguyên nhân Chúng ta thấy rằng, sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu là sự sụp đổ của một mô hình chủ nghĩa xã hội - mô hình chủ nghĩa xã hội tập trung, quan liêu, bao cấp, hành chính, mệnh lệnh, xa rời quần chúng nhân dân với nhiều khuyết tật, chứ không phải là sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội nói chung. Sự sụp đổ ấy có nguyên nhân khách quan và chủ quan, bên trong và bên ngoài, sâu xa và trực tiếp. Chính những khuyết tật của mô hình chủ nghĩa xã hội đó không được phát hiện và khắc phục kịp thời, tồn tại kéo dài, tích tụ lại đã đẩy xã hội Xô Viết đến sự sụp đổ. Sự sai lầm về đường lối cải tổ của lãnh đạo Đảng và Nhà nước Liên Xô trước đây - cả đường lối kinh tế, chính trị, tư tưởng, tổ chức, cán bộ và đối ngoại, sự phản bội lại lý tưởng xã hội chủ nghĩa của một số lãnh đạo cao nhất trong Đảng cùng với âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình” của chủ nghĩa đế quốc, sự chống phá của các thế lực thù địch là những nguyên nhân trực tiếp. 1.2.1. Nguyên nhân khách quan Một là, sự chống phá quyết liệt của chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc đối với chủ nghĩa xã hội thế giới. Lực lượng theo khuynh hướng tư bản chủ nghĩa khoác những chiếc áo dân tộc. Trên bề mặt thì tất cả đều yên tĩnh, vang lên những lời nói vui vẻ về tình hữu nghị giữa các dân tộc, nhưng ở bên trong thì âm ỉ những lò lửa của sự hằn thù đã tiến hành những hoạt động "diễn biến hòa bình", gây mâu thuẫn giữa các sắc tộc của Liên Xô. Các biện pháp bao gồm: bôi nhọ chủ nghĩa Marx-Lenin, gây mất lòng tin của người dân vào chính quyền bằng các biện pháp chụp mũ, tạo tin đồn giả. Trong việc làm tan rã Liên Xô có vai trò nổi bật của Tổng thống Cộng hòa Xô viết Nga Boris Yeltsin. Chính tình báo Mỹ đã thông đồng với Boris Yeltsin và báo trước 5 Downloaded by hây hay ([email protected]) lOMoARcPSD|17838488 cho ông ta biết về những kế hoạch quan trọng của phe đối lập, giúp ông ta giành thắng lợi trong cuộc đối đầu với Ủy ban nhà nước về tình trạng khẩn cấp do CIA đã đặt máy nghe trộm ngay dưới chân điện Kremlin. Đích thân tổng thống Mỹ George Bush (cha) và thủ tướng Anh là John Major đã gọi điện báo trước về âm mưu đảo chính và thúc giục Yeltsin phải có hành động nhằm tranh thủ sự đồng tình và nắm chắc quân đội. Hai là, về mặt khách quan, ảnh hưởng quá lớn của mô hình Xô Viết dẫn tới “áp đặt mô hình Xô Viết”, coi đó là mô hình duy nhất của chủ nghĩa xã hội. Chế độ Xô-viết ngay từ lúc mới ra đời ở Nga sau Cách mạng Tháng Mười (1917) và sau này trên toàn Liên bang Xô-viết, đã tỏ rõ được tính ưu việt so với các chế độ chính trị-xã hội trước đó. Chính quyền Xô-viết thực sự là chính quyền của công, nông, binh và của nhân dân lao động nói chung. Nhờ tính ưu việt đó, nó đã đánh thắng cuộc chiến tranh can thiệp của các nước đế quốc sau Cách mạng Tháng Mười, lập lại hòa bình và xây dựng chế độ mới, thực hiện công nghiệp hóa và tập thể hóa nông nghiệp thành công, đánh thắng cuộc chiến tranh xâm lược của phát xít Đức-Nhật, dẫn tới sự ra đời của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới. Vào những thập niên 60 và 70 của thế kỷ 20, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô đạt được những thành công lớn, khiến cho Đảng và Nhà nước Xô-viết ngộ nhận là chủ nghĩa xã hội đã xây dựng xong và chủ trương Liên Xô bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa cộng sản. Sự thật thì cũng thời gian đó, nhiều nhược điểm và khuyết tật trong nội bộ Nhà nước Xô-viết cũng đã bắt đầu hé lộ, nhất là khi so sánh với những bước phát triển của hệ thống tư bản chủ nghĩa thời đó. 1.2.2. Nguyên nhân chủ quan Một là, hạn chế trong tổng kết thực tiễn, bổ sung lý luận của Đảng Cộng sản, nhà nước xã hội chủ nghĩa trong việc tìm kiếm mô hình phù hợp với quốc gia, dân tộc mình. Về mặt tổ chức, trong suốt quá trình tồn tại, phát triển của mình, Đảng Cộng sản Liên Xô chưa xây dựng được cơ chế hữu hiệu để đảm bảo dân chủ thực sự trong sinh hoạt Đảng. Đảng CSLX đã vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ trong suốt quá trình hoạt động. Theo chúng tôi, đây là điểm khởi thuỷ, nguồn gốc của mọi biểu hiện khác về sự thoái hoá của Đảng CSLX (quan liêu, tha hoá về tư tưởng chính trị, thoái hoá về đạo 6 Downloaded by hây hay ([email protected]) lOMoARcPSD|17838488 đức, lối sống, chia rẽ mất đoàn kết…). Ở đâu và khi nào trong sinh hoạt đảng thể hiện sục sôi dân chủ, thì đảng có sức sống mãnh liệt. Đảng Cộng sản Bôn – sê – vích Nga dưới thời lãnh đạo của Lênin là một ví dụ điển hình. Xét đến cùng, do thiếu dân chủ trong sinh hoạt Đảng nên cơ quan lãnh đạo của Đảng CSLX thiếu thông tin nhiều mặt về một vấn đề, đặc biệt là những vấn đề hệ trọng quan hệ đến sinh tồn của Đảng. Thiếu dân chủ cho nên trong sinh hoạt đảng thường là độc thoại một chiều từ những người lãnh đạo cao nhất, thiếu hẳn thông tin phản hồi từ dưới lên. Thiếu dân chủ, nên những đảng viên ưu tú, nhạy bén, sắc sảo, thông minh không có chỗ để thể hiện ý tưởng của mình. Trong một tổ chức như vậy, bộ tham mưu cao nhất không có đủ thông tin nhiều chiều, toàn diện, do đó những quyết định về đường lối, sách lược thường không phù hợp với thực tiễn, thậm chí trái ngược với quy luật, ngược với hiện thực khách quan. Phải chăng, đó là một trong những nguyên nhân căn bản dẫn đến tình trạng nghị quyết, chỉ thị rất nhiều nhưng việc đưa vào cuộc sống không được bao nhiêu. Trở lại với Đảng Cộng sản Liên Xô để chúng ta hiểu rõ vấn đề dân chủ trong đảng. Nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt Đảng được ghi rõ trong Điều lệ, Cương lĩnh của Đảng Cộng sản Bôn – sê – vích Nga từ năm 1903. Điều lệ Đảng Cộng sản Liên Xô, qua nhiều lần thay đổi, vẫn là một văn bản quy định rất chặt chẽ, rõ ràng quyền hạn và trách nhiệm của đảng viên. Tại sao không ngăn chặn được những biến thái lệch lạc của Xta – lin, Prêz-nhép, không ngăn chặn được hành vi lạm quyền, lộng quyền và phản bội của Góoc – ba – chốp? Cớ sao hàng chục triệu đảng viên Đảng Cộng sản Liên Xô không có phản ứng gì khi Góoc – ba – chốp tuyên bố giải tán Đảng? Thực tế xác nhận: Đảng CSLX trước đây không có lực lượng nào và không có cơ chế nào thực hiện giám sát và phản biện hoạt động của Tổng Bí thư, của Bộ Chính trị. Một nhóm nhỏ này, có khi chỉ dăm ba người nắm quyền lực tối cao, tự tung tự tác, ai có ý kiến khác sẽ bị họ chụp cho cái mũ là “chống đối”, “là phản động”, “là chống Đảng”, thậm chí là “phản bội Tổ quốc” … Do thiếu dân chủ trong sinh hoạt Đảng, mà một thời gian dài trước khi sụp đổ, tan rã, trong Đảng Cộng sản Liên Xô cũng như trong các Đảng Cộng sản ở các nước XHCN ở Đông Âu đã lặng lẽ diễn ra một quá trình phân hóa trong đảng, cả trong sinh hoạt 7 Downloaded by hây hay ([email protected]) lOMoARcPSD|17838488 Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị. Các đảng viên nghĩ một đằng phát biểu một đằng, không dám thể hiện chính kiến của mình ngay cả đối với vấn đề quan hệ đến sinh tồn của Đảng. Trong cuộc họp người ta nói một đằng, mà phần lớn không thật lòng, ngoài cuộc họp người ta nói riêng với nhau lại khác, cấp trên áp đặt, cấp dưới điều chỉnh hành vi cho phù hợp với cấp trên, mọi thông tin chính thức từ trên xuống và đặc biệt là từ dưới lên đều thiếu chân thật. Cũng do thiếu dân chủ trong sinh hoạt Đảng mà Đảng CSLX đã mắc sai lầm trong việc đánh giá cán bộ, đào tạo cán bộ, tuyển chọn và bố trí, sử dụng cán bộ vào vị trí chủ chốt trong Đảng, trong Nhà nước. Thiếu dân chủ là sinh ra thói nịnh bợ, luồn lọt, là điều kiện tốt cho chủ nghĩa thực dụng, cơ hội vị kỷ phát sinh tồn tại trong đảng, nhất là ở các cơ quan lãnh đạo cấp cao. Ai cũng biết cán bộ quyết định tất cả, và thực tiễn cũng xác nhận điều đó. Nhưng Đảng CSLX phạm sai lầm trong công tác sử dụng, bố trí cán bộ. Hai là, những yếu kém, khuyết điểm trong đường lối chính trị, sự vận hành kém hiệu quả của hệ thống chính trị và pháp luật xã hội chủ nghĩa. Đảng Cộng sản Liên Xô trở thành quyền lực tối cao, hòa trộn chức năng giữa Đảng và chính quyền, dẫn tới Đảng có sự bao biện, làm thay các cơ quan nhà nước, các tổ chức quần chúng, làm cho bộ máy của Đảng cồng kềnh, hoạt động kém hiệu quả, không tập trung được vào công việc chủ yếu của mình. Hệ thống điều hành tổng lực của đất nước xuất hiện sự già cỗi, chậm đổi mới; không có thiết chế kiểm soát quyền lực của Đảng Cộng sản và các cá nhân lãnh đạo Đảng. Mặc dù hệ thống giáo dục tốt, nền tảng dân trí cao nhưng thiếu phản biện xã hội thực sự khiến ban lãnh đạo Liên Xô không nhận thức được những khiếm khuyết của mình. Nhóm cải cách do Mikhail Sergeyevich Gorbachev đứng đầu vừa không thoát khỏi cách làm cũ, vừa mắc những sai lầm mới: biến phản biện xã hội thành một quá trình không kiểm soát được, biến hoạt động khoa học và lý luận của các cơ quan soạn thảo văn kiện nhiều khi thành một hoạt động dạng câu lạc bộ vô chính phủ. Bốn là, sự mâu thuẫn, mất đoàn kết, thiếu thống nhất trong nội bộ hệ thống xã hội chủ nghĩa 8 Downloaded by hây hay ([email protected]) lOMoARcPSD|17838488 Chính quyền Liên Xô trong giai đoạn cuối đã không nghiêm minh trong việc thực hiện pháp luật, kỷ luật đối với Đảng viên bị buông lỏng, cũng như những hạn chế trong việc thực hiện công bằng xã hội khi nhiều cán bộ thoái hóa đã tự cho mình được hưởng đặc quyền đặc lợi mà không bị pháp luật trừng trị V. I. Lê-nin đã nhấn mạnh: chuyên chính vô sản phải bảo đảm thực hiện nền dân chủ XHCN, nhân dân là chủ nhân xã hội và trực tiếp tham gia mọi công việc của nhà nước, nhân dân đóng vai trò ngày càng quan trọng trong công việc quản lý xã hội. Nhưng từ thời Stalin, Đảng Cộng sản Liên Xô ngày càng có xu hướng quan liêu, xa rời nhân dân mà không đề ra cơ chế nào để sửa chữa. Môi trường thiếu dân chủ, cơ chế tổ chức yếu kém, kỷ luật đảng lỏng lẻo. Tình trạng đặc quyền đặc lợi và quan liêu, "mua quan, bán chức" trong Đảng ngày càng nặng nề... Nguyên tắc tập trung dân chủ không được áp dụng triệt để, thậm chí còn bị giải thích sai lạc để bảo vệ lợi ích của những quan chức quan liêu. Một loạt lãnh đạo cao cấp ở Liên Xô và các nước XHCN ở Đông Âu đã nắm quyền suốt đời mà không bị giới hạn nhiệm kỳ. Nền dân chủ XHCN ở Liên Xô và các nước Đông Âu trên thực tế bị hạn chế rất nhiều so với các tuyên ngôn chính thức. Ngay cả văn học - nghệ thuật, khoa học xã hội và vai trò của nhân dân trong giám sát, phản biện các chính sách cũng bị hạn chế. Tình trạng ấy dẫn đến những bức xúc về tư tưởng, tinh thần trong xã hội không được giải tỏa, gây nên những rạn nứt trong quan hệ giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước. Thời kỳ xảy ra khủng hoảng ở Liên Xô và Đông Âu, người ta đã tiến hành điều tra xã hội học về Đảng: “Đảng Cộng sản Liên Xô đại biểu cho ai”. Kết quả cho thấy: Đảng Cộng sản Liên Xô đại biểu cho toàn thể nhân dân lao động chỉ chiếm 7 %, đại biểu cho công nhân chỉ chiếm 4 %, đại biểu cho toàn thể đảng viên cũng chỉ chiếm 11 %, còn cho rằng Đảng Cộng sản Liên Xô đại biểu cho giới quan chức của đảng, đại biểu cho cán bộ, đại biểu cho nhân viên công tác ở các cơ quan chiếm 85 %. 1.3. Ảnh hưởng của sự sụp đổ hệ thống XHCN tới Việt Nam 1.3.1. Tại thời điểm đó Năm 1991 - năm đánh dấu sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu phong trào cộng sản và công nhân quốc tế khủng hoảng trầm trọng, nhiều Đảng Cộng sản mất vị thế lãnh đạo. Các thế lực thù địch nhân cơ hội đó đã ra sức tuyên truyền, xuyên tạc; họ cho rằng, chủ nghĩa Mác – Lê-nin đã “lỗi thời” và đã diễn ra “sự 9 Downloaded by hây hay ([email protected]) lOMoARcPSD|17838488 kết thúc lịch sử” của chủ nghĩa xã hội. Diễn biến phức tạp của đời sống chính trị - xã hội thế giới đã tác động rất lớn đến công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chính trong thời điểm khó khăn đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 7 của Đảng Cộng sản Việt Nam (năm 1991) đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Bản Cương lĩnh đã đề cập đến 4 nội dung lớn về: quá trình cách mạng và những bài học kinh nghiệm; quá độ lên CNXH ở nước ta; những định