Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Đại cương Tìm hiểu nền kinh tế nhật bản hiện nay...

Tài liệu Tìm hiểu nền kinh tế nhật bản hiện nay

.DOCX
27
390
145

Mô tả:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP TP.HCM KHOA KINH TẾ - CƠ SỞ THANH HÓA ----- ----- BÀI TIỂU LUẬN ĐỀ TÀI: TÌM HIỂU NỀN KINH TẾ NHẬT BẢN HIỆN NAY Giảng viên HD : Sinh viên TH : MSSV : Lớp : THANH HÓA, THÁNG 10 NĂM 2014 1 MỞ ĐẦU 1. Đôi nét về Nhật Bản trước thời kỳ 1952 – 1973 và lý do chọn đề tài: Nói tới Nhật Bản, không ít nhà nghiên cứu phương Tây cho rằng sự thành công trong phát triển kinh tế của Nhật Bản là kết quả của sự kết hợp khéo léo giữa “công nghệ phương Tây” và “tính cách Nhật Bản”. Trải qua những bước thăng trầm trong lịch sử, sự lớn mạnh của nền kinh tế đã làm cho Nhật Bản trở thành một trong những trung tâm kinh tế tài chính lớn nhất thế giới. Tại sao nước đi sau trên con đường tư bản chủ nghĩa - chìm đắm trong chế độ phong kiến lại vươn lên và phát triển mạnh mẽ đến vậy? Chúng ta sẽ cùng nhau đi sâu phân tích những đặc điểm dẫn tới sự phát triển thần kỳ của Nhật Bản (1952-1973). Nhật Bản nằm ở phía đông đại lục Âu Á với tổng diện tích là 377815 km2. Dân số Nhật Bản: 122,2 triệu người (vào năm 1987). Trong đó 99% là người Nhật . Điều kiện tự nhiên của Nhật Bản rất khắc nghiệt: thiên tai, bão lũ, động đất xảy ra thường xuyên. Hơn 2/3 diện tích Nhật Bản là đồi núi trong đó có hơn 30 ngọn núi lửa, đất đai trồng trọt ít, tài nguyên khoáng sản hầu như không có gì. Đặc biệt sau khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, nền kinh tế bị lâm vào khủng hoảng nhiêm trọng: 34% máy móc. 25% công trình xây dựng, 81% tàu biển bị phá hủy, sản xuất công nghiệp tháng 8-1945 tụt xuống còn vài phần trăm so với một vài năm trước đó, và chỉ bằng khoảng 10% mức trước chiến tranh (19344-1936), năng lượng thiếu, lạm phát nặng nề, 13,1 triệu người không có việc làm, đất nước bị quân đội Mỹ chiếm đóng... Dù vậy, sau đó Nhật Bản vẫn vươn lên hàng các cường quốc thế giới, đứng thứ hai sau Mỹ. Đặc biệt là giai đoạn 1952 - 1973. Trong giai đoạn này nền kinh tế Nhật Bản phát triển với nhịp độ rất nhanh, tốc độ tăng tổng sản phẩm quốc dân thực tế thường ở mức cao nhất trong các nước tư bản. So với năm 1950, giá trị tổng sản phẩm trong nước năm 1973 tăng 20 lần ( từ 20 tỷ USD lên 502 tỷ USD), vượt Anh, Pháp, CHLB Đức. Nhật Bản đã dẫn đầu các nước tư bản về tàu biển, xe máy, máy ảnh, tivi, vận tải đường biển... và nhanh chóng xây dựng nên các ngành kinh tế mũi nhọn dựa trên kĩ thuật công nghệ hiện đại. Nhật Bản đã khẳng định vị trí của mình và duy trì hình ảnh một siêu cường kinh tế khi bước vào thế kỷ XXI. CHƯƠNG 1. ĐẶC ĐIỂM CỦA NỀN KINH TẾ NHẬT BẢN GIAI ĐOẠN 1952-1973 Bằng sự cố gắng nỗ lực của toàn thể nhân dân với những chính sách và bước đi đúng đắn, Nhật Bản đã tạo nên một giai đoạn phát triển nhanh chóng với những biến đổi có tính chất liên tục và tăng nhanh về chất lượng. Về tốc độ tăng tổng sản phẩm quốc dân: Từ năm 1952 đến năm 1958 tăng 6,9% bình quân hàng năm, đến năm 1959 con số này là trên 10% và còn tăng liên tục trong những năm tiếp theo. Đến những năm 1970-1973, tốc độ tăng trưởng trung bình giảm xuống chỉ còn 7,8% nhưng vẫn cao hơn tiêu chuẩn quốc tế. Cơ cấu trong các ngành sản xuất có nhiều biến đổi ( bảng 1) BẢNG 1: Sản phẩm quốc dân thuần tuý của từng ngành sản xuất (Thể hiện qua chi phí của các yếu tố) (Đơn vị:Tỷ Yên. Tỷ trọng cấu thành: %) Năm 1952 Năm 1960 Năm 1968 Kim ngạch Tỉ trọng Kim ngạch Tỉ trọng Kim ngạch Tỉ trọng Nông lâm ngư nghiệp 1170 22.6 1941 14.6 4167 9.9 Khai mỏ 158 3.1 213 1.6 291 0.7 Công nghiệp chế tạo 1258 24.3 3891 29.3 12832 30.3 Ngành Xây dựng 201 3.9 733 5.5 2330 7.6 Điện lực, hơi đốt, cấp nước, vận tải, bưu điện 454 8.8 1224 9.2 3509 8.3 Thương nghiệp 844 16.3 2151 16.2 7413 17.5 Dịch vụ 1008 21.0 3141 23.6 10877 25.7 Tổng cộng 5173 100 13293 100 12299 100 (Nguồn “Niên báo thống kê thu nhập quốc dân” của Cục Kế hoạch kinh tế Nhật Bản) Năm 1952 tỉ trọng các ngành sản xuất thuộc khu vực I là 22,6% và có xu hướng giảm xuống, đến năm 1968 chỉ còn 9,9%. Ngược lại các ngành thuộc khu vực sản xuất thứ II ngày càng tăng, từ 40% năm 1952 đến 47% năm 1968. Còn khu vực sản xuất thứ III cũng tăng nhưng không nhiều: 39% (1952) lên 44% (1968). I. VỀ CÔNG NGHIỆP Tốc độ tăng trưởng công nghiệp thời kỳ 1950-1960 là 15,9% và trong thời kỳ 1960 - 1969 là 13,5%. Trong đó sự phát triển của các ngành công nghiệp chế tạo đóng vai trò hàng đầu trong sự phát triển kinh tế của Nhật Bản. 1. Về cơ cấu: Cùng với sự tăng trưởng kinh tế cao độ, từ những năm 1955 cơ cấu công nghiệp Nhật Bản tiến mạnh theo hướng công nghiệp hoá công nghiệp nặng và hoá chất với sự tăng nhanh về tỉ trọng : 48% năm 1951 đến 70% năm 1970. Cùng với đó là sự giảm mạnh của công nghiệp nhẹ : Từ khoảng 52% năm 1951 xuống còn 30% năm 1970. Chính sự công nghiệp hoá này là động lực cho sự tăng trưởng kinh tế Nhật Bản. Ngay chính trong các ngành công nghiệp nặng và hoá chất cũng có những sự biến đổi đáng kể. Tỉ trọng của nhóm ngành thuộc hệ vật liệu trong tổng giá trị của ngành công nghiệp chế tạo chiếm khoảng 26 - 27% (1951-1970). Mặt khác, tỉ trọng của nhóm ngành công nghiệp cơ khí tăng đáng kể từ 11% năm 1951 đến 24% năm 1960 và 32% năm 1970. Vì vậy, có thể khẳng định sự phát triển của công nghiệp nặng đạt được dựa trên cơ sở nòng cốt là phân ngành công nghiệp cơ khí . Bước vào thập kỉ 70, sự tăng trưởng cao độ đã bộc lộ những mâu thuẫn gay gắt đồng thời công nghiệp nặng và hoá chất bắt đầu xây dựng nền tảng cho việc chuyển hướng sang cơ cấu công nghiệp theo mô hình tiết kiệm tài nguyên và năng lượng. 2. Về quy mô : Đi đôi với sự thay đổi cơ cấu công nghiệp , quy mô của các công ty cũng có sự thay đổi. Từ năm 1955 đến 1970 tỉ trọng của các công ty vừa và nhỏ dưới 300 nhân viên có xu hướng giảm. Tuy nhiên, các công ty loại này vẫn chiếm tỉ trọng rất cao trong tổng số các loại công ty. Kim ngạch của chúng năm 1955 là 56,1% , năm 1965 là 49,9% và năm 1970 là 48,9%. Qua đó, chúng ta thấy rõ được xu hướng tập trung sản xuất và lực lượng sản xuất vào các công ty lớn. Đặc biệt là loại công ty trên 1000 nhân viên có tỷ trọng liên tục gia tăng.Về tổng số lượng lao động năm 1955 chiếm 14,6% , năm 1965 là 16,6% và năm 1970 là 17,5%. Về kim ngạch bán ra năm 1955 chiếm 23,5% , năm 1956 là 28,4% và năm 1970 là 30%. Xét riêng năm 1970 là năm co tỷ trọng công nghiệp nặng và hoá chất đạt cao nhất. Các công ty nhỏ chiếm 90% tổng số các công ty nhưng chỉ chiếm 16% kim ngạch bán ra. Ngược lại, các công ty khổng lồ chỉ chiếm 0.1% tổng số nhưng lại chiếm 17,5% tổng số nhân viên và 30% kim ngạch bán ra. Điều này cho thấy độ tập trung rất cao. Cùng với đó là sự thống trị của một số ít các công ty khổng lồ về vốn và đầu tư. Năm 1969 , loại công ty có tiền vốn trên 1 tỷ Yên chỉ chiếm 0.13% tổng số công ty nhưng lại chiếm 60,5% tổng số vốn. Các công ty này kết hợp với nhau thành các tập đoàn tạo ra sức mạnh to lớn chi phối nền kinh tế. 3. Về phân bố : Từ năm 1955, việc phát triển với tốc độ cao đã được chú ý tới. Theo kế hoạch tăng gấp đôi thu nhập sản xuất công nghiệp được bố trí dọc hai tuyến Tokai và Sanyo. Các xí nghiệp nằm chủ yếu trên khu vực vành đai nhưng hạn chế những khu vực đã công nghiệp hoá. Cũng do kế hoạch này sự chênh lệch thu nhập giữa các vùng ngày càng tăng nên Nhật Bản đã đề ra những kế hoạch phát triển trọng điểm nhằm hạn chế tình trạng trên. Đó là những quy định về thành phố công nghiệp mới, những vùng công nghiệp hoá đặc biệt. Các thành phố công nghiệp mới cũng rất khác nhau tuỳ theo từng khu vực. Vùng Okayama-Mitzushima có nhiều nhà máy đi vào hoạt động. Ngược lại, vùng Hyuga- Nobeoka lại không có mấy xí nghiệp hoạt động. II. VỀ NÔNG NGHIỆP Sau chiến tranh thế giới lần thứ II, Nhật Bản đã có nhiều chính sách để phục hồi nền nông nghiệp. So với trước đây, nông nghiệp của Nhật Bản đã đạt được tốc độ phát triển chưa từng có. Năng suất lao động tăng. Từ năm 1952 đến năm 1972, tổng số thời gian lao động giảm 61% và năng suất lao động tăng 4,22%. Bên cạnh đó, cơ cấu sản phẩm nông nghiệp cũng có sự thay đổi: Chăn nuôi tăng mạnh, hoa quả và rau màu tăng đáng kể, gạo tăng ổn định, nuôi tằm giảm sút, các loại ngũ cốc khác và khoai giảm mạnh. Từ đó đã làm ảnh hưởng ít nhiều đến quá trình phát triển sản xuất nông nghiệp: năng suất và sản lượng lúa gạo tăng làm cho gạo dư thừa, dẫn tới phải điều chỉnh sản xuất gạo; Việc sản xuất các loại ngũ cốc không phải gạo, nhất là lúa mạch có xu hướng giảm mạnh. Sản xuất ngũ cốc bị thu hẹp và phương thức sản xuất kinh doanh nhỏ nên ngành chăn nuôi dựa vào thức ăn nhập khẩu, không dựa vào sản phẩm của đất đai, đã buộc trở thành ngành sản xuất mang tính gia công. Từ ba đặc điểm trên, chúng ta sự mất cân đối và đầy mâu thuẫn, có ngành dư thừa, có ngành suy thoái, có ngành chăn nuôi không dựa vào cơ sở trong nước lại phát triển mạnh. Xét toàn bộ sản xuất nông nghiệp, có thể nói mặc dù sản lượng và năng suất lên cao nhưng tự túc lương thực giảm đi rõ rệt. Chẳng hạn, năm 1960 mức tự túc đạt 90% đến năm 1972 chỉ còn 73%. Về tình hình sản xuất nông nghiệp : + Về đất đai : Từ năm 1960 số hộ nông dân đã giảm 14.6% nên diện tích đất canh tác bình quân nông hộ tăng từ 10%. Nhưng tỉ lệ đất canh tác lại giảm mạnh nên qui mô kinh doanh của nông hộ đã thu nhỏ. + Về sự biến đổi trong đầu tư vật tư và công cụ : lượng phân bón không giảm nhưng vị trí của nó giảm rõ rệt trong đầu tư, công cụ. Tỉ trọng của thức ăn gia súc và máy công nghiệp đã vượt chi phí cho phân bón. Sự thay đổi cơ cấu trong chi phí kinh doanh nông nghiệp sau chiến tranh có thể nói là do sự phát triển của cơ giới hoá nông nghiệp và sự gia tăng nhập khẩu thức ăn gia súc. Sự cơ giới hoá nông nghiệp có ý nghĩa quan trọng trong việc thúc đẩy sản xuất nông nghiệp. Năm 1955 có hai triệu máy tuốt hạt. Máy làm đất năm 1955 có 90.000 đến năm 1960 lên 520.000 năm 1965 vọt lên 2.520.000... Đến năm 1970 đã hoàn thiện kỹ thuật cơ giới hoá toàn bộ việc trồng và thu hoạch lúa. Nhưng khi quá trình cơ giới hoá bước vào giai đoạn qui mô lớn, rồi đến đồng bộ hoá, thì kiểu kinh doanh tiểu nông đã không còn thích ứng nữa, việc cơ giới hoá đã tiết kiệm được lao động và làm tăng sản lượng trong điều kiện có sự ra đi của lực lượng lao động, nhưng chính nó cũng gây ra những khó khăn to lớn trong phương thức kinh doanh tiểu nông. Nó chèn ép kinh tế tiểu nông và giảm tỉ xuất thu nhập nông nghiệp. Riêng về mặt sản xuất, nó phá hoại hợp lý của kỹ thuật tiểu nông lám đảo lộn trật tự môi trường giữ tự nhiên và sản xuất nông nghiệp. + Về cơ cấu nông nghiệp: Cơ cấu nông nghiệp không có gì thay đổi mặc dù có sự biến đổi ghê gớm của phương thức kinh doanh nông nghiệp cũng như của kinh tế nông nghiệp nói chung. + Về tình hình kinh doanh nông nghiệp sau chiến tranh: đã có sự biến đổi. Sản xuất hàng hoá tăng từ 57,9% năm 1951 lên 85,6% năm 1971. Có hai xu hướng trong các lĩnh vực sản xuất là lúa gạo và sản xuất rau, hoa quả, chăn nuôi. Trong thời gian từ năm 1965 đến năm 1970 các lĩnh vực này đã có sự chuyên môn hoá. Sự phát triển của ngành nông nghiệp đã kéo theo nhiều sự biến đổi trong xã hội. Đó là sự xuất hiện của nhiều loại người mới trong quá trình sản xuất nông nghiệp, sự ra đời của nhiều kiểu tổ chức sản xuất trên cơ sở kết hợp giữa các nông dân. Các tổ chức này rất đa dạng về hình thức do chúng ra đời ở các thời kỳ khác nhau. Năm 1972 có sự biến động lớn trong tình hình cung cấp lương thực thế giới, giá ngũ cốc tăng vọt. Điều này đã làm cho nền sản xuất lương thực trong nước đã được chú ý nhiều hơn. III. VỀ GIAO THÔNG VẬN TẢI Cùng với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế nhu cầu về giao thông vận tải cũng tăng nhanh. Các phương tiện vận chuyển trong thời kỳ này cũng phát triển nhanh về số lượng. Đặc biệt, do Nhật Bản là một quần đảo lớn nên giao thông đường biển rất phát triển. Đến những năm 70, Nhật Bản đứng đầu các nước tư bản về vận tải đường biển. IV.VỀ NGOẠI THƯƠNG: Đây được coi là nhịp thở của nền kinh tế Nhật Bản. Từ năm 1950 đén năm 1971, kim ngạch ngoại thương tăng 25 lần từ 1,7 tỉ USD lên 43,6 tỉ USD. Trong đó xuất khẩu tăng lên 30 lần, nhập khẩu tăng 21 lần. Khối lượng xuất khẩu của ngành công nghiệp nặng và hoá chất tăng thêm 10% từ 62,4% năm 1965 lên 73% năm 1970. Đặc biệt là sự tăng nhanh của phân ngành cơ khí. Bảng 2 : Cơ cấu sản phẩm xuất khẩu (Đơn vị :%) Phân loại Năm 1960 Năm 1965 Năm 1969 Năm 1972 Tổng loại 100 100 100 100 Thực phẩm 6.3 4.1 3.6 2.3 Nguyên nhiên liệu 2.1 1.5 1.1 0.9 Hàng công nghiệp nhẹ 47.0 31.8 25.5 18.8 Hàng công nghiệp nặng, hoá 44.0 62.0 69.2 77.1 0.4 0.6 0.6 0.9 chất Các loại khác (Nguồn “Tình hình ngoại thương nước ta” của Bộ Tài chính Nhật Bản ) 1. Về thanh toán quốc tế: Trải qua nhiều bước thăng trầm, đó là những biến đổi có tính chất chu kỳ. Sau chiến tranh thế giới lần thứ 2, thanh toán quốc tế đã trở thành vấn đề quan trọng đối với nhiều nước và đặc biệt nó đã trở thành nguyên nhân quan trọng ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế Nhật Bản. Năm 1952, khi chiến tranh Triều Tiên kết thúc, cuộc chạy đua vũ trang chậm lại. Vì thế, xuất khẩu của Nhật Bản giảm sút cả về chất lượng và giá cả. Còn nhập khẩu thì vẫn tăng do đầu tư và tiêu dùng không giảm. Cán cân ngoại thương thâm hụt lớn. Chính phủ buộc phải trở lại chính sách thắt chặt tiền tệ vào tháng 10/1953. Đến năm 1954, nhập khẩu đã giảm, xuất khẩu được mở mộng, cán cân thanh toán dư thừa. Đến những năm 1956-1960, xuất khẩu tăng liên tục làm cho dự trữ ngoại tệ tăng lên, đạt 1,8 tỷ USD năm 1960. Từ đó sản xuất và tiêu dùng cũng được đẩy mạnh. Bước vào năm 1961, nhờ chính sách tăng trưởng kinh tế cao độ, hoạt động đầu tư trở nên sôi nổi. Vì thế, nhập khẩu tăng, bên cạnh đó xuất khẩu gặp khó khăn, cán cân thương mại lại thâm hụt lớn...Qua nhiều lần biến đổi đến năm 1969 bắt đầu có xu hướng dư thừa ổn định. Từ năm 1970, hoạt động xuất khẩu đựơc đẩy mạnh, đặc biệt là sang Mỹ đạt tốc độ trên 20%. Đồng Yên được tăng giá từ chỗ 1USD=360Yên đến 1USD=308Yên. Tuy nhiên, sự tăng giá này không đem lại nhiều hiệu quả. 2. Về đầu tư ra nước ngoài Khoảng năm 1953-1954, Nhật Bản đã phục hồi nền kinh tế, đạt mức trước chiến tranh. Cũng từ đó đến khoảng đầu thập kỷ 60, kinh tế Nhật Bản luôn phải đương đầu với nạn thâm hụt kinh niên trong cán cân buôn bán, thất nghiệp, lạm phát cao. Do đó, không có tiền để đầu tư ra nước ngoài. Bước vào thập kỷ 60, đầu tư ra nước ngoài liên tục phát triển, từ bình quân hàng năm 130 triệu đôla (1963-1965), 90triệu đôla năm 1970 đã tăng lên 3,5 tỉ đôla năm 1973. Thị trường đầu tư cũng có sự thay đổi. Trước đây, Nhật Bản chỉ chú trọng đầu tư vào Mỹ nhưng về sau đã chú trọng hơn đến các thị trường khác như Châu Á. Trong tổng số tiền đầu tư giai đoạn 1951-1960, khu vực Bắc Mỹ chiếm 40%, khu vực Trung Nam Mỹ 37%, Châu Á 21%, Châu Âu 1,5% và châu Đại Dương chiếm 0,9% Trong thời kỳ 1961-1965, đầu tư ra nước ngoài của Nhật Bản vào khu vức Trung Nam Mỹ và châu Á tăng nhanh chiếm 28%, Mỹ chiếm 26% và châu Âu chiếm 4%... Tóm lại, thời kỳ 1952-1973 là thời kỳ phát triển rất nhanh của nền kinh tế Nhật Bản. Tuy nhiên, sự phát triển này cũng gặp khó khăn và biến động. Từ năm 1951 đến năm 1973 đã có tất cả 7 thời kỳ ổn định và 8 lần suy thoái. Sự tăng trưởng cao độ luôn đi liền với lạm phát kéo dài. Nhưng dù sao đây cũng là giai đoạn Nhật Bản phát triển thần kỳ với tốc độ chưa từng có. Nó đã góp phần khôi phục kinh tế sau chiến tranh và đưa Nhật Bản trở thành một cường quốc kinh tế trên thế giới. Chương 2: NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN “THẦN KỲ” CỦA NỀN KINH TẾ NHẬT BẢN I. PHÁT HUY VAI TRÒ NHÂN TỐ CON NGƯỜI Trước hết, chế độ giáo dục ở Nhật bản khá phát triển và hoàn thiện. Kế thừa nền giáo dục của thời kỳ trước, từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, Nhật Bản đã khổ cập giáo dục hệ 9 năm. Người Nhật rất chú trọng đào tạo đội ngũ công nhân lành nghề, có đủ khả năng nắm bắt và sử dụng những kỹ thuật, công nghệ mới. Công nhân được đào tạo không chỉ trong các trường dạy nghề mà có thể đào tạo ngay trong các xí nghiệp. Đội ngũ cán bộ khoa học - kỹ thuật của Nhật Bản khá đông đảo, chất lượng cao đã góp phần vào sự phát triển nhảy vọt về kinh tế và công nghệ của đất nước. Giới quản lý và kinh doanh của Nhật được đánh giá là những người sắc xảo, nhạy bén trong việc nẵm bắt thị trường, đổi mới phương pháp kinh doanh, đem lại thắng lợi cho các công ty Nhật Bản trên thị trường quốc tế. Từ lâu, người Nhật được giáo dục theo đạo lý của đạo Khổng. Trong thời kỳ hiện đại, những đức tính cần kiệm, kiên trì, trung thành, tính phục tùng...vẫn được đề cao. Nghiên cứu “tính cách Nhật Bản”, các nhà nghiên cứu phương Tây đánh giá đây là một nhân tố chủ yếu dẫn đến sự thành công trong sự phát triển kinh tế của Nhật Bản. 1/ Tính truyền thống: Truyền thống Nhật Bản luôn luôn được kế thừa và phát triển cả trong nếp nghĩ, hành vi của mỗi công dân. Họ trân trọng những di sản tinh thần được gìn giữ từ ngàn xưa. Truyền thống đã hình thành, ổn định và càng củng cố trên cơ sở thừa kế và phát triển. Trân trọng các di sản văn hoá của quá khứ, người Nhật bảo lưu những tinh hoa của mình đã bám rễ trong cuộc sống. 2/ Tinh thần cộng đồng: Tinh thần cộng đồng ở Nhật Bản có đặc điểm là nó tạo ra một trật tự thứ bậc. Ý thức tôn trọng thứ bậc đã có từ lâu trong đời sống người Nhật. Sự phụ thuộc vào thủ lĩnh, lòng kính trọng các bậc cao niên gần như một biểu tượng tôn giáo. Tâm lý cộng đồng được nuôi dưỡng qua nhiều thế hệ và được thể hiện như một triết lý của con người trong lao động và trong sinh hoạt. Tập thể đóng vai trò quan trọng trong đời sống người Nhật. Để đạt đến sự nhất trí trong công việc người Nhật thường gạt bỏ cái tôi lại để đề cao cái chung, tìm sự hoà hợp giữa mình và những thành viên khác trong một tập thể. Tinh thần cộng đồng còn được thể hiện ở sự bình đẳng, chan hoà giữa những người quản lý và các nhân viên công ty. Tinh thần cộng đồng đã và đang là tiềm năng to lớn của dân tộc Nhật Bản. 3/ Lòng trung thành: Người Nhật Bản luôn đề cao tuyệt đối lòng trung thành.Trong quá trình sản xuất, lòng trung thành đã phát huy tác dụng mạnh mẽ, góp phần không nhỏ vào sự phát triển kỳ diệu của nền kinh tế Nhật Bản ngày nay. Lòng trung thành được thể hiện ở các mặt sau: + Thái độ làm việc: Mọi người dốc sức dốc lòng, nghiên cứu lao động để đạt được kết quả cao nhất. Họ luôn lấy mục tiêu phát triển kinh tế của đất nước đặt lên hàng đầu + Tính nhẫn nại: Mặc dù tính nhẫn nại không phải của riêng nhân dân Nhật Bản song dường như nó đã ăn sâu vào tiềm thức của mỗi con người nơi đây. Người ta cho rằng khả năng học tập và quyết tâm làm việc của người Nhật là do đặc tính này. + Tính tiết kiệm: Đầu những năm 60, khi thu nhập theo đầu người ở Nhật Bản còn thấp, họ đã có ý thức tiết kiệm dù là những cái nhỏ nhất trong đời sống để tăng thêm phần tiết kiệm cho đất nước. + Người lao động luôn sẵn sàng gắn bó cả cuộc đời với công việc, với xí nghiệp. Người Nhật nổi tiếng làm việc cần mẫn, xem công ty như gia đình của mình. Họ chia sẻ những khó khăn, những thăng trầm của nó dù ở đó họ chỉ là người làm thuê. 4/ Tính hiếu học: Nhật Bản luôn đầu tư tối đa cho giáo dục. Số lượng sinh viên, các nhà khoa học của Nhật được cử ra nước ngoài học tập và nghiên cứu cao nhất nhì thế giới. Con người Nhật học với phương châm: “Học hỏi phương tây, bắt kịp phương tây và vượt phương tây”. Chính vì vậy, Nhật Bản luôn tìm được những hướng đi đúng đắn. 5/ Tính sáng tạo: Tính sáng tạo là một phẩm chất gắn liền với lòng ham mê lao động của người Nhật Bản. Đức tính này đòi hỏi một cách tư duy tích cực, một óc tưởng tượng phong phú. Ở Nhật Bản, các nhà quản lý luôn tôn trọng ý kiến của công nhân.Ngay cả những ngành sản xuất ra đời sau và phát triển chậm, Nhật Bản cũng nhanh chóng vượt hẳn các nước có truyền thống để chiếm lĩnh vị trí hàng đầu thế giới cả về số lượng và chất lượng. 6/ Lòng ham mê lao động: Ở Nhật Bản, tinh thần tự giác, hăng say lao động luôn được đề cao. Người Nhật ý thức sâu sắc rằng nhờ lao động mà con người và xã hội mới tồn tại và phát triển. Họ luôn làm việc hết mình, tất cả phục vụ sự phát triển kinh tế của đất nước. Với lòng ham mê như thế, người Nhật đã làm cho nền kinh tế phát triển tới mức cả thế giới phải khâm phục và học hỏi. II. DUY TRÌ MỨC TÍCH LUỸ CAO THƯỜNG XUYÊN, SỬ DỤNG VỐN CÓ HIỆU QUẢ Với nền kinh tế Nhật Bản thì việc tích luỹ và sử dụng vốn sao cho có hiệu quả là một nguyên nhân quan trọng và gần như quyết định đến tăng trưởng kinh tế. 1. Xét quá trình tích luỹ vốn a) Vốn trong nước Những giải pháp tốt, chính sách đúng đắnđể duy trì mức tích luỹ cao của Nhật Bản là: Tận dung triệt để nguồn lao động trong nước, áp dụng chế độ tiền lương thấp, tiền thưởng.Tiền lương của công nhân Nhật Bản trong những năm 5060 rất thấp so với các nước tư bản phát triển. Trong các xí nghiệp lớn thì tiền lương công nhân Nhật Bản chỉ bằng 1/3 tiền lương của công nnhân Anh và Bằng 1/7 của Mỹ. Mặt khác, chế độ tiền lương và tiền thưởng cũng được vận dụng hết sức linh hoạt dưới nhiều mức lương và chênh lệch tiền lương tương đối khác nhau. Hình thức này đã động viên khuyến khích người lao động đông thời tiết kiệm triệt để chi phí sản xuất nhằm hạ giá thành sản phẩm. Từ đó, là cơ sở để tạo nên tích luỹ vốn cao hơn của các nhà tư bản. Bên cạnh mức tiền lương thì các nhà tư bản ở Nhật còn phân ra các hình thức thuê mướn công nhân khác nhau để trả lương. Có hình thức những người làm việc không thường xuyên và hình thức công nhân được thuê mướn suốt đời. Hình thức công nhân được thuê mướn suốt đời nghĩa là người lao động được nhận vào làm việc trong suốt cuộc đời hoạt động của mình, tiền công của anh ta được tăng không phụ thuộc vào năng suất lao động theo sự trung thành của anh ta với công ty. Như vậy người lao động hoàn toàn bị trói chặt vào xí nghiệp. Anh ta có được công ăn việc làm thường xuyên và đảm bảo mọi quyền lợi cho dù công ty đó có phát đạt không. Đây là một hình thức độc đáo của nền kinh tế Nhật Bản.Với những người lao động không thường xuyên nghĩa là làm tại nhà, lao động “thời vụ”, làm công trong các gia đình. Đây là những người lao động nông nghiệp, buộc phải có hoạt động phụ trợ. Theo thống kê Nhật Bản cho thấy 5,4 triệu gia đình nông dân chỉ có 1,1 triệu sống hoàn toàn bằng nghề nông. Chế độ trả lương là một trong những nét đặc trưng của chế độ thù lao của các công ty Nhật Bản, được trả hai lần trong năm dưới hình thức gia tăng. Chế độ này rất có lợi cho các công ty vì nó là thứ lương trả chậm, cho phép các công ty có thể sử dụng số tiền đó cho đến khi trả tiền thưởng. Đứng trên quan điểm quốc gia, tiền thưởng được xem như một nhân tố chủ yếu khiến cho cả gia đình Nhật giành được một tỷ lệ tiết kiệm cao.Về mặt quản lý công ty, chế độ tiền thưởng là một hình thức trả tiền tuỳ thuộc vào thành tựu thích đáng liên tục của công ty về mặt tài chính. Như vậy chế độ trả lương và chế độ trả thưởng là những nét đặc trưng của kinh tế Nhật Bản. Chính nó đã tạo ra nguồn vốn hết sức quan trọng cho tu bản độc quyền Nhật Bản sử dụng để tái sản xuất mở rộng hay là nhân tố quan trọng nhất để đạt mức tích luỹ vốn cao và hạ giá thành sản phẩm, tăng sức cạnh tranh trên thị trường. Để tạo vốn cho quá trình phát triển kinh tế , Nhật Bản đã chú ý khai thác và sử dụng tốt nguồn tiết kiệm cá nhân. Ở Nhật Bản, mỗi gia đình đều gửi tiết kiệm, tham gia bảo hiểm hoặc cũng có nhiều gia đình còn giành tiền mua quốc trái và trái phiếu do công ty phát hành. Tính chung cứ năm gia đình thì có một gia đình dành tiền và hiện đang có cổ phần. Theo thống kê từ năm 1961 đến năm 1967 tỷ lệ gửi tiết kiệm trong thu nhập quốc dân là 18.6%, cao hơn gấp hai lần của Mỹ (6.2%) và Anh (7.7%). Năm 1968 đến năm 1969 tổng số tiền tiết kiệm lên tới 157.5 tỷ USD. Tính trung bình mỗi người dân Nhật có số tiền tiết kiệm là 1.55 USD. Vậy nguyên nhân nào đã tạo nên hiện tượng đặc biệt này? + Do sự tăng trưởng cao đã tạo nên sự gia tăng về thu nhập, mức tiêu dùng bao giờ cũng tăng chậm so với thu nhập. Do đó khoảng chênh lệch giữa thu nhập và tiêu dùng được đưa vào tiết kiệm. + Do chế độ bảo hiểm xã hội ở Nhật chưa phát triển nên người ta có tâm lý gửi tiền tiết kiệm phòng xa cho tuổi già. + Do phần lớn người Nhật ở nhà thuê, tiền thuê nhà đắt nên họ muốn tiết kiệm để xây nhà riêng. + Do giá trị tiền gửi tiết kiệm được bảo đảm và hệ thống thu trả tiền tiết kiệm thuận lợi cũng là một nhân tố quan trọng làm cho tỷ lệ gửi tiết kiệm ở Nhật Bản cao. + Do số người trong từng gia đình giảm dần dẫn đến giảm chi phí cho tiêu dùng. Ngoài ra, một số học giả còn đi sâu nghiên cứu để tìm ra nguyên nhân. Và họ cho biết rằng đặc trưng tâm lý người Nhật là thận trọng của cải và luôn cảm thấy phải tiêu dùng đúng mức. Khuynh hướng này bắt nguồn từ truyền thống khắc khổ và thanh đạm của nhân dân Nhật. Mặt khác, việc giảm đi chi phí trong ngành quân sự cũng góp phần nâng cao tích luỹ. b. Vốn nước ngoài: Có thể khẳng định rằng người Nhật rất giỏi trong việc huy động vốn nội bộ cho phát triển kinh tế nhưng không thể phủ nhận vai trò của nguồn vốn nước ngoài. Nhất là nguồn viện trợ chính thức (ODA) chủ yếu được dành cho việc cải tạo, hiện đại hoá cơ sở hạ tầng và phát triển công nghiệp nặng. Bên cạnh đó, nguồn vốn Mỹ đầu tư vào Nhật trong giai đoạn chiến tranh ở Trung Quốc, Triều Tiên là một điều kiện thuận lợi. Nhật đã thu được nhiều lợi nhuận nhờ những đơn đặt hàng và không phải chi phí nhiều cho quân sự .Một hình thức nữa đó là việc Nhật đầu tư ra nước ngoài đem lại lợi nhuận cho Nhật Bản. c. Mối quan hệ giữa tích luỹ và tiêu dùng: Mối quan hệ này có phần quan trọng quyết định tới đầu tư vào tái sản xuất mở rộng. So với các nước tư bản khác thì phần tiêu dùng liên tục giảm xuống và phần tích luỹ tăng lên tương ứng. Trong khi đó, nhịp độ tăng tổng sản phẩm quốc dân thường xuyên cao và đạt 11,65% vào những năm 19611966. 2/ Xét quá trình sử dụng vốn: Nhật Bản được coi là một nước sử vốn táo bạo và có hiệu quả. Trước hết, Nhật Bản tập trung vào những ngành sản xuất lớn, hiện đại và có hiệu quả cao. Quá trình tích tụ và tập trung sản xuất diễn ra nhanh chóng, đạt trình độ và quy mô quốc tế. Vốn được tập trung vào hai lĩnh vực: * Đầu tư trong nước: Phần lớn vốn được đầu tư vào các ngành then chốt như luyện kim, đóng tàu, chế tạo máy, hoá chất, điện tử... Với bối cảnh nước Nhật sau chiến tranh, tuy bị thiệt hại nhiều song cũng có nhiều điều kiện trong nước và quốc tế thuận lợi. Và người nhật đã biết tận dụng những điều kiện đó cho việc lựa chọn và đầu tư vốn. Chẳng hạn, đầu những năm 1970, các nguồn cung cấp giá rẻ các loại nguyên liệu cần thiết cho công nghiệp nặng và hoá chất ổn định. Việc xây dựng những cơ sở công nghiệp lớn dọc theo bờ biển phía đông (Tokyo, Osaka, Aichi) cũng như việc chế tạo những tàu chở dầu và tàu chuyên dụng khổng lồ đã góp phần làm giảm chi phí vận tải, phát huy thế mạnh của cơ cấu công nghiệp và cơ cấu xuất nhập khẩu. Bên cạnh đó Nhật đã tập trung xây dựng phát triển công nghiệp năng lượng, áp dụng ráo riết các thành tựu khoa học kỹ thuật vào lĩnh vực kinh tế. Khoa học điện tử và điều khiển học được ứng dụng rộng rãi tăng cường tự động hoá trong các nhà máy điện. Điều đó đã tiết kiệm được chi phí sản xuất, kiểm soát lao động làm cho năng suất tăng nhanh. Trong 10 năm (1956- 1966) sản xuất điện năng tăng từ 73,6 tỷ km/h lên 204 tỷ km/h, nghĩa là gấp 2,8 lần. Cùng với điện, than cũng là một nguồn nguyên liệu hết sức quan trọng. Sau chiến tranh, Nhật cũng coi trọng và đẩy mạnh khai thác than. Nhà nước cùng các tổ chức độc quyền đẩy mạnh công tác thăm dò và sử dụng nhiều phương tiện nhằm đẩy nhanh sự phát triển của công nghiệp than. Năm 1957 sản xuất được 52,2 triệu tấn, năm 1961 đã đạt 55,4 triệu tấn. Tuy nhiên, sản xuất than vẫn chậm và Nhật vẫn phải nhập khẩu. Công nghiệp khai thác và chế biến dầu lửa, khí đốt, thăm dò quặng uran và xây dựng các nhà máy điện nguyên tử cũng được chính phủ và các tổ chức độc quyền quan tâm, tập trung vốn để phát triển. Ngành luyện thép của Nhật được chính phủ tham gia vạch ra ba chương trình phát triển luyện kim trong nước. Chương trình đầu tiên đặc biệt chú ý đến luyện thép, đổi mới và hiện hoá thiết bị cán thép (19511955). Chương trình thứ hai (1956-1960) đầu tư vào luyện kim. Chương trình thứ ba (1961-1965) phát triển luyện kim của Nhật. Để thực hiện ba chương trình này, Nhật đã phải đầu tư khá nhiều vốn nhưng hiệu quả lại cao.Nhật đảm bảo được nhu cầu trong nước cũng như việc xuất khẩu vật liệu thép.Ngoài ra, các ngành công nghiệp chế tạo máy,công nghiệp hoá lọc dầu và công nghiệp hoá chất được chú ý phát triển mạnh.Công nghiệp đóng tàu là một trong những ngành được chính phủ Nhật đặc biệt quan tâm kể từ sau chiến tranh thế giới thứ hai vì nó là một ngành có ý nghĩa to lớn đối nới sự phát triển các hạm đội và xuất nhập các sản phẩm. Trong vấn đề đổi mới tư bản cố định, nhà nước đã ban hành chế độ khấu hao ưu đãi. Chế độ này ra đời đòi hỏi phải nhanh chóng tăng thêm tư bản cố định kể cả các ngành mới. Xuất phát từ những nhu cầu mới của quả trình sản xuất, tức là sự cần thiết phải mở rộng quy mô, đổi mới tư bản cố định. Quá trình đổi mới này diễn ra rất phức tạp. *Vấn đề đầu tư trực tiếp ra nước ngoài: Nhật bắt đầu đầu tư ra nươc ngoài từ năm 1951, khi nềnkinh tế khôi phục được ngang chiến tranh. Do vậy, quá trình đầu tư này còn chậm. Từ năm 1964 trở đi, khi cán cân thanh toán thường nhật đã chuyển thặng dư và nền kinh tế đạt tốc độ phát triển thần kỳ thì đầu tư của nhật ra nước ngoài tăng nhanh chóng.Nhật trở thành một trong những nước đàu tư ra nước ngoài chủ yếu trên thế giới.Nhật thường đầu tư vào những nước có thị trường tiêu thụ lớn, giầu khoáng sản. Hình thái đầu tư ra nước ngoài có 4 loại: Mua chứng khoán, mua trái phiếu, kinh doanh trực tiếp ở nước ngoài và đầu tư qua công ty chi nhánh.Tỷ trọng của các hình thái này thay đổi theo thời gian. Sự đầu tư ra nước ngoài của Nhật có một số đặc điểm sau: + Đầu tư ra nước ngoài tập trung vào khai thác mỏ, nông lâm nghiệp, hải sản...ở những nước có nguồn tài nguyên thiên nhiên dôi dào và đầu tư vào các ngành chế tạo (chủ yếu ở châu á và các nước Trung Nam Mỹ), thương nghiệp (ở những nước có công nghiệp phát triển mà trọng tâm là thị trường Mỹ) + Quá trình đầu tư được phân thành các giai đoạn.Giai đoạn đầu nhật ra sức tìm kiếm thị trường xuất khẩu để lấy thế cân bằng trong cán cân thanh toán quốc tế thường xuyên thiếu hụt (1951-1960). Giai đoạn hai (1960-1973) đầu tư vào công nghiệp hoá ở Trung Nam Mỹ và nhiều nước Châu Á tăng lên và bước đầu đi vào khai thác thị trường, tiếp tục mở rộng vốn đầu tư. III. TIẾP CẬN VÀ ỨNG DỤNG NHANH CHÓNG NHỮNG TIẾN BỘ KHOA HỌC-KỸ THUẬT Sau khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, Nhật Bản là một nước lạc hậu so với các nước tư bản khác.Nhưng cũng ngay trong những năm thángkhó khăn đó, Nhật đã giành một số vốn lớn cho việc nghiên cứu phát triển khoa
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan