L£ NGUY£N CÈN
TIÓU THUYÕT PH¦¥NG T¢Y
THÕ KØ XIX
NHÀ XUẤT BẢN ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
2
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU .............................................................................................. 5
Chương một. KHÁI LƯỢC VỀ TIỂU THUYẾT PHƯƠNG TÂY THẾ KỈ XIX ......... 7
I. Chủ nghĩa lãng mạn ................................................................................. 9
II. Chủ nghĩa hiện thực .............................................................................. 27
Chương hai. TIỂU THUYẾT LÃNG MẠN VICTOR HUGO .............................. 56
Chương ba. ĐẠI TỰ SỰ Ở BALZAC ........................................................... 136
Chương bốn. TIỂU THUYẾT CỦA CHARLES DICKENS .............................. 195
Chương năm. CÁC TIỂU THUYẾT CỦA G. DE MAUPASSANT
VÀ A.DAUDET .................................................................... 235
1. G.de Maupassant ................................................................................ 235
2. Al. Daudet ............................................................................................ 271
PHỤ LỤC……………........................................................................................ 299
Thể loại tiểu thuyết dòng sông (roman fleuve)
trong văn học Pháp thế kỷ XX ................................................................ 301
Các loại nhân vật trong sáng tạo của W.Faulkner .................................. 315
Tính thời gian và tính không gian trong văn bản văn học ....................... 323
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 346
3
4
LỜI NÓI ĐẦU
Thế kỉ XIX là một thế kỉ vĩ đại trong lịch sử tiểu thuyết phương
Tây. Từ bờ bên này của Đại Tây dương cho đến bờ bên kia của Đại Tây
dương, từ khắp mọi miền đất khác nhau của Cựu lục địa lẫn Tân lục địa,
đều đã nổi lên một loạt các tài năng văn chương sáng giá cùng với hàng
loạt các tiểu thuyết có quy mô đồ sộ, có chất lượng và số lượng đáng nể
phục. Việc nghiên cứu tiểu thuyết thế kỉ XIX ở phương Tây là một thách
thức không nhỏ bởi tính chất đa dạng và phong phú cực kì của nền tiểu
thuyết này.
Chuyên luận Tiểu thuyết phương Tây thế kỉ XIX, có mục tiêu khiêm
tốn. Một mặt, nó làm nhiệm vụ tiếp nối chuyên luận Tiểu thuyết phương
Tây thế kỉ XVIII; mặt khác cố gắng mở rộng việc tiếp cận sang một thế kỉ
văn chương mới. Tuy nhiên chuyên luận cũng chỉ khuôn lại trong một
phạm vi hẹp với các kiến giải lí thuyết chung gắn với tiểu thuyết của thế
kỉ này (chương một) và các kiến giải làm sâu sắc thêm sự hiểu biết về
các đại diện tiêu biểu gắn với chương trình Ngữ Văn nước ngoài bậc Đại
học và Cao đẳng Sư phạm (các chương 2, 3, 4, 5) mà không đề cập đến
toàn bộ các tiểu thuyết gia của thế kỉ này. Như vậy, qua cách thức tiếp
cận mới, chủ yếu từ bình diện thi pháp học và cấu trúc ngữ nghĩa, các
kiến giải được đưa vào trong chuyên luận này sẽ góp phần mở rộng
nhận thức về lí thuyết tiểu thuyết lẫn nhận thức về hiện thực của một
thế kỉ sôi động mà không có thế kỉ văn chương này sẽ không có sự
vượt trội về mặt kĩ thuật và đa dạng hóa hình thức thể loại ở thế kỉ XX.
Tiểu thuyết thế kỉ XIX đạt tới sự kết tinh mang tính chất cổ điển mà
đóng góp của nó là vô giá trong lịch sử văn chương nhân loại, gắn với
sự trưởng thành của nhân loại trên các cấp độ: nhận thức lí tính, tư
duy khoa học và bản lĩnh con người, vốn là ba đại tự sự có tính huyền
thoại của văn chương châu Âu.
5
Hy vọng chuyên luận sẽ mang lại nhiều điều bổ ích và lí thú.
Chúng tôi chân thành cảm ơn Ban Giám đốc Nhà xuất bản Đại học Quốc
gia đã tạo điều kiện cho chuyên luận được ra mắt độc giả. Mọi ý kiến
đóng góp chân thành nhằm làm cho chuyên luận hoàn thiện hơn là điều
mong mỏi của chúng tôi. Xin được trân trọng cảm ơn.
Tác giả
6
Chương một
KHÁI LƯỢC VỀ TIỂU THUYẾT PHƯƠNG TÂY THẾ KỈ XIX
Trước hết, thế kỉ XIX là thế kỉ của những biến đổi lớn lao. Cuộc
Cách mạng tư sản Pháp 1789 mở ra thế kỉ XIX, mở ra một kỉ nguyên mới
trong lịch sử phát triển của nhân loại: kỉ nguyên phát triển tư bản chủ
nghĩa trên phạm vi toàn cầu. Cuộc cách mạng này còn là tiếng sét kinh
hoàng làm chấn động châu Âu phong kiến, xé tan đám mây mù ảm đạm
bao phủ khu vực này. Trật tự xã hội mới được thiết lập, củng cố và cùng
với cái trật tự mới ấy là một quan hệ sản xuất mới: quan hệ sản xuất tư
bản chủ nghĩa. Cơ chế của quan hệ này là cơ chế trả tiền ngay, là sự tính
toán lạnh lùng, không tình nghĩa. Ánh hào quang của thế kỉ Ánh sáng
cùng với ảo tưởng của các vị vua sáng suốt, anh minh kiểu Zadig của
Voltaire đã lùi vào dĩ vãng. Giai cấp tư sản tách khỏi đẳng cấp thứ ba,
trở thành người thống trị và điều hành xã hội mới.
Nếu nền cộng hoà I do giai cấp tư sản sáng lập dựa vào thanh
kiếm của Napoléon Bonaparte để tồn tại thì cũng chính viên tướng này
đã tiến hành cuộc chính biến ʺNgày 18 tháng Sương mùʺ (tức ngày
9/11/1799) để lập ra chế độ Tổng tài. Năm 1804, Napoléon Bonaparte trở
thành Hoàng đế của Đế chế I và tiến hành thiết lập sự bất bình đẳng ở
các xứ sở khác. Tiếng ngựa hí và tiếng đại bác của quân đội Napoléon
Bonaparte đã làm rung chuyển, lung lay, rạn vỡ hệ thống thành trì
phong kiến châu Âu. Năm 1806, quân đội Napoléon đại thắng ở
Auxteclit, trận đánh được giới sử học gọi là “trận đánh ba hoàng đế”.
Năm 1812, nhân dân Nga đón tiếp quân đội Pháp bằng trận Bôrôđinô lịch
sử. Đến năm 1815, Napoléon Bonaparte kết thúc sự nghiệp lừng lẫy của
mình bằng thảm bại ở Oateclô. Dòng họ Bourbons giành lại vương miện
đã bị mất từ Cách mạng tư sản 1789, nhưng trật tự tư sản đã được xác
lập vững chắc, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đã bén rễ sâu vào đời
sống xã hội. Do đó, trên nền tảng một xã hội đầy rẫy bất bình như vậy,
7
các mâu thuẫn lớn của xã hội bộc lộ và tác động vào văn đàn, được giới
văn nhân tiếp nhận với một thái độ bất mãn, với những phản ứng khác
nhau. Chủ nghĩa lãng mạn trở thành phản ứng đầu tiên của tầng lớp trí
thức đương thời khi nhìn nhận và đánh giá trật tự tư sản mới được thiết
lập.
Nhưng lịch sử vẫn không ngừng diễn ra những cuộc thay đổi lớn.
Năm 1830, quần chúng Paris tiến hành một cuộc cách mạng lớn lật đổ
vương triều Bourbons và cũng như trước đây, giai cấp tư sản nhanh tay
gặt hái thành quả của cách mạng. Nền Quân chủ tháng Bảy được xác lập
và Louis Phillipe, ông vua của các chủ ngân hàng lên trị vì, mở ra thời
đại mọi người đổ xô chạy theo khẩu hiệu ʺHãy làm giàuʺ; thời đại ʺvàng
thay kiếmʺ điều hành xã hội. Các cuộc cách mạng xảy ra vào năm 1848
đánh dấu một bước chuyển biến mới: giai cấp vô sản bước lên vũ đài
chính trị và trở thành một lực lượng chính trị quan trọng của xã hội mới.
Năm 1851, Louis Napoléon, cháu của Napoléon Bonaparte, lật đổ nền
cộng hoà II và lập nền Đế chế II. Chính sách thực dân trở thành quốc
sách, giai cấp tư sản Pháp vươn bàn tay tới các miền thuộc địa để vơ vét,
làm giàu. Năm 1870, nền đế chế này bị lật đổ và năm 1871, giai cấp vô
sản tiến hành cuộc tổng diễn tập đầu tiên của nó với khí thế ʺxông lên
đoạt trờiʺ bằng Công xã Pari kéo dài một trăm ngày. Sau Công xã Pari,
nước Pháp bước vào nền cộng hoà III và thế kỉ XIX khép lại bức tranh
đầy những biến đổi lớn lao phức tạp trên bình diện chính trị xã hội tư
sản nói cái chết của văn hào Victor Hugo ‐ 1885 ‐ để bước vào thế kỉ XX.
Trên bối cảnh phức tạp của thế kỉ ấy là sự phát triển đa dạng và
cũng không kém phần phức tạp của nhiều khuynh hướng văn học khác
nhau với nhiều đại diện ưu tú, nhiều tác phẩm văn học lãng mạn và văn
học hiện thực kiệt xuất dường như song song tồn tại và phát triển. Đây
là thế kỉ của những tên tuổi như: Chateaubriand, Lamartine, Musset,
Vigny, G.Sand, Stendhal, Balzac, Flaubert, Maupassant, Mérimée…trong
văn học Pháp. Vào cuối thế kỉ còn có các tên tuổi như Baudelaire,
Verlaine, Rimbaud, và E.Zola, đại diện của chủ nghĩa tự nhiên trong văn
học. Thế kỉ này cũng được đánh dấu bằng nhiều sự kiện văn học, bằng
nhiều tuyên ngôn văn học với những quan điểm văn học mới mẻ, đầy
8
tính cách mạng và sáng tạo. Đó là quan điểm của Stendhal trong tiểu
luận ʺRacine và Shakespeareʺ, ở đó ông nhấn mạnh ʺtính quy định lịch sử
của lý tưởng thẩm mỹ, tính tương đối của cái đẹp, chống quan niệm duy
tâm về một cái đẹp tuyệt đối cho mọi nơi, mọi thời đạiʺ. Các vấn đề liên
quan đến chủ nghĩa hiện thực cũng được Balzac đề cập đến trong bài
Tựa Tấn trò đời nổi tiếng ‐ viết vào năm 1942. Tuyên ngôn của chủ nghĩa
lãng mạn là bài Tựa Cromwell của V. Hugo, được công bố năm 1827.
Nước Anh,với sự xác lập vững chắc của chủ nghĩa tư bản cũng
vươn tới đỉnh cao văn học, tiêu biểu là nền văn học Hiến chương và thời
đại Victoria, với các đại diện như S.Dickens, W.Thackeray, W,Scott,
G.Byron, P.B Shelley…Nước Mỹ cũng vươn mình dậy, khẳng định vai
trò của Tân lục địa với các tên tuổi như W.Irving, J.F.Cooper, E.A.Poe,
H, B.Stowe, Mark Twain… Còn nước Nga cất tiếng nói khẳng định mình
qua các đại diện bậc thầy như L.Tolstoi, F.Dostoievski, A.Sekhov;
A.Puskin…. Cả châu Âu lẫn châu Mỹ đều dâng hiến cho văn học thế kỉ
này những tài năng kiệt xuất, những nghệ sĩ kể chuyện bậc thầy. Chúng
ta sẽ điểm qua các trường phái văn chương chủ yếu của thế kỉ này.
I. Chủ nghĩa lãng mạn
Các quan điểm mỹ học mới mẻ và cách mạng được mang tới từ
các bản tuyên ngôn văn học cùng với các thành tựu trên lĩnh vực sáng
tác, sự đa dạng phong phú trong hình thức biểu hiện đã khiến thế kỷ
phồn thịnh của văn học, không phải chỉ ở Pháp mà còn cả ở Anh, Đức,
Nga, Mỹ. Ở Pháp, chủ nghĩa lãng mạn đánh dấu một mốc son chói lọi
trong lịch sử văn học.
Với tư cách là thế giới quan của thời đại mới, chủ nghĩa lãng mạn
trước hết là chủ nghĩa lãng mạn Pháp biểu hiện sự phản ứng dữ dội trên
bình diện văn hoá tinh thần chống lại giai cấp tư sản và chống lại trật tự
tư sản vừa được xác lập. Bởi vì, sau khi Cách mạng 1789 thắng lợi, giai
cấp tư sản đã biến những lời hứa tốt đẹp của các nhà Ánh sáng về một
xã hội mới, ở đó chỉ có ʺTự do ‐ Bình đẳng ‐ Bác áiʺ thành ra một bức
tranh châm biếm, giễu cợt. Giai cấp tư sản đã thay thế nhà nước lý
tưởng với những vị ʺminh quânʺ mà các nhà Ánh sáng xây dựng và đem
9
thay vào đó một xã hội tàn bạo mà đồng tiền là chủ nhân thực sự, là ʺkẻ
cầm cân nảy mực điều hành xã hội, là kẻ cân đong đo đếm các quan hệ
xã hộiʺ. Ách thống trị tư sản được quàng vào cổ nhân dân đúng vào chỗ
ách thống trị phong kiến vừa được cởi bỏ. Xã hội lý tưởng dường như
đã bị xã hội thực dụng thay thế hoàn toàn.
Giấc mộng gắn liền với xứ sở Eldorado, nơi chỉ có trường học mà
không có nhà tù, nơi “đất bùn là vàng cám, đá sỏi là kim cương” mà dân
xứ đó không ai thèm nhìn tới, nơi mọi người ra sức học tập, phát minh,
đã biến thành mây khói; con người giờ đây bị đặt trước một thực tế tàn
nhẫn. Thất vọng, vỡ mộng do đổ vỡ lý tưởng trở thành tâm lý chung của
một thời. ʺCon người chưa bao giờ cảm thấy mình bị ruồng bỏ đến thế,
trong khi anh ta đi tìm một cách vô vọng, sự đích thực của bản thân
mình, giữa một xã hội cơ khí, ở đấy những mệnh lệnh thực sự hoặc ngụ
ý thắt chặt lấy anh ta, bó buộc anh ta, làm cho anh ta què cụt và trở
thành đồng loã với một sự phi nhân tính cùng nghĩa với sự tàn ác...ʺ.
Con người lý tưởng, con người với các khát vọng lớn lao đối lập gay gắt
với thực tại tư sản, tàn nhẫn, ở đó cái gì cũng phải trả tiền ngay, không
tình nghĩa. Con người lý tưởng của thời đại khao khát vượt ra ngoài cái
xã hội tàn nhẫn đó, muốn bứt tung nó ra, muốn phá bỏ nó đi. Không thể
xây dựng được một xã hội vật chất lý tưởng khác để đối lập với cái xã
hội vật chất ‐ tư sản hèn kém kia, các nhà lãng mạn đi tìm giải pháp giải
thoát cho cuộc đời bằng những giấc mơ. Họ đi tìm lối thoát tinh thần
bằng cách xây dựng các thế giới lý tưởng đã từng ʺvang bóng một thờiʺ;
họ đi tìm các xã hội tốt đẹp vốn chỉ tồn tại trong truyền thuyết hoặc đã
lùi xa vào trong dĩ vãng. Họ tìm tới cuộc sống của các bộ lạc da đỏ hay
của phương Đông huyền bí, có lẽ ở đó bàn tay tư bản chưa với tới. Hoặc
táo bạo hơn, họ xây dựng các mô hình xã hội lý tưởng kiểu ʺxã hội
Montreuil ʺ của V. Hugo. Nói chung, các nhà lãng mạn đoạn tuyệt
không muốn sống chung với thực tại mất nhân tính mà chuyên chính tư
sản tạo ra bằng đồng tiền quyền uy của nó.
Mâu thuẫn giữa cá nhân tư sản và xã hội tư sản là gay gắt, không
thể dung hoà. Cá nhân nổi lên chống lại xã hội nhưng bất lực, do đó tâm
trạng tuyệt vọng là phổ biến. Đây chính là điểm xuất phát của sự tạo
10
dựng hình tượng nhân vật trung tâm trong văn học lãng mạn. Nhân vật
trung tâm xuất hiện ở đây với tư cách là con người nổi loạn, là cá nhân
nổi loạn chống lại xã hội. Đặc trưng tiêu biểu của loại nhân vật này là
cô độc mà từ đó cảm giác tuyệt vọng được gia tăng và vẻ mặt u buồn
lãng mạn xuất hiện. Các nhân vật này mang vẻ đẹp buồn bã, kiêu kỳ
của những con người tài hoa bị bạc đãi và họ cũng tỏ ra khinh bạc với
đời, đau khổ vì đã đầu thai nhầm thế kỷ và từ chối không hoà nhập
vào cuộc đời.
Các nhà lãng mạn chủ trương xây dựng nhân vật trung tâm thành
các tính cách phi thường và đặt chúng vào hoàn cảnh phi thường, điều
này hoàn toàn phù hợp thực tiễn vì các nhân vật trung tâm thường là
các cá nhân đơn lẻ chống lại xã hội tư sản. Hình tượng nhân vật lãng
mạn thường hiện ra với vẻ oai phong, rực rỡ, với vẻ kiêu bạc nhưng
không phải để chiến thắng mà để sẵn sàng đón nhận thất bại. Để xây
dựng các nhân vật như vậy, các nhà lãng mạn đã trở về với thế giới tình
cảm, đi sâu vào mọi ngóc ngách của tâm hồn. Họ phát huy cao độ sức
mạnh của trí tưởng tượng trong việc khám phá cái tôi cá nhân. Có thể
nói rằng, một trong những công lao của chủ nghĩa lãng mạn là khám
phá sâu sắc đời sống nội tâm con người. Cái tôi và thế giới nội tâm của
nó trở thành chủ thể và đối tượng văn học. Các nhà lãng mạn đã làm
sống lại một thế kỷ thơ ca ‐ đặc biệt là thơ trữ tình. Đồng thời tạo ra các
đột phá kỹ thuật thơ ca, sáng tạo và làm phong phú ngôn ngữ. Sức
mạnh lãng mạn thực sự bừng lên từ thế giới thơ trữ tình này.
Việc đi tìm các màu sắc khác lạ, các ʺmàu sắc địa phươngʺ cũng
tôn tạo cho vẻ mặt muôn màu của chủ nghĩa lãng mạn. Thiên nhiên đa
dạng, tinh tế, một thiên nhiên có hồn, có xác trở thành bạn đồng hành
tin cậy của các nhà lãng mạn. Thiên nhiên hòa hợp trọn vẹn với tâm hồn
con người. Thiên nhiên hòa quyện vào các giấc mơ tạo ra thế giới kì ảo
lung linh huyền bí. Thế giới sáng tạo của các nhà lãng mạn không cần
tới hệ thống các quy tắc gò bó, các khuôn khổ chật hẹp với các quy
phạm về ngôn ngữ cổ xưa nữa. Tất cả những gì trói buộc đôi cánh sáng
tạo của nghệ sĩ đều được phá bỏ. Thế giới nghệ thuật của lãng mạn là
thế giới các màu sắc, là thế giới của các thủ pháp tương phản, phóng
11
đại…. Các nhà lãng mạn từ chối cái tầm thường vì ʺcái tầm thường là cõi
chết của nghệ thuậtʺ (V. Hugo).
F.R. Chateaubriand (1768‐ 1848) là đại diện thuộc thế hệ đầu của
chủ nghĩa lãng mạn Pháp. Ông đã xây dựng được hình tượng những
ʺcon người thừaʺ, con người lạc lõng trong xã hội tư sản bằng ʺphương
pháp của con timʺ ‐ tức là phương pháp sáng tác lãng mạn như cách gọi
phổ biến thời bấy giờ. Ông đã xác định được căn bệnh của thời đại ông,
căn bệnh của chán chường, ghê tởm: ʺchưa hưởng thụ gì ta đã cảm thấy
am hiểu hết, tuy hãy còn dục vọng ta đã mất hết ảo mộng. Trí tưởng
tượng thì phong phú, đa dạng và kì diệu; còn cuộc sống thì nghèo nàn,
khô khan và buồn tẻ. Với một trái tim đầy ắp, ta sống trong một thế giới
trống rỗng, và ta đã chán hết mọi thứ khi chưa hưởng thụ một thứ gìʺ.
Là một tài năng đa dạng, mang trong mình sự kết hợp của “các đam mê
trí tuệ” và “hồi ức của con tim”, ông chủ trương đấu tranh và truyền bá
cho các tư tưởng về tôn giáo, chính trị và văn chương theo cách riêng
của mình. Trong Thiên tài của đạo Thiên chúa (Le Génie du christianisme‐
1802), ông “chứng minh sự hài hòa giữa Thiên chúa giáo với tự nhiên và
các đam mê của con tim”, xác lập mối quan hệ giữa các chuẩn mực giáo
lí tôn giáo với cảm hứng văn chương. Tác phẩm Atala (1801) chứng
minh cho sự cần thiết của tôn giáo, như kẻ cầm cương cho con ngựa
đam mê trong mỗi bản thể con người, nhằm chống lại sự tha hóa của
con người trong thế giới tự nhiên ngập tràn cái ác. Tác phẩm René (1801)
miêu tả “cái ác của thế kỉ” với ngôi kể là ngôi thứ nhất và cũng hướng
về tôn giáo như là liều thuốc chữa trị thế giới khỏi cái ác đó. Các tác
phẩm của ông, trên thực tế, đều là cái Tôi của bản thân ông được xẻ ra
trong các môi trường chiêm nghiệm, vì thế chủ đề của các tác phẩm của
ông về thực chất chỉ là bản thân ông trong trải nghiệm để kéo dài cuộc
sống, bằng kinh nghiệm và biểu hiện của cái tôi cá thể. Ông nói: “Trong
số các nhà văn Pháp cùng thời với tôi, tôi gần như là người duy nhất có
mặt rải rác khắp các tác phẩm của mình như: lữ khách, người lính,
người xuất bản, bộ trưởng, trong rừng rậm tôi ngợi ca các khu rừng, trên
tàu thủy tôi miêu tả đại dương, trong trại lính tôi nói về đấu tranh vũ
trang, trong đày ải tôi học để biết thế nào là đày ải, trong các triều đình
12
quân chủ, trong thế giới kinh doanh, trong các cuộc nghị sự, tôi nghiên
cứu các nguyên lí, chính sách và luật pháp”1.
A.Lamartine (1790 ‐ 1869) là nhà thơ lãng mạn nổi tiếng, người đã
có công ʺlà người đầu tiên làm cho thơ ca rời khỏi núi Parnasseʺ và là
người đã tặng cho ʺnàng thơ, không phải là cây đàn lia bảy dây quy ước,
mà là những bài thơ của trái tim con người, bị xúc cảm do những rung
động của tâm hồn và của thiên nhiênʺ. Nổi bật trước tiên trong vai trò nhà
thơ lãng mạn, để những năm cuối đời, khi rơi vào cảnh bần hàn, ông tìm
đến với văn xuôi qua những trang kể lại những kỉ niệm thời trẻ (Những
câu chuyện tâm phúc‐Les Confidences, 1849), hay các tiểu thuyết xã hội nhẹ
nhàng như Genevière (1851), Người thợ đẽo đá của Saint‐Point (1851).
A.Vigny (1797 ‐ 1863) là nhà văn lãng mạn có nhiều khác biệt hơn
cả. Ra đời sau Cách mạng 1789 tám năm khi mà dòng họ quý tộc Vigny
đã bị tan tành, ông mang vào chủ nghĩa lãng mạn tư tưởng bi quan,
kiêu kì của chính ông. Nhân vật của ông là những người hùng thời đại
trước thuộc dòng dõi cao sang nhưng nay đã bị phế truất và đồng thời
cũng mang một tầm tư tưởng khác lạ khiến nó không bao giờ hòa nhập
vào quần chúng. Do đó, nó bị tiêu diệt. Tác phẩm tiêu biểu của ông là
Cinq‐Mars (1826), một dạng tiểu thuyết lịch sử lấy bối cảnh thời
Richelieu. Trong Stello hay thú nhận của Bác sĩ da đen (Stello ou les
Confessions du Docteur Noir ‐1833) và Nhục và vinh của những người lính
(Servitude et Grandeur militaires ‐1835), ông đề cập đến thân phận hèn
kém của các nhà thơ và những người lính, hai tầng lớp “cùng khổ”
trong xã hội hiện đại.
Aurore Dupin là tên thật của G.Sand (1804 ‐ 1876), nữ văn sĩ tài
hoa đã biết ʺtìm cách khơi dậy niềm xúc cảm, làm rung động con tim
của những người đồng thời, vốn sẵn sàng xúc cảm và cũng cần được
rung độngʺ. Bà viết nhiều về đề tài tự do yêu đương và dành ngòi bút
yêu thương cho đám trẻ mồ côi, cho đám con hoang và cho những
người phụ nữ bất hạnh trong cuộc sống riêng tư. Có thể thấy điều đó
qua Indiana ‐1832, Lélia – 1833, Mauprat ‐ 1837. Mối tình thất bại giữa bà
1
Dictionar al Literaturii franceze, Ed. Ştiintifică, Bucureşti, 1972, tr. 114.
13
và Musset (1810 ‐ 1857) cũng góp thêm chất tiểu thuyết của bà. Tuy
nhiên hơn bao giờ hết, bà luôn khẳng định: ʺ… cuộc sống của chúng ta
là để yêu thương và không yêu nữa có nghĩa là không sống nữa mà
thôiʺ. Bà thường mỹ hóa hiện thực và lí tưởng hóa nhân vật.
Musset mang lại cho văn đàn lãng mạn nét độc đáo, riêng biệt.
Nếu các bài thơ đầu được sáng tác theo công thức: tình yêu ‐ ghen tuông
‐ chết, công thức mà Byron khởi xướng, thì các bài thơ sau, đặc biệt
chùm thơ Đêm ‐ sáng tác sau thời kì mối tình Musset ‐ Sand tan vỡ và
không bao giờ hàn gắn được, đã đánh dấu bước ngoặt sáng tác của nhà
thơ này. Ở đây, ʺcuộc hành trình nội tâmʺ của con người nhà thơ với
ʺmột nỗi đau khổ vùi dập, khiến con người không sao trỗi dậy đượcʺ
xuất hiện. Ông đưa vào thơ ca ʺnỗi đau của con timʺ nỗi đau phát
nguyên những tài năng thơ chân chính, ở đây ‐ Musset xứng đáng với
nhận xét của A.Maurois: ʺÔi! Nòi giống đáng thương của các nhà thơ,
lúc nào cũng đẽo gọt đúng vào giữa vết thương lòngʺ. Tác phẩm văn
xuôi quan trọng của ông là vở kịch Lorenzaccio (1834).
W.Scott, được biết đến nhiều với tư cách là nhà tiểu thuyết lịch sử,
với các đề tài lấy từ lịch sử nước Anh như Aivanhô (Ivanhoe‐1819), Tu viện
(The Monastery‐1820)… hay lịch sử Pháp và các nước khác như Quentin
Điuớt (Quentin Durward‐ 1823), Tấm bùa (The Talisman‐1825)… Công lao
của ông là đã sáng tạo và hoàn thiện thể loại tiểu thuyết lịch sử, tạo ra
cách thức tái hiện và xây dựng dự đồ phát triển của lịch sử quá khứ trong
thực tại, qua sự chặt chẽ của nghệ thuật tự sự và khả năng hoàn thiện các
quan hệ cũng như số phận các cá nhân trong các phong trào xã hội – lịch
sử, theo nguyên tắc quyết định luận. Các nhân vật có sức sống bền dai
nhất trong sáng tạo của ông là những con người bình thường, là các đại
diện của tầng lớp tiểu quý tộc hay những con người xuất thân từ quần
chúng lao động. Các nhân vật này mang theo bản thân họ khát vọng thay
đổi cuộc đời. Để tái tạo lại không khí lịch sử của một thời, ông rất quan
tâm tới vấn đề ngôn ngữ nói, ông sử dụng nhiều kiểu tiếng lóng, các
phương ngữ gắn liền với cách nói của các nhân vật.
Sự phát triển mạnh của thể loại tiểu thuyết lịch sử trên nền của xã
hội nửa đầu thế kỷ XIX cũng có lý do của nó. Đó là sự sụp đổ tan tành
14
của xã hội phong kiến và sự tàn bạo mới mà giai cấp tư sản đem lại làm
tiêu tan ảo tưởng về một xã hội tự do bình đẳng bác ái. Scott đã cảm
nhận được điều này và ông dành một chút ngưỡng mộ cho cái thế giới
đã suy vong bằng cách tạo ra những tia sáng soi rọi vào quá khứ. Thiên
tài mà có lẽ phần lớn do năng lực trực cảm của ông, cái vốn rất được các
nhà lãng mạn đề cao, đã nắm bắt được những thời điểm lịch sử có gắn
với những cuộc chiến tranh giành quyền lực, hoặc một thời điểm lịch sử
gay cấn. Có thể nói công lao mà Scott mang lại là ông đã thổi sinh khí
vào một thể loại văn học, đó là thể loại tiểu thuyết lịch sử. Qua đó, ông
chỉ ra rằng con người luôn bị đặt trong mối ràng buộc với quá khứ, quá
khứ đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống hiện tồn của con người.
Tiểu thuyết lịch sử của Scott đưa ta vào một thời đại khác, ở đó có
những bất hạnh riêng, có những nỗi khốn cùng có thể khác loại hay
cùng loại với hiện tại song ở đó đã có những mẫu người, với bài học
xương máu của họ có thể gợi ra cho thời đương đại những suy nghĩ mở
đường. Như vậy, một trong những cội nguồn của tiểu thuyết lịch sử là
ước vọng xa lánh hiện tại. Điều này thật sự phù hợp với thời kỳ lãng
mạn, với khát vọng chối bỏ thực tại tư sản đang vây bọc họ. Tiểu thuyết
lịch sử do đó trở thành phương tiện để so sánh lịch đại các thời kỳ khác
nhau, góp phần soi sáng hiện tại. Lion Feuchtwanger trong New York
Times Book Review (20/10/1940) đã đưa ra một quan điểm tương tự về
cách viết tiểu thuyết lịch sử: “Tôi không quan tâm đến lịch sử vì lịch
sử… Khi tôi cần tả một cái ghế của thế kỷ XVIII hay một bộ y phục của
thế kỷ thứ II, tôi cố gắng tả cho thật chính xác. Nhưng những đồ trang
sức của thời xưa đó, tôi chỉ ngẫu nhiên đem chúng vào tác phẩm thôi.
Còn chủ ý của tôi là chỉ dùng những khía cạnh nào đó của lịch sử có ý
nghĩa đối với chúng ta ngày nay, tới nay vẫn còn tràn đầy sinh khí, và có
thể giúp đỡ chúng ta hiểu việc ngày nay. Tôi tin tưởng rằng, từ hai ngàn
năm nay, tâm lý con người không hề có sự thay đổi chút nào, và con
người thuở xưa cũng bạo tàn và tham lam không hơn không kém con
người ngày nay. Xem xét thế sự thăng trầm thời xa xưa rất có ích, vì nó
hoặc giống hệt như thế sự thăng trầm ngày nay, hoặc không giống thì
nó cũng giúp ta nhận định rõ sự biến chuyển của công việc ngày nay.
Do đó mà tôi viết tiểu thuyết lịch sử”. Còn Storm Jameson thì lại đưa ra
15
quan điểm: “Điểm quan tâm chính yếu của tiểu thuyết là cho ta biết các
nhân vật sinh hoạt như thế nào trong thời đại họ”, tức là tiểu thuyết lịch
sử phản ánh một thời kỳ nào đó không giống thời đại tác giả. Cách lựa
chọn bối cảnh của Scott cho tiểu thuyết lịch sử của mình cũng rất tiêu
biểu. Ông thường chọn những thời đại gay cấn nhất, rực rỡ nhất mà ở
đó nổi lên những xung đột xã hội ‐ lịch sử tiêu biểu nhất. Đó chính là
những mâu thuẫn xã hội sâu sắc, một mặt do thời đại tạo thành, mặt
khác do cá nhân tạo thành. Tuy nhiên cho dù có sẵn một trực giác thiên
tài thì việc lựa chọn chi tiết lịch sử đặc trưng của thời đại cũng là một
vấn đề. Nữ văn sĩ Mỹ Naomi Mitchison có viết: “Viết tiểu thuyết lịch sử
chẳng khác nào trò chơi ú tim trong bóng tối, và nếu trong trò chơi này
ta chộp được một bàn tay hay một khuôn mặt thì đã may mắn lắm rồi”.
Mục từ Tiểu thuyết trong Từ điển các nền văn học Pháp và nước ngoài do
J.Demousin chủ biên cũng cho thấy một nét mới của tiểu thuyết lịch sử:
“Tiểu thuyết lịch sử từ Walter Scott tới Marguerite Yourcenar (cuốn Hồi
ức của Hadrien ‐ Mémoires d’Hadrien) đều đồng nhất giữa thời gian truyện
kể với thời gian lịch sử, giữa quá khứ với nội dung tiểu thuyết”1, mà qua
đây chúng ta có thể liên hệ với những trang viết của V. Hugo về các
cuộc khởi nghĩa 1830, hay Công xã Paris mà tác giả là chứng nhân để
thấy thêm sự khác biệt của ngòi bút lãng mạn này.Trong mục từ Tiểu
thuyết lịch sử, tác giả mục từ này cũng cho biết là từ năm 1820, “những
người được gọi là nhà lịch sử được hiểu theo nghĩa là họ muốn trở
thành những chứng nhân đích thực của thời đại (hoặc là chứng nhân
cùng thời với những người đang sống). Balzac tái hiện trong Những
người Su‐ăng, khi nói về thời kỳ Trung hưng. Stendhal viết phụ đề Biên
niên của năm 1830 cho Đỏ và Đen còn E.Zô‐la sẽ “tạo ra lịch sử tự nhiên
và xã hội của một gia đình dưới thời Đế chế thứ hai” bằng cả một dự án
có tính khoa học. Tiểu thuyết trở thành “lịch sử” (“histoire”) theo nghĩa
nguyên của từ này có nghĩa là tiểu thuyết trở thành một cuộc điều tra
(“enquête”)”. Như vậy, tiểu thuyết lịch sử về một phương diện có thể
coi là “một cái nhìn của ngày hôm nay đối với ngày hôm qua và đây
cũng là tính chất kép của tiểu thuyết lịch sử mà G.Lukacs quan tâm”.
1
J.Demousin: sđd, tr. 1357.
16
Chúng tôi thấy cũng cần hiểu mở rộng góc độ hiểu biết thêm về
tiểu thuyết lịch sử. Chúng tôi xin dẫn ra ở đây một số quan điểm trong
bài viết của Anca Sirbu nhan đề Chủ nghĩa lãng mạn và quan niệm về cảm
thức thời gian.Trần thuật có tính lịch sử, có đề cập đến một số vấn đề liên
quan tới tiểu thuyết lịch sử như sau: “Albert Béguin trong L’Âme
romantique et le rêve (Tâm hồn lãng mạn và giấc mơ), xuất bản năm 1937, đã
đưa ra nhiều dẫn chứng từ việc tập hợp các hình thái khác nhau và rút
ra các đặc điểm của chủ nghĩa lãng mạn nội tâm (le romantisme
intérieure). Sự phát triển các hình thức văn học và các hệ thống triết học
gắn chặt với nhau, và cùng kiểu thức của chủ nghĩa lãng mạn, với “năng
lực nội quan”, với “hành động của chính ý thức con người”. Chủ nghĩa
lãng mạn đánh dấu sự chuyển hoá từ “ý thức thuần tuý trí tuệ” sang “ý
thức mang tính cảm xúc”. Khát vọng về cái vô cùng, năng lực thấu thị
của nghệ sĩ, khám phá giá trị của giấc mơ và của các đột biến, vai trò
được ghi nhận của vô thức và của ký ức tình cảm, huyền thoại và tượng
trưng giải thích sự chuyển hoá dần dần từ mối quan tâm của chủ nghĩa
lãng mạn phong cảnh (romantisme pittoresque) sang chủ nghĩa lãng
mạn nội tâm, và cũng là thể hiện khả năng khai thác cái thực. Từ
Rousseau tới Amiel, chủ nghĩa lãng mạn khẳng định thế giới nội tâm
của chủ thể sáng tạo và của cả cái không hợp lý.
Con người lãng mạn còn là hóa thân của lịch sử, do đó cấu trúc
của nó mang tính chất kép. Một mặt nó là sự hiện diện của chính nó,
mặt khác nó còn là sự hiện diện của thế giới. Một trong những thành tố
cơ bản của chủ nghĩa lãng mạn là cảm thức thời gian (Zeitgeist) trở thành
quan niệm cơ bản của nhân loại học trong thế kỷ này. Raymond Aron
định nghĩa cảm thức thời gian như là “một hiện thực siêu việt và riêng
biệt của con người trong cùng một thời gian nhất định, một hiện thực
vừa có tính xã hội vừa có tính tinh thần, vừa là tất cả vừa đa dạng”. Chủ
nghĩa lịch sử của các nhà lãng mạn hay “cảm xúc của họ về lịch sử”, tức
là cái mà Georg Lukács đã nhắc tới, không bao hàm được cảm hứng
đương thời và sự bao quát mang tính cá nhân trong thế giới, cho phép
mở rộng một cách khác trường hiểu biết của con người. Chủ nghĩa lãng
mạn theo đuổi một sự xác định chắc chắn cho “quy tắc con người nhân
tính”, “sự tìm kiếm một ý nghĩa bao gồm cả con người lẫn thế giới trong
17
một sự hiểu biết tương hợp”. Cần nhớ lại rằng ở đây tầm quan trọng của
triết học tự nhiên và triết học lịch sử, đã mang lại cho thời gian một ấn
tượng có da có thịt. Các đề tài chính của chúng là: tiến hoá luận, sự thống
nhất hữu cơ, sự phát triển của xã hội, tính thi vị của lịch sử ‐ kết quả của
cuộc đấu tranh giữa một số lực lượng trừu tượng. Người ta xác lập các
quan hệ mới giữa lịch sử và sự tồn tại cá nhân hoặc giữa lịch sử và văn
chương. “Mối liên hệ sâu sắc của chúng” trong thế kỷ XIX được giải thích
theo Roland Barthes, là qua “sự xây dựng một thế giới tự cung tự cấp”;
thế giới này “tự nó sản sinh ra các kích thước và giới hạn, tự nó tạo ra
Thời gian và Không gian, thế giới, tập hợp các đồ vật và các huyền thoại”.
Thời kỳ từ 1825 ‐ 1830 được ghi nhận bằng một sự tràn ngập của
lịch sử trong không gian trí tuệ của châu Âu: lịch sử như là “một biến
cố”, nhưng lịch sử còn là “kích thước của hiện thực”, hoặc lịch sử là
“chất liệu và quy tắc của tiến bộ: thơ ca, chính trị và triết học”. Tất cả
những vấn đề ấy đòi hỏi một hình thức trần thuật mới, với một hệ mã
đặc trưng qua đó phản ánh cách chiếm lĩnh mới về hiện thực, một sự
“kịch hoá” của lịch sử, được cảm nhận như là “một tình thế cá nhân”,
như là “một kinh nghiệm thường nhật”. Sự đồng quy mang tính lịch sử
được tạo ra bởi tác giả, còn hiện thực được tinh lọc qua nhân cách cá
nhân. Các hình thái thể hiện tư duy tập thể hay tái hiện cái vô thức
mang tính văn hoá của thời đại tác động đến tư tưởng và văn học. Tiểu
thuyết lịch sử trả lời không chỉ cho sự nhu cầu thoát ly thực tại mà còn
cho đòi hỏi về cái tổng thể vốn tạo ra đặc trưng của con người lãng mạn.
Tiểu thuyết lịch sử bao gồm một viễn cảnh mới của các tác giả về thời
gian, một kiểu thức mới về trực cảm và về cách thức tổ chức văn bản tác
phẩm. Tính thời gian ‐ vốn tạo thành cơ sở nền tảng cho các tiểu thuyết
kiểu kịch tính ‐ cho thấy trước hết, mối quan hệ giữa thời gian sống thực
và thời gian trần thuật. “Tài liệu” trở thành “tác phẩm” qua việc “bao
gộp trong cùng một hệ thống, trong một tập hợp mang nghĩa” ‐ có thể
cũng là một tập hợp trái nghĩa, nhưng như vậy lịch sử vẫn chấp nhận
bởi đó có thể là cách kiến giải khác về nó.
Vào năm 1830, ngoài các giá trị nhân đạo vốn có, chủ nghĩa lãng
mạn tiếp nhận thêm giá trị phê phán đối với huyền thoại về Cách mạng
18
Pháp 1789 và đưa ra những nhận định xác lập học thuyết của chủ nghĩa
lãng mạn. Dấu ấn của các biến cố thời sự ‐chính trị của xã hội đã hiện ra
trong Marie Tudor (1833), còn trên phương diện tiểu thuyết, Những người
khốn khổ cho thấy những gì xảy ra trong thời kỳ 1830 ‐ 1832. Còn có hai
tác nhân của ý thức lãng mạn có tác dụng chuẩn bị cho một cách nhìn
mới về Cách mạng Pháp 1789. Trước hết là hình ảnh nhà ngục Bastille
qua cách nhìn của Gavroche và một số nhân vật khác, là các biểu tượng
mang nghĩa kép về nhà tù, nơi giam cầm tự do và sự trốn chạy khỏi thực
tại của thi nhân. Tiếp theo là huyền thoại về Napoléon Bonaparte tạo
thành âm hưởng trong thơ trữ tình, kịch dram và thể loại tự sự trong
nhiều tác phẩm của Hugo.
Tự sự lịch sử trước hết là phản ứng chống lại chủ nghĩa chủ quan
thái quá của hình thức kể chuyện tự truyện ‐ một hình thức được ưa
chuộng ngay từ đầu thế kỷ XIX. Trong thực tế, tiểu thuyết cá nhân
(roman personnel) và tiểu thuyết lịch sử (roman historique) vốn là hai
hình thái khá quan trọng của văn xuôi lãng mạn. Sự xuất hiện của chúng
là gần như đồng thời và tạo ra hai mặt: một mặt là sự tôn thờ thế giới
nội tâm, tôn thờ cái tôi và mặt khác là sự tò mò của các nhà lãng mạn đối
với thực tại. Hai mặt này xác lập một mối quan hệ lô gic biện chứng
giữa hai thể loại.Tự sự lịch sử còn là kết quả của sự giao thoa các ảnh
hưởng văn học, mà vị trí hàng đầu là của W. Scott, người sáng tạo ra loại
tiểu thuyết kịch tính (roman dramatique) hay còn gọi là tiểu thuyết của
“bi kịch đối thoại hoá” (drame dialoguée) như cách gọi của Balzac. W.
Scott đã tạo ra các nhóm ở đó nổi lên các nhân vật mang ý nghĩa trọng
đại “những đại diện điển hình của một cuộc đụng đầu lịch sử”. Tiểu
thuyết Pháp được hình thành, muộn hơn, từ một quan niệm cá nhân về
lịch sử. Georg Lukács chỉ ra sự hiện diện của hai khái niệm có thể định
nghĩa hình thức trần thuật này, qua đó thiết lập một “mối liên hệ đúng
đắn và thích đáng với sự hiểu biết chính xác cái hiện tại”. Các khái niệm
này gồm: viễn cảnh lịch sử (perspective historique) ‐ còn gọi là mô thức
về khoảng cách ‐ và tinh thần tổng thể (ésprit de la totalité) hay cách
nhìn tổng quát. Ở đây cũng cần thấy thêm một số nét liên quan tới việc
chọn lựa đề tài lịch sử. Các nhà văn chọn tiểu thuyết lịch sử trước hết vì
tiểu thuyết lịch sử cung cấp cho các nhà văn một phương tiện để tái tạo
19
quá khứ. Thứ hai, tiểu thuyết lịch sử cung cấp cho họ một không gian
nghệ thuật cho phép phát triển cốt truyện theo quy mô và khả năng
tưởng tượng của tác giả. Thứ ba, tiểu thuyết lịch sử mang lại khả năng
tạo thêm ý nghĩa ẩn dụ cho tự sự để họ có thể, trong khi tái tạo lại một
cách tối đa hiện thực cuộc sống quá khứ của các thời đại đã cách xa thời
điểm nhà văn sống thì nhà văn vẫn có thể miêu tả được những nhân tố
nào đó của cuộc sống hiện tại dưới các mặt nạ quá khứ, theo kiểu
“mượn xưa nói nay”. Xét từ phương diện này, các tiểu thuyết lịch sử của
V. Hugo mang dáng dấp tiểu thuyết lịch sử hiện đại, vì tiểu thuyết lịch
sử hiện đại thường lựa chọn các thời kỳ lịch sử xa xôi thích hợp nhất với
trí tưởng tượng thông qua hệ thống các tình tiết lịch sử, có thể chỉ là thứ
yếu song lại lôi cuốn độc giả bởi tính chất khác lạ của nó, bởi do ít người
biết tới, điều này được điện ảnh Trung Quốc đương đại triệt để khai
thác. Mặt khác, tiểu thuyết lịch sử hiện đại còn quan tâm tới số phận các
dân tộc nhỏ yếu, bị đẩy ra ngoài lề xã hội hoặc bị xua đuổi vì sự khác
biệt chủng tộc hay tôn giáo. Các nhân vật của loại tiểu thuyết này ngoài
tính cách phi thường còn có vai trò lớn trong tổ chức xã hội của cộng
đồng. Trong khía cạnh này thì Bug ‐ Jargal còn là câu chuyện về số phận
một dân tộc bị lừa bắt làm nô lệ và nhân vật đóng vai trò thủ lĩnh của
cộng đồng nô lệ ấy.
Một đại diện khác của chủ nghĩa lãng mạn Pháp là Alexandre
Dumas‐Cha (1802‐1870), người đã thống ngự tiểu thuyết lịch sử Pháp từ
thập niên bốn mươi của thế kỉ XIX. Thể loại tiểu thuyết lịch sử cho phép
Dumas‐Cha phát huy cao độ khả năng của trí tưởng tượng lãng mạn
sáng tạo, thể loại cho phép ông nhào trộn các sự thực lịch sử và các hư
cấu lịch sử. Tiểu thuyết lịch sử của ông khá nhiều: Ba người lính ngự lâm
(1844), Hai mươi năm sau (1845), Bá tước Monte‐Cristo (1845), Nữ Bá tước
de Monsoreau (1846), Tử tước De Bragellonne (1848),… Đặc sắc trong các
tiểu thuyết lịch sử của Dumas‐Cha là hệ thống chi tiết, sự kiện li kì hấp
dẫn gắn liền với hai tuyến nhân vật xung đột lẫn nhau, mâu thuẫn nhau.
Dumas‐Cha không tạo ra được các tính cách điển hình cũng như không
đi sâu phân tích tâm lí nhân vật. Nhưng bản thân ông “có thừa sức sống
để có thể đổi mới không ngừng một lò sức sống khổng lồ” như nhận xét
của G.Sand. Với sức mạnh của tưởng tượng, ông đã biến các chi tiết,
20
- Xem thêm -