hướng lớn về chính sách kinh tế, xã hội, quốc phòng – an ninh, đối ngoại; hệ thống chính trị và vai trò lãnh đạo của Đảng. Đối với nước ta, công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đổi mới đất nước theo định hướng XHCN, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn đặt trong tương quan với việc đánh giá về thời đại ngày nay. Cần khẳng định rằng, dù có nhiều biểu hiện mới, nhiều xu hướng phát triển mới, nhưng bản chất của thời đại ngày nay không thay đổi! Vì vậy, độc lập dân tộc phải luôn luôn gắn liền với CNXH là mục tiêu, lý tưởng duy nhất đúng mà toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta phải kiên định phấn đấu thực hiện trên con đường phát triển vì “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. 1.3.2. Hiện tại và trong quá trình tiến tới xây dựng CNXH ở Việt Nam Dù sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu diễn ra gần 30 năm, nhưng các phần tử cơ hội, phản động, xét lại vẫn coi đây là cái cớ không gì thuyết phục hơn để tiếp tục phủ nhận chủ nghĩa Mác nói chung, lý luận về CNXH nói riêng. Ở Việt Nam, không ít người hoài nghi về sự lựa chọn con đường đi lên CNXH của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đã xuất hiện những tư tưởng cơ hội đòi xét lại chủ nghĩa Mác, phủ nhận sự lựa chọn của Đảng Cộng sản Việt Nam, vì họ cho rằng, CNXH ở Liên Xô sụp đổ nhưng Việt Nam vẫn tiếp tục phát triển đất nước theo con đường XHCN. Những tư tưởng đó là biểu hiện của xu hướng “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, đe dọa trực tiếp đến sự tồn vong của Đảng, của chế độ mà Đảng ta luôn nhắc đến trong những năm gần đây. Đặc biệt, hiện nay, trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ cùng với sự phát triển bùng nổ của truyền thông xã hội, internet toàn cầu, những vấn đề nảy sinh từ mặt trái của kinh tế thị trường, những vấn đề nóng bỏng trước những tác động của an ninh 10 Downloaded by hây hay ([email protected]) lOMoARcPSD|17838488 truyền thống, an ninh phi truyền thống, tác động tiêu cực của tình hình thế giới đến đời sống xã hội như: Xung đột dân tộc, sắc tộc, tôn giáo, chủ nghĩa dân tộc, dân túy, tự do mới, dịch bệnh…, các thế lực thù địch, cơ hội chính trị, phản động tăng cường hoạt động với những chiêu thức, thủ đoạn mới chống phá CNXH, con đường đi lên CNXH ở Việt Nam. PHẦN II: KHẲNG ĐỊNH LỰA CHỌN CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHXH Ở VIỆT NAM LÀ ĐÚNG ĐẮN 2.1. Bối cảnh đi lên con đường CNXH ở Việt Nam Vào cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, một loạt các phong trào cứu nước ở Việt Nam thất bại, rơi vào một cuộc khủng hoảng về đường lối. Cách mạng nước ta không thể tiếp tục con đường mà những nhà yêu nước trước đây đã lựa chọn. Với sự ảnh hưởng của cách mạng tháng 10 Nga và Luận cương của Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định lựa chọn con đường cách mạng Việt Nam là cách mạng vô sản sau đó tiến lên xây dựng CNCS và CNXH. Sau đó, được tiếp cận nhiều với chủ nghĩa Mác – Lênin, Người đã tiếp thu và truyền bá tới nhân dân ta. Chủ nghĩa Mác – Lênin kết hợp với các phong trào trong nước dẫn tới sự ra đời của Đảng Cộng sản Đông Dương, đánh dấu bước chuyển biến của cách mạng, khẳng định mục tiêu lí tưởng con đường phát triển của Việt Nam là đi lên CNXH. Trước đây, khi còn Liên Xô và hệ thống các nước XHCN thế giới thì vấn đề đi lên CNXH ở Việt Nam dường như không có gì phải bàn, mặc nhiên coi như đã được khẳng định. Nhưng vào những năm cuối thế kỷ XX từ sau khi mô hình CNXH ở Liên Xô và nhiều nước Đông Âu sụp đổ, cách mạng thế giới lâm vào thoái trào thì vấn đề đi lên CNXH lại được đặt ra và trở thành tâm điểm thu hút mọi sự bàn thảo, thậm chí tranh luận gay gắt. Các thế lực thù địch, phản động thừa cơ công kích, xuyên tạc, âm mưu, chống phá. Trong hàng ngũ cách mạng cũng có người bi quan, dao động, nghi ngờ tính đúng đắn, khoa học của CNXH, quy kết nguyên nhân tan rã của Liên Xô và một số nước XHCN Đông Âu là do sai lầm của chủ nghĩa Mác – Lênin và sự lựa chọn con đường xây dựng CNXH. Trong những năm tiến hành công cuộc đổi mới, từ tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, Đảng Cộng sản Việt Nam từng bước nhận thức ngày càng đúng đắn hơn, sâu sắc 11 Downloaded by hây hay ([email protected]) lOMoARcPSD|17838488 hơn về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội; từng bước khắc phục một số quan niệm đơn giản trước đây như: đồng nhất mục tiêu cuối cùng của chủ nghĩa xã hội với nhiệm vụ của giai đoạn trước mắt; nhấn mạnh một chiều quan hệ sản xuất, chế độ phân phối bình quân, không thấy đầy đủ yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ, không thừa nhận sự tồn tại của các thành phần kinh tế; đồng nhất kinh tế thị trường với chủ nghĩa tư bản; đồng nhất nhà nước pháp quyền với nhà nước tư sản... 2.2. Vì sao khẳng định lựa chọn con đường đi lên CNXH ở nước ta là đúng đắn? Thứ nhất, việc quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là tất yếu khách quan, phù hợp với thực tế và xu thế phát triển của đất nước ta C. Mác đã cho rằng: “Tôi coi sự phát triển của những hình thái kinh tế – xã hội là một quá trình lịch sử – tự nhiên”. Theo chiều tiệm tiến thì việc phát triển tuần tự hay bỏ qua một hình thái kinh tế – xã hội đã lỗi thời lạc hậu, xây dựng hình thái kinh tế – xã hội tiến bộ hơn là hợp quy luật phát triển của xã hội loài người. Cả về lý luận và thực tiễn đều cho thấy, chủ nghĩa tư bản không phải là nấc thang phát triển cao nhất của xã hội loài người. Sự lựa chọn con đường nào phụ thuộc vào nhận thức và hoàn cảnh lịch sử - cụ thể của mỗi dân tộc. Nhưng, xu hướng phát triển chung là các dân tộc đều đi lên chủ nghĩa xã hội, dù cho con đường đó diễn ra lâu dài, gian khổ và cách thức tiến hành sẽ không giống nhau. Dựa vào tình hình của đất nước, ngay từ khi thành lập Đảng, nước ta đã xác định con đường đi lên xây dựng CNXH là mục tiêu và phù hợp với hoàn cảnh của Việt Nam. Trước đây, khi còn Liên Xô và hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa thế giới thì vấn đề đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam dường như không có gì phải bàn, nó mặc nhiên coi như đã được khẳng định. Nhưng từ sau khi mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và nhiều nước Đông Âu sụp đổ, cách mạng thế giới lâm vào thoái trào thì vấn đề đi lên chủ nghĩa xã hội lại được đặt ra và trở thành tâm điểm thu hút mọi sự bàn thảo, thậm chí tranh luận gay gắt. Các thế lực chống cộng, cơ hội chính trị thì vui mừng, thừa cơ dấn tới để xuyên tạc, chống phá. Trong hàng ngũ cách mạng cũng có người bi quan, dao động, nghi ngờ tính đúng đắn, khoa học của chủ nghĩa xã hội, quy kết nguyên nhân tan rã của Liên Xô và một số nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu là do sai lầm của chủ nghĩa Mác - Lênin và sự lựa chọn con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Từ đó họ 12 Downloaded by hây hay ([email protected]) lOMoARcPSD|17838488 cho rằng chúng ta đã chọn đường sai, cần phải đi con đường khác. Có người còn phụ hoạ với các luận điệu thù địch, công kích, bài bác chủ nghĩa xã hội, ca ngợi một chiều chủ nghĩa tư bản. Thậm chí có người còn sám hối về một thời đã tin theo chủ nghĩa Mác - Lênin và con đường xã hội chủ nghĩa! Thực tế có phải như vậy không? Chúng ta thừa nhận rằng, chủ nghĩa tư bản chưa bao giờ mang tính toàn cầu như ngày nay và cũng đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, nhất là trong lĩnh vực giải phóng và phát triển sức sản xuất, phát triển khoa học - công nghệ. Tuy nhiên, chủ nghĩa tư bản vẫn không thể khắc phục được những mâu thuẫn cơ bản vốn có của nó. Các cuộc khủng hoảng vẫn tiếp tục diễn ra. Đặc biệt là, năm 2008 - 2009 chúng ta đã chứng kiến cuộc khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế bắt đầu từ nước Mỹ, nhanh chóng lan rộng ra các trung tâm tư bản chủ nghĩa khác và tác động đến hầu hết các nước trên thế giới. Các nhà nước, các chính phủ tư sản ở Phương Tây đã bơm những lượng tiền khổng lồ để cứu các tập đoàn kinh tế xuyên quốc gia, các tổ hợp công nghiệp, tài chính, ngân hàng, thị trường chứng khoán, nhưng không mấy thành công. Và hôm nay, chúng ta lại chứng kiến cuộc khủng hoảng nhiều mặt, cả về y tế, xã hội lẫn chính trị, kinh tế đang diễn ra dưới tác động của đại dịch Covid-19 và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Kinh tế suy thoái đã làm phơi bày sự thật của những bất công xã hội trong các xã hội tư bản chủ nghĩa: đời sống của đa số dân cư lao động bị giảm sút nghiêm trọng, thất nghiệp gia tăng; khoảng cách giàu - nghèo ngày càng lớn, làm trầm trọng thêm những mâu thuẫn, xung đột giữa các sắc tộc. Những tình huống "phát triển xấu", những nghịch lý "phản phát triển", từ địa hạt kinh tế - tài chính đã tràn sang lĩnh vực xã hội, làm bùng nổ các xung đột xã hội, và ở không ít nơi từ tình huống kinh tế đã trở thành tình huống chính trị với các làn sóng biểu tình, bãi công, làm rung chuyển cả thể chế. Sự thật cho thấy, bản thân thị trường tự do của chủ nghĩa tư bản không thể giúp giải quyết được những khó khăn, và trong nhiều trường hợp còn gây ra những tổn hại nghiêm trọng cho các nước nghèo; làm sâu sắc thêm mâu thuẫn giữa lao động và tư bản toàn cầu. Cùng với khủng hoảng kinh tế - tài chính là khủng hoảng năng lượng, lương thực, sự cạn kiệt của các nguồn tài nguyên thiên nhiên, sự suy thoái của môi trường sinh thái... đang đặt ra những thách thức vô cùng lớn cho sự tồn tại và phát triển của nhân loại. Đó là hậu quả của một quá trình phát triển kinh tế - xã hội lấy lợi nhuận làm mục tiêu tối 13 Downloaded by hây hay ([email protected]) lOMoARcPSD|17838488 thượng, coi chiếm hữu của cải và tiêu dùng vật chất ngày càng tăng làm thước đo văn minh, lấy lợi ích cá nhân làm trụ cột của xã hội. Các cuộc khủng hoảng đang diễn ra một lần nữa chứng minh tính không bền vững cả về kinh tế, xã hội và môi trường sinh thái của nó. Theo nhiều nhà khoa học phân tích, các cuộc khủng hoảng hiện nay không thể giải quyết được một cách triệt để trong khuôn khổ của chế độ tư bản chủ nghĩa. Hai là, thực tiễn cách mạng và những thành tưu mà Đảng Cộng sản Việt Nam đạt được trong quá trình Đổi mới chính là minh chứng thuyết phục hơn hết Năm 1930, trong Cương lĩnh chính trị của mình, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chủ trương: “Tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân do giai cấp công nhân lãnh đạo, tiến lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa”. Vào những năm cuối thế kỷ XX, mặc dù trên thế giới chủ nghĩa xã hội hiện thực đã bị đổ vỡ một mảng lớn, hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa không còn, phong trào xã hội chủ nghĩa lâm vào giai đoạn khủng hoảng, thoái trào, gặp nhiều khó khăn, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn tiếp tục khẳng định: “Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”. Tại Đại hội toàn quốc lần thứ XI của Đảng (tháng 01/2011) trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta một lần nữa khẳng định: “Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”. Để có được quan điểm cũng như những lời khẳng định mạnh mẽ trên, Đảng CSVN và đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã rút ra bài học sâu sắc từ các cuộc cách mạng trên thế giới mà tiêu biểu là Cách mạng Tháng Mười của Liên Xô. Đồng thời, trong quá trình đổi mới, Đảng ta không ngừng xem xét, vận dụng sáng tạo, đúc rút kinh nghiệm và nhận thấy rằng Việt Nam có đầy đủ tiền đề, điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội để đi lên xây dựng con đường XHCN. Thực tiễn cách mạng ở đất nước ta trong hơn 90 năm qua kể từ khi có Đảng đã là minh chứng đầy sức thuyết phục cho sự lựa chọn CNXH của Bác Hồ, của Đảng CSVN và cũng là của nhân dân ta. Đi theo đường lối cách mạng của Đảng, chúng ta đánh đổ đế quốc, thực dân, giành và giữ vững độc lập, tư do. Chỉ mới 35 năm thực hiện đường lối Đổi mới, chúng ta đã đoàn kết toàn dân, khai thác các nguồn lực, lao động sáng tạo 14 Downloaded by hây hay ([email protected]) lOMoARcPSD|17838488 không ngừng để có tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế và quan trọng hơn là đời sống nhân dân ta đã được cải thiện một cách cơ bản. Những kết quả ấy bắt nguồn trực tiếp từ sự lãnh đạo của Đảng, từ sự lựa chọn CNXH của Đảng, Bác Hồ và Nhân dân ta. Đó là một thực tế rõ ràng, sáng tỏ và không thể phủ nhận! Thực tiễn đổi mới cũng chứng tỏ phát triển theo mô hình CNXH Việt Nam mà Đảng đã đề ra không chỉ có hiệu quả tích cực về kinh tế mà còn giải quyết tốt các vấn đề văn hóa, xã hội, môi trường tốt hơn nhiều so với các nước đi theo mô hình phát triển khác. Điều đó cũng chứng tỏ sự lựa chọn con đường phát triển XHCN và gắn độc lập dân tộc với CNXH là sự lựa chọn đúng đắn hợp quy luật khách quan và thực tiễn thời đại. Ba là, Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo công cuộc đổi mới toàn diện, luôn đồng bộ gắn với thực hiện độc lập, tự chủ và hiện đại hóa đất nước Công cuộc đổi mới, kết hợp phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại cùng các nguồn lực khác, như phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chuyển đổi cơ cấu sản xuất theo hướng đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và chủ động, tích cực tăng cường hợp tác, mở rộng hội nhập quốc tế đã đem lại những thay đổi to lớn, thành tựu có ý nghĩa lịch sử cho đất nước trong 35 năm thực hiện đường lối đổi mới. Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay” … Việt Nam kiên định đi theo con đường xã hội chủ nghĩa, là một hình mẫu đặc thù của chủ nghĩa xã hội với điểm xuất phát thấp và phải gánh chịu hậu quả chiến tranh nặng nề. Mỗi nhiệm kỳ đại hội của Đảng là một chặng đường, xác định đúng mục tiêu, nhiệm vụ và kết quả đạt được của nhiệm kỳ trước tạo tiền đề phát triển cho nhiệm kỳ sau. Những thành tựu to lớn ấy có được là do sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng - nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đại hội XIII của Đảng xác định tầm nhìn và định hướng phát triển đất nước trong những mốc lịch sử quan trọng: Một là, đến năm 2025, kỷ niệm 50 năm giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, Việt Nam phấn đấu trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp. Đảng ta đã đề ra các chỉ tiêu chủ yếu về phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 2025, trong đó: “Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 5 năm đạt khoảng 6,5 - 7%/năm. Đến năm 2025, GDP bình quân đầu người khoảng 4.700 - 5.000 USD”. Hai là, đến 15 Downloaded by hây hay ([email protected]) lOMoARcPSD|17838488 năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng, Việt Nam trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao “Bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, đổi mới mạnh mẽ mô hình tăng trưởng…; nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế”. Ba là, đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Việt Nam trở thành nước phát triển, thu nhập cao: “Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành một nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Không chỉ dừng lại ở việc lựa chọn con đường XHCN, Đảng CSVN đã không ngừng nghiên cứu lí luận kết hợp với thực tiễn phát triển của đất nước từ đó rút kinh nghiệm, sửa đổi và đưa ra những đường lối, chính sách đúng đắn, phù hợp đối với công cuộc quá độ lên CNXH ở Việt Nam. Đây là một sự nghiệp lâu dài, vô cùng khó khăn, phức tạp và chưa có trong tiền lệ lịch sử nhưng bằng sự kiên định và vững vàng trên nền tảng tư tưởng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh của Đảng; sự đồng lòng, đoàn kết của nhân dân chính là nguồn sức mạnh sâu xa trong công cuộc Đổi mới của nước ta. PHẦN III: NHẬN XÉT CỦA BẢN THÂN Sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu gần 20 năm nay đã trở thành chủ đề tuyên truyền của nhiều thế lực thù địch, rằng vận mệnh của chủ nghĩa xã hội đã kết thúc và tất cả các nước xã hội chủ nghĩa trước đây đang phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa. Trên thực tế không phải hoàn toàn như vậy. Tại lễ Kỷ niệm 90 năm Cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nông Đức Mạnh, trong bài phát biểu với nhan đề: “Tư tưởng vĩ đại của Cách mạng tháng Mười Nga đã chiếu sáng con đường đấu tranh giải phóng và tiến lên chủ nghĩa xã hội của dân tộc Việt Nam”, đã khẳng định, “cũng giống như nhiều cuộc cách mạng khác, cách mạng xã hội chủ nghĩa không thể tiến lên một cách dễ dàng, bằng phẳng mà phải trải qua nhiều thách thức, có 16 Downloaded by hây hay ([email protected]) lOMoARcPSD|17838488 lúc phải trải qua bước quanh của lịch sử, có những lúc thoái trào tạm thời, song loài người cuối cùng nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội vì đó là quy luật tiến hóa của lịch sử, sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu chỉ là sự đổ vỡ của một mô hình cụ thể của chủ nghĩa xã hội hiện thực, không phải sự sụp đổ của bản thân chủ nghĩa xã hội với tư cách là một nấc thang phát triển cao hơn chủ nghĩa tư bản trong tiến trình lịch sử” Như vậy, sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu là sự sụp đổ của một mô hình chủ nghĩa xã hội - mô hình chủ nghĩa xã hội tập trung, quan liêu, bao cấp, hành chính, mệnh lệnh, xa rời quần chúng nhân dân với nhiều khuyết tật, chứ không phải là sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội nói chung. Sự đổ vỡ của Liên Xô và Đông Âu, cũng cần phải nhìn nhận dưới một góc độ ngày càng đầy đủ hơn, không chỉ là một tổn thất, mà còn là một sự kiện để lại những bài học quý báu đối với Việt Nam trong công cuộc đi lên CNXH hiện nay. Tiêu biểu như: Kiên trì chủ nghĩa Mác – Lênin, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa; thường xuyên chăm lo xây dựng Đảng giữ vững vai trò lãnh đạo, gắn bó mật thiết với nhân dân; nâng cao cảnh giác, đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng và tiếp tục làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn, hoàn thiện hệ thống lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong tình hình mới. Trong những năm gần đây, những quan điểm sai trái, thù địch về con đường CNXH ở nước ta của một bộ phận các thế lực phản động đã ảnh hưởng không nhỏ tới lập trường tư tưởng, ý thức hệ cán bộ và nhân dân, đặc biệt là thế hệ thanh niên Việt Nam. Là thế hệ chưa hình thành và có lập trường rõ ràng, vững chắc về các đường lối, chính sách của Đảng nên việc bị kích động trong tư tưởng thường dễ dàng hơn. Đây cũng là thế hệ tương lai của đất nước, những người sẽ tiếp tục gánh vác công cuộc đi lên XHCN của dân tộc; vì vậy việc nhận thức đúng đắn của thế hệ trẻ Việt Nam về đường lối của Đảng CSVN là vô cùng cần thiết và quan trọng. Trước hết, mỗi thanh niên cần phải hiểu được tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội và bản chất của sự sụp đổ chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu. Mỗi thanh niên cần có ý thức, biện pháp đấu tranh với những quan điểm sai trái, thù địch về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, kiên định vào sự lựa chọn của dân tộc. Để thanh niên có lập trường đúng đắn và vững vàng như vậy, các tổ chức đoàn, hội các cấp cần có những nội dung, hình 17 Downloaded by hây hay ([email protected]) lOMoARcPSD|17838488 thức tuyên truyền, giáo dục về tư tưởng chính trị cho thanh niên, quan tâm đến việc định hướng dư luận cho thanh niên. Bên cạnh đó, việc giảng dạy các bộ môn chính trịlí luận tại các trường Đại học, Cao đẳng cũng là một cách để xây dựng một nền tảng vững chắc nhận thức đúng đắn cho thế hệ trẻ. Là một sinh viên của ngôi trường hàng đầu đất nước, cũng là thế hệ thanh niên, bản thân tôi cảm thấy may mắn khi mình được định hướng và tiếp nhân được một tư tưởng đúng đắn về con đường đi lên CNXH của Đảng CSVN. Sự kiên định và tin tưởng vào con đường của dân tộc ta chính là nguồn động lực to lớn giúp tôi nỗ lực học tập mỗi ngày và mong muốn đóng góp để xây dựng và phát triển đất nước. 18 Downloaded by hây hay ([email protected])
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan