Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Khoa học xã hội Tiếng thái trên đài phát thanh và truyền hình ở huyện phù yên sơn la...

Tài liệu Tiếng thái trên đài phát thanh và truyền hình ở huyện phù yên sơn la

.PDF
122
70
89

Mô tả:

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM LƯƠNG THỊ TÌNH TIẾNG THÁI TRÊN ĐÀI PHÁT THANH VÀ TRUYỀN HÌNH Ở HUYỆN PHÙ YÊN - SƠN LA LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM THÁI NGUYÊN - 2018 ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM LƯƠNG THỊ TÌNH TIẾNG THÁI TRÊN ĐÀI PHÁT THANH VÀ TRUYỀN HÌNH Ở HUYỆN PHÙ YÊN - SƠN LA Ngành: Ngôn ngữ Việt Nam Mã số: 8.22.01.02 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS Tạ Văn Thông THÁI NGUYÊN - 2018 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu nêu trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kì công trình nào khác. Thái Nguyên, tháng 8 năm 2018 Tác giả luận văn Lương Thị Tình i LỜI CẢM ƠN Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới PGS.TS Tạ Văn Thông, người thầy đã tận tình giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn này. Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu và Phòng Đào tạo Sau đại học, các thầy cô trong khoa Ngữ văn Trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên, các thầy cô giáo ở Viện Ngôn ngữ học, Viện Từ điển học và Bách khoa thư Việt Nam đã nhiệt tình giảng dạy, hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong quá trình học tập. Xin chân thành cảm ơn Ủy ban nhân dân huyện, Lãnh đạo đài TT - TH Phù Yên đã giúp đỡ tác giả trong sưu tầm tài liệu. Xin cám ơn Ban giám hiệu Trường THPT Quang Trung - Hải Phòng, các bạn bè, đồng nghiệp và những người thân trong gia đình đã tạo mọi điều kiện thuận lợi giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu. Thái Nguyên, tháng 05/ 9/ 2018 Tác giả Lương Thị Tình ii MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................... i LỜI CẢM ƠN ....................................................................................................... ii MỤC LỤC............................................................................................................iii MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1 1. Lí do chọn đề tài .............................................................................................. 1 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................. 2 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................... 3 4. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................. 3 5. Đóng góp của đề tài ......................................................................................... 3 6. Cấu trúc của luận văn ...................................................................................... 4 Chương 1: TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ LUẬN, THỰC TIỄN ............................................................................................ 5 1.1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu .............................................................. 5 1.1.1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu về ngôn ngữ báo chí ......................... 5 1.1.2. Tổng quan về tình hình nghiên cứu về lịch sử nghiên cứu về tiếng Thái trong hoạt động truyền thông ............................................................ 7 1.2. Cơ sở lí luận và thực tiễn .............................................................................. 9 1.2.1. Cơ sở lí luận: truyền thông và ngôn ngữ truyền thông.............................. 9 1.2.2. Cơ sở thực tiễn: huyện Phù Yên - Sơn La và người Thái, tiếng Thái ở Phù Yên ................................................................................................... 20 1.3. Tiểu kết ....................................................................................................... 32 Chương 2: ĐÀI TIẾNG THÁI VÀ SỰ TIẾP NHẬN CỦA NGƯỜI THÁI Ở PHÙ YÊN ĐỐI VỚI CÁC CHƯƠNG TRÌNH TIẾNG THÁI ........................... 33 2.1. Tình hình phát sóng tiếng Thái trên các đài phát thanh, truyền hình ở Sơn La...................................................................................................... 33 2.1.1. Tình hình phát sóng bằng ngôn ngữ các dân tộc thiểu số ở Việt Nam ... 33 2.1.2. Tình hình phát sóng chương trình tiếng Thái .......................................... 40 iii 2.2. Khả năng tiếp nhận các chương trình trên đài bằng tiếng Thái của người Thái ở Phù Yên, Sơn La ................................................................ 42 2.2.1. Về điều kiện và thực tế nghe/ xem các chương trình phát thanh, truyền hình bằng tiếng Thái..................................................................... 42 2.2.2. Khả năng tiếp nhận (hiểu) của người Thái ở Phù Yên với các chương trình phát thanh, truyền hình bằng tiếng Thái ......................................... 50 2.3. Tiểu kết ....................................................................................................... 61 Chương 3: MỘT SỐ ĐỀ XUẤT VỀ CHƯƠNG TRÌNH TIẾNG THÁI TRÊN ĐÀI CHO NGƯỜI THÁI Ở PHÙ YÊN .................................................. 63 3.1. Ý kiến nhận được từ người dân về việc thiết kế các chương trình phát sóng bằng tiếng Thái ................................................................................. 63 3.2. Kiến nghị nâng cao hiệu suất truyền thông bằng tiếng Thái cho người Thái ở Phù Yên .......................................................................................... 69 3.2.1. Những nội dung chính sách của Đảng cộng sản và Nhà nước Việt Nam giai đoạn từ sau 1975 đến nay .......................................................... 69 3.2.2. Một số kiến nghị ...................................................................................... 70 3.3. Tiểu kết ....................................................................................................... 80 KẾT LUẬN ........................................................................................................ 81 TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................. 84 PHỤ LỤC ............................................................................................................... iv MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 1.1. Trong thời đại ngày nay, báo (nói chung) là phương tiện thông tin đại chúng nhanh nhất, hiệu quả nhất và có nhiều công chúng nhất, có tác động mạnh mẽ đến mọi mặt của đời sống và trở thành một trong những động lực quan trọng đối với sự phát triển của xã hội. Báo gồm những loại hình khác nhau: báo in (còn gọi là báo viết), báo nói (phát thanh), báo hình (truyền hình), thông tấn, báo ảnh và báo điện tử (báo trên internet). Trong tiếng Việt, báo nói (phát thanh), báo hình (truyền hình, tivi...) được gọi chung là ”đài”. Trong báo, ngôn ngữ (dạng nói và viết) là phương tiện truyền tải thông điệp chính, cơ bản nhất. Ngôn ngữ báo tuân theo quy luật tồn tại và phát triển của ngôn ngữ chung, đồng thời có những nét riêng biệt. Nghiên cứu về ngôn ngữ báo là một việc làm cần thiết và mang tính thời sự, giúp cho việc sử dụng nó có hiệu quả hơn trong hoạt động truyền thông. 1.2. Hoạt động truyền thông bằng ngôn ngữ các dân tộc thiểu số (DTTS) ở Việt Nam được thực hiện chủ yếu ở hai hình thức là báo in và đài. Quyết định số 53 - CP (22/02/1980) đã chỉ đạo cụ thể: công tác thông tin, tuyên truyền và công tác văn hóa của Nhà nước ở các vùng đồng bào DTTS phải tăng cường phát huy tiếng nói, chữ viết DTTS trong giao tiếp xã hội cũng như sử dụng trên các phương tiện thông tin đại chúng, trong các hoạt động văn hóa xã hội, cố gắng kết hợp sử dụng tiếng, chữ DTTS, giúp đồng bào tiếp thu được dễ dàng, nhanh chóng. Trong trường hợp này, ngôn ngữ vừa có vai trò truyền tải nội dung truyền thông vừa là phương tiện nối kết cộng đồng. 1.3. Ở Việt Nam, dân tộc Thái có 1.550. 423 người, đứng hàng thứ 3 về dân số trong 54 dân tộc ở nước ta (tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2009; Nguồn: Tổng cục Thống kê/ Kết quả Tổng điều tra dân số 2009). Người Thái ở Việt Nam sống tập trung chủ yếu ở các tỉnh thuộc Tây Bắc Việt Nam và Thanh Hoá, 1 Nghệ An. Ở Sơn La nói riêng và khu vực Tây Bắc nói chung, dân tộc Thái có số dân đông nhất trong số các dân tộc thiểu số (DTTS). Tiếng Thái có thể được coi là “tiếng phổ thông vùng”. Huyện Phù Yên vốn là huyện lâu đời nhất của tỉnh Sơn La, là một trong 9 mường Thái trước đây (Mường Tấc). Trong những năm gần đây, huyện Phù Yên và người Thái nói riêng đang từng bước thoát nghèo và vươn lên, trở thành huyện phát triển khá của tỉnh. Truyền thông nói chung và đài phát thanh/ truyền thanh, truyền hình bằng tiếng Thái có vai trò tích cực trong công cuộc này. Đó chính là lí do đề tài “Tiếng Thái trên đài phát thanh và truyền hình ở huyện Phù Yên - Sơn La” được chọn làm hướng nghiên cứu trong luận văn. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích Luận văn cung cấp cứ liệu khoa học từ nghiên cứu truyền thông bằng ngôn ngữ DTTS ở một địa phương, để làm căn cứ hoạch định những chính sách và giải pháp cho việc truyền thông của Nhà nước bằng tiếng DTTS ở vùng DTTS. Đây cũng cơ sở để chính quyền ở huyện Phù Yên và tỉnh Sơn La thực hiện hiệu quả hơn những chính sách truyền thông bằng ngôn ngữ Thái ở địa phương mình. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Tìm hiểu cơ sở lí luận về hoạt động truyền thông và về tiếng Thái. - Khảo sát, điều tra làm rõ thực trạng truyền thông bằng tiếng Thái ở huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La: Các hình thức truyền thông, đặc điểm ngôn ngữ/ các phương ngữ, chữ viết sử dụng cho truyền thông; các cấp, các địa phương có truyền thông bằng tiếng Thái; - Khảo sát, điều tra làm rõ khả năng tiếp nhận, nhu cầu, thái độ, nguyện vọng của người Thái với truyền thông bằng tiếng mẹ đẻ; Phân tích, đánh giá những thành công và hạn chế của truyền thông bằng tiếng Thái hiện nay. Đề xuất một số biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động truyền thông bằng tiếng Thái tại huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La. 2 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn tập trung khảo sát khả năng tiếp nhận, nhu cầu, thái độ, nguyện vọng đối truyền thông bằng tiếng Thái, ở cộng đồng người Thái, với một nghiên cứu trường hợp: ở huyện Phù Yên - Sơn La. Lí do lựa chọn huyện Phù Yên là bởi đây là khu vực có hơn 12 dân tộc sinh sống, trong đó người Thái là dân tộc chiếm đa số tại đây. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Truyền thông gồm 4 loại hình là: báo in (báo giấy), báo nói (phát thanh, truyền thanh), báo hình (truyền hình) và báo điện tử (báo mạng điện tử). Do thời gian và khuôn khổ hạn chế, luận văn chỉ tìm hiểu một số khía cạnh ngôn ngữ học xã hội (như đã nói trên), ở người Thái, đối với các chương trình tiếng Thái trên đài phát thanh truyền hình trong hoạt động truyền thông ở huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La. Các khía cạnh khác về tiếng Thái trên đài (chẳng hạn từ góc nhìn của “nhà đài” - những người làm công tác truyền thông; đặc điểm cấu trúc và văn bản tiếng Thái với tư cách phương tiện truyền hình...) không được coi thuộc phạm vi của luận văn. 4. Phương pháp nghiên cứu 4.1. Phương pháp ngôn ngữ học điền dã: với những hoạt động phỏng vấn, ghi chép, chụp ảnh, tìm hiểu các tài liệu được lưu giữ tại địa phương và thực tế quanh chủ đề hoạt động truyền thông bằng tiếng Thái. Số lượng người Thái được phỏng vấn qua bảng hỏi ngôn ngữ học xã hội là: 182. 4.2. Phương pháp miêu tả: các thủ pháp thống kê, phân loại các dữ liệu; phân tích các sự kiện và khái quát tìm ra qui luật của các sự kiện cụ thể cho mục tiêu và mục đích nghiên cứu. 5. Đóng góp của đề tài 5.1. Luận văn góp phần tập hợp những khía cạnh trong lí thuyết về truyền thông, về vai trò của tiếng mẹ đẻ các DTTS đối với truyền thông ở vùng các 3 DTTS. Đồng thời, chỉ ra vai trò của truyền thông đối với việc bảo tồn và phát triển ngôn ngữ các DTTS như một thành tố trong văn hóa truyền thống. 5.1. Giúp nâng cao hiệu quả, chất lượng hoạt động truyền thông trên đài bằng tiếng Thái cho đồng bào Thái và các DTTS khác có sử dụng tiếng Thái hiện nay ở huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La nói riêng và vùng Tây Bắc nói chung. 6. Cấu trúc của luận văn Ngoài Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội dung chính của luận văn gồm 3 chương: - Chương 1: Tổng quan về tình hình nghiên cứu và cơ sở lí luận, thực tiễn - Chương 2: Đài tiếng Thái và sự tiếp nhận của người Thái ở Phù Yên đối với các chương trình tiếng Thái - Chương 3: Một số đề xuất về chương trình tiếng Thái trên đài cho người Thái ở Phù Yên 4 Chương 1 TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ LUẬN, THỰC TIỄN 1.1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu 1.1.1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu về ngôn ngữ báo chí Đã có không ít các tác giả tập trung tìm hiểu những yêu cầu chung nhất, những đặc trưng của ngôn ngữ báo chí. Về mặt lí luận, năm 1985, tác giả Quang Đạm [11] đã có bài viết Ngôn ngữ báo chí đăng trên Tập san Người làm báo, số 1. Tác giả đã chỉ ra một số đặc điểm cơ bản của ngôn ngữ báo chí thuộc hình thức (báo in) thời bấy giờ. Năm 2000, Đinh Văn Đức trong bài Ngôn ngữ báo chí tiếng Việt đầu thế kỷ XX: Một quan sát về ngôn ngữ của báo chí cách mạng Việt Nam (giai đoạn 1925-1945) [15], đã khảo sát và chỉ ra những đặc điểm của ngôn ngữ báo chí cách mạng trong một giai đoạn lịch sử cụ thể, nhấn mạnh đặc trưng và chức năng của báo chí trong lịch sử cách mạng Việt Nam. Năm 2001, tác giả Vũ Quang Hào [20] trong cuốn Ngôn ngữ báo chí đã đi sâu vào khảo sát 3 phong cách chức năng, mà theo ông, báo chí thường sử dụng là: phong cách chính luận, phong cách khoa học và phong cách hành chính. Năm 2003, tác giả Nguyễn Tri Niên [39] cũng cho ra đời cuốn sách cùng tên với cuốn sách của Vũ Quang Hào. Ông đã chỉ ra ba đặc điểm loại hình của ngôn ngữ báo chí và xem xét nó trong nhiều mối quan hệ: quan hệ phản ánh, quan hệ đối xứng, quan hệ liên tưởng. Những quan hệ này được cụ thể hóa trong một số mô hình thông tin. Năm 2003, tác giả Hoàng Anh đã cho ra đời cuốn sách Một số vấn đề sử dụng ngôn từ trên báo chí [1], là tập hợp 21 bài viết của tác giả đã công bố trên các tạp chí và các hội thảo khoa học chuyên ngành. Sách đề cập đến một số vấn đề khá bức xúc nhưng chưa được các nhà nghiên cứu quan tâm đúng mức trong 5 địa hạt ngôn ngữ báo chí - một địa hạt vẫn còn mới mẻ ở Việt Nam: Trách nhiệm của nhà báo trong việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt; tính chất của ngôn ngữ báo chí, sự đan xen khuôn mẫu và biểu cảm trong ngôn ngữ báo chí; một số thủ pháp nhằm tăng cường tính biểu cảm trong ngôn ngữ báo chí; về cách sử dụng thành ngữ - tục ngữ trên báo chí; một số nét khác biệt cơ bản giữa ngôn ngữ báo chí và ngôn ngữ văn học; những kiểu lỗi về chính tả thường gặp trên báo chí và mấy kiểu lỗi về dùng từ trên báo chí; sự kết hợp khuôn mẫu và biểu cảm trong ngôn ngữ báo chí; cách thức tạo giá trị biểu cảm trong ngôn ngữ báo chí; sự khác biệt giữa ngôn ngữ văn học và ngôn ngữ báo chí; ngôn ngữ nhân vật và ngôn ngữ tác giả trong tác phẩm báo chí; phân loại tiêu đề các văn bản báo chí... Tuy nhiên, đây mới chỉ là kết quả của những khảo sát bước đầu. Có thể cho rằng các bài viết này dành sự quan tâm khá nhiều đến phương diện hình thức và cấu trúc của tác phẩm báo chí. Đặc điểm của một số thể loại cũng đã được tác giả nghiên cứu và đề cập đến trong cuốn sách này như: thể loại phóng sự, ghi nhanh, phát thanh, phỏng vấn truyền hình... Năm 2007, tác giả Nguyễn Đức Dân xuất bản cuốn Ngôn ngữ báo chí Những vấn đề cơ bản [8], đã bàn luận khá sâu sắc và toàn diện về các phương diện của ngôn ngữ báo chí từ góc độ lí luận. Trong sách, tác giả đã trình bày về báo chí - ngôn ngữ báo chí - nhà báo; ngôn ngữ bài tin; thông tin chìm trong báo chí; diễn đạt trong báo chí. Sau đó ít năm, Nguyễn Đức Dân cũng có một loạt bài viết về vấn đề này như: Ý tại ngôn ngoại, những thông tin chìm trong ngôn ngữ báo chí; Vận dụng tục ngữ, thành ngữ và danh ngôn trên báo chí [7], [8]. Đây là những bài viết bàn luận khá sâu sắc về một vài khía cạnh tiêu biểu trong việc sử dụng ngôn ngữ báo chí. Ông đã khái quát những đặc trưng cũng như những yêu cầu của ngôn ngữ báo chí về từ ngữ, về câu văn, về tính biểu cảm. Đồng thời ông cũng chỉ ra những khác biệt giữa ngôn ngữ báo chí và ngôn ngữ thuộc các phong cách chức năng khác. 6 Tác giả Trịnh Sâm [43] trong bài Đặc điểm ngôn ngữ báo chí nhìn từ hoạt động báo chí ở thành phố Hồ Chí Minh (Ngôn ngữ và đời sống, số 12 năm 2008), đã nêu một số đặc điểm của ngôn ngữ báo chí ở TP Hồ Chí Minh về chính tả, về dùng từ, về dùng câu, về tổ chức thông tin văn bản báo chí. Qua đó, ông cũng chỉ ra những điểm tích cực và những điểm tiêu cực. Ngoài ra, có một số bài viết nhỏ vấn đề này như: Khảo sát việc sử dụng ngôn từ trên chuyên mục Phóng sự báo Lao Động; Việc sử dụng khẩu ngữ trên báo chí Việt Nam hiện nay; Ngôn ngữ báo chí trong thể loại phóng sự trên báo mạng điện tử; Sapo trên báo chí; Mấy kiểu lỗi dùng từ trên báo chí; Một vài nhận xét về ngôn ngữ quảng cáo bằng tiếng Việt trên báo cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX; Một số hạn chế của ngôn ngữ quảng cáo trên truyền hình; Về ngôn ngữ báo phát thanh; Vài suy nghĩ về cách dùng khẩu ngữ trên báo Hoa học trò... Đặc biệt, tác giả Nguyễn Thế Kỷ, bắt đầu từ các bài báo Vài nhận xét về dạng thức nói trên đài truyền hình (từ vai giao tiếp với công chúng), T/c Ngôn ngữ. số 4 1999, và sau đó là cuốn sách Nói năng, giao tiếp trên đài truyền hình, Nxb Đại học quốc gia, 2011, H., đã tập trung nghiên cứu về ngôn ngữ trên đài truyền hình ở mức độ khá toàn diện và sâu sắc [29; 30]. Các bài viết và công trình nói trên đã chứng tỏ tính thời sự và hấp dẫn của vấn đề ngôn ngữ báo chí đối với các nhà Ngôn ngữ học. 1.1.2. Tổng quan về tình hình nghiên cứu về lịch sử nghiên cứu về tiếng Thái trong hoạt động truyền thông Cho đến nay chưa gặp một tài liệu chuyên biệt nào về tiếng Thái trong hoạt động truyền thông. Tuy nhiên, ngôn ngữ này được nhắc đến nhiều trong các tài liệu nói về ngôn ngữ các DTTS trong hoạt động này. Trong Hội nghị tổng kết công tác bảo tồn và phát huy tiếng nói, chữ viết các DTTS của Ủy ban Dân tộc (2006), các báo cáo ở của các tỉnh Lào Cai, Lạng Sơn, Vĩnh Phúc, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Bắc Kạn, Cao Bằng, Yên Bái, Sơn La, Điện Biên, Lai Châu... đều đề cập đến việc sử dụng tiếng nói và 7 chữ viết các DTTS trong hoạt động truyền thông. Nội dung các báo cáo đều cho rằng việc sử dụng ngôn ngữ các DTTS trong truyền thông là một việc làm hết sức cần thiết, có ý nghĩa thiết thực trong việc phục vụ nhiệm vụ chính trị và phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của địa phương và khu vực. Các báo cáo cũng đã tập trung làm rõ việc sử dụng tiếng nói, chữ viết các DTTS trong công tác thông tin tuyên truyền ở từng địa phương, hoạt động in và phát hành các văn hóa phẩm, các hoạt động văn hóa nghệ thuật; đánh giá những mặt ưu điểm và hạn chế của việc sử dụng ngôn ngữ các DTTS trong hoạt động văn hóa và truyền thông; phân tích các bài học kinh nghiệm và đề xuất những giải pháp thực thi. Đặc biệt, Báo cáo của Ủy ban Nhân dân tỉnh Sơn La còn nêu ra một số hướng nghiên cứu đã được triển khai và áp dụng có hiệu quả về công tác truyền thông bằng ngôn ngữ DTTS như: Nghiên cứu nội dung chương trình phát thanh truyền hình tiếng Hmông tỉnh Sơn La, Thiết lập phần mềm Bộ chữ Thái trên máy vi tính, Tin học hóa lịch Thái... Tác giả Nguyễn Hữu Hoành trong cuốn Ngôn ngữ, chữ viết các dân tộc thiểu số ở Việt Nam (Những vấn đề chung) 2013) cũng cho rằng: Cần xác định thứ tự ưu tiên khi đưa những ngôn ngữ, chữ viết của dân tộc thiểu số vào các phương tiện thông tin đại chúng, cũng như trong giảng dạy tại nhà trường; Cần tiến hành nghiên cứu, cải tiến, hoàn chỉnh một số bộ chữ đang có (ở các dân tộc có nhiều bộ chữ viết) theo hướng vừa gắn với chữ quốc ngữ, vừa phù hợp với quy trình tin học hóa hiện nay; Đẩy mạnh việc sưu tầm, nghiên cứu và mã hóa một số chữ cổ truyền để có phương án bảo tồn và sử dụng các chữ viết này [21]. Trong bài viết Sử dụng ngôn ngữ chữ viết các DTTS trên sóng Đài Phát thanh - Truyền hình tỉnh Lai Châu hiện nay: thực trạng và kiến nghị (2014), sau khi phân tích tình hình sử dụng ngôn ngữ chữ viết DTTS trên sóng Phát thanh - Truyền hình, tác giả Thúy Ngoạn đã đề xuất một số giải pháp nhằm sử dụng có hiệu quả ngôn ngữ chữ viết dân tộc trên sóng phát thanh - truyền hình ở Lai Châu. Một số kiến nghị của tác giả có thể dùng để tham khảo là: 8 - Về mặt ngôn ngữ, cần thống nhất sử dụng chữ viết Latin cho công tác biên tập, biên dịch. Cần có sự hỗ trợ về mặt khoa học của giới ngôn ngữ học để có phương án ghi âm tiện dụng nhất. - Cần mở những lớp bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn và tổ chức đi thực tế ở các vùng đồng bào dân tộc. Trên cơ sở đó, tiếp cận những ngôn ngữ ở địa phương đang sử dụng về áp dụng vào công việc cho phù hợp với thực tế từng vùng miền. - Tổ chức hội thảo về cách thức sản xuất chương trình, phương pháp cộng tác với Ban Dân tộc của Đài Tiếng nói Việt Nam và Đài Truyền hình Việt Nam, thường xuyên trao đổi chuyên môn nghiệp vụ, kinh nghiệm giữa các Đài có tiếng dân tộc. - Tăng cường phương pháp chỉ đạo dùng ngôn ngữ dân tộc cho phù hợp với từng nhóm, từng vùng. - Có kế hoạch dạy chữ dân tộc và bồi dưỡng chuyên môn về bản sắc văn hóa, hiểu biết phong tục tập quán dân tộc [38]. Nhìn chung trong những nghiên cứu về tiếng Thái trong hoạt động truyền thông, thường gặp sự khẳng định tầm quan trọng của tiếng Thái. Tuy nhiên, với các tài liệu hiện có, chưa thấy nghiên cứu chuyên biệt và hệ thống về tiếng Thái trong hoạt động truyền thông ở huyện Phù Yên - Sơn La. 1.2. Cơ sở lí luận và thực tiễn 1.2.1. Cơ sở lí luận: truyền thông và ngôn ngữ truyền thông 1.2.1.1. Một số khái niệm chung Trong tiếng Việt, truyền thông thường được hiểu theo hai nghĩa: Truyền thông 1. truyền dữ liệu theo những quy tắc và cách thức nhất định; 2. thông tin và tuyên truyền, nói chung. Ở đây (trong luận văn này), truyền thông được hiểu theo nghĩa thứ hai. Với nghĩa này, truyền thông không chỉ hiểu là “phát thanh và truyền hình” (mà còn: báo chí, sách vở, internet...). Phát thanh và truyền hình hiện nay là những 9 phương tiện thông tin và tuyên truyền thông dụng và sử dụng nhiều nhất ở các vùng dân tộc thiểu số, là hoạt động giao tiếp tương tác, nhiều kênh, có tính thuyết phục cao. Do nhu cầu thông tin, giao tiếp của đời sống xã hội con người mà sự ra đời của báo chí là điều mang tính tất yếu. Nhu cầu thông tin càng lớn, xã hội càng phát triển thì báo chí cũng ngày càng trở nên đa dạng và phát triển theo. Nói đến báo chí không thể không nói đến phát thanh, truyền hình. Đây là những loại chính trong 4 loại hình của báo chí đó là: báo in (báo giấy), báo nói (phát thanh, truyền thanh), báo hình (truyền hình) và báo điện tử (báo mạng điện tử). Truyền thông ở các vùng dân tộc thiểu số là công cụ để quản lí, điều hành và cải cách xã hội; tạo nên liên kết xã hội, giúp cho người dân được cập nhật thông tin kinh tế, văn hóa, xã hội trong và ngoài nước; được giải trí và được nói lên tiếng nói bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của mình. Ngoài ra, nó liên quan đến những chuẩn mực trong giao tiếp, văn hóa, phong cách sống và nói năng, cách ứng xử liên cá nhân của cộng đồng. Hoạt động truyền thông bằng ngôn ngữ các dân tộc thiểu số (minority language media) hướng tới đối tượng chính là các cộng đồng dân tộc thiểu số. Đặc biệt, truyền thông giúp cho các dân tộc này có được một không gian đại chúng (public sphere) của riêng mình, để nói lên và lắng nghe tiếng nói và nguyện vọng của bản thân theo cách của mình. Phát thanh, truyền thanh: Trong tiếng Việt, phát thanh và truyền thanh thường được hiểu gần nghĩa: phát thanh đg. Phát và truyền âm thanh bằng sóng vô tuyến điện. Đài phát thanh. Phát thanh tin tức. Buổi phát thanh ca nhạc. truyền thanh đg. Truyền âm thanh đi xa bằng radio (vô tuyến truyền thanh) hoặc bằng đường dây. Truyền thanh buổi lễ tại chỗ. Loa truyền thanh. 10 Truyền hình: Để đưa ra một khái niệm thực sự chính xác về truyền hình không phải dễ dàng. Theo tác giả luận văn thì: Truyền hình là một loại hình truyền thông truyền tải nội dung bằng cách sử dụng đồng thời cả hình ảnh động, âm thanh, chữ viết khác đến công chúng thông qua các phương tiện kĩ thuật hiện đại. Trong cuốn Cơ sở lý luận báo chí do Nhà xuất bản Lao động ấn hành năm 2012, PGS.TS Nguyễn Văn Dũng cho rằng: “Truyền hình là kênh truyền thông chuyển tải thông điệp bằng hình ảnh động với nhiều sắc màu vốn có từ cuộc sống cùng với lời nói, âm nhạc, tiếng động” [10]. Theo cuốn “Truyền thông đại chúng” thì tác giả Tạ Ngọc Tấn: truyền hình là một loại hình phương tiện truyền thông đại chúng chuyển tải thông tin bằng hình ảnh động và âm thanh. Truyền hình, hay còn được gọi là TV (Tivi) hay vô tuyến truyền hình (truyền hình không dây). Từ tivi (đọc theo tiếng Anh, TV viết tắt của từ television) là một từ ghép, kết hợp từ tiếng Hy Lạp và tiếng Latinh. "Tele", tiếng Hy Lạp, có nghĩa là "xa"; trong khi từ "vision", từ tiếng Latinh visio, có nghĩa là "nhìn" hay "thấy" [47]. Truyền hình xuất hiện vào đầu thế kỷ thứ XX và phát triển với tốc độ như vũ bão nhờ sự phát triển của khoa học công nghệ, tạo ra một kênh thông tin quan trọng trong đời sống xã hội. Ngày nay, truyền hình là một phương tiện thiết yếu cho mỗi gia đình, mỗi quốc gia, mỗi dân tộc. Truyền hình trở thành vũ khí, công cự sắc bén trên mặt trận tư tưởng văn hóa cũng như lĩnh vực kinh tế xã hội. Công chúng của truyền hình ngày càng đông đảo. Với những ưu thế của kỹ thuật và công nghệ, truyền hình đã làm cho cuộc sống gần như cô đọng lại, làm giàu thêm ý nghĩa, sáng tỏ hơn về hình thức và phong phú hơn về nội dung. Với truyền hình, sự kiện được phản ánh ngay lập tức khi nó vừa mới diễn ra, thậm chí khi nó đang diễn ra, người xem có thể quan sát trực tiếp, tường tận chi tiết qua truyền hình trực tiếp và cầu truyền hình. Nhờ các kỹ thuật hiện đại, 11 truyền hình có thể truyền trực tiếp cả âm thanh và hình ảnh trong cùng một thời gian về cùng một sự kiện, sự việc khi nó đang diễn ra tạo ra sự sống động rất lớn, thu hút đông đảo người xem. Khác với báo in, người đọc chỉ tiếp nhận thông tin bằng con đường thị giác, phát thanh bằng con đường thính giác, người xem truyền hình tiếp cận sự việc bằng cả thị giác và thính giác. Do vậy truyền hình trở thành một phương tiện cung cấp thông tin rất lớn, có độ tin cậy cao, có khả năng làm thay đổi nhận thức của con người trước sự kiện. Truyền hình có khả năng truyền tải thông tin đến công chúng 24/24 giờ trong ngày, luôn mang đến cho người xem những thông tin nóng hổi nhất về các sự kiện diễn ra, cập nhật những tin tức mới nhất. Cùng với sự phát triển của khoa học và công nghệ, truyền hình ngày càng mở rộng phạm vi tiếp cận được nhiều đối tượng ở vùng sâu, vùng xa,vùng cao. Một sự kiện xảy ra ở bất kỳ đâu có thể truyền đi khắp thế giới được hàng tỷ người biết đến. Với sự bùng nổ của khoa học kỹ thuật hiện nay, công chúng xem truyền hình không phải cứ ngồi trước tivi mới xem được mà có thể xem trên máy tính hoặc đi đường cũng có thể xem được chương trình qua điện thoại di động v.v… Chương trình truyền hình cũng không còn đơn giản là chỉ những hình ảnh, âm thanh, chữ viết nữa mà trong mỗi sản phẩm truyền hình đã tích hợp rất nhiều hình thức thể hiện khác nhau với vô vàn những hiệu ứng, những kỹ sảo sinh động của kỷ nguyên truyền hình kỹ thuật số. Điều mà truyền hình sử dụng công nghệ analog trước đây chưa thể làm được. Chương trình: Chương trình là một tập hợp các nội dung được sắp xếp theo một bố cục nhất định. Theo “Giáo trình báo chí truyền hình” của tác giả Dương Xuân Sơn thì: Chương trình truyền hình là sự liên kết, sắp xếp, bố trí hợp lý các tin bài, bảng 12 tư liệu hình ảnh và âm thanh, được mở đầu bằng lời giới thiệu, nhạc hiệu, kết thúc bằng lời chào tạm biệt, đáp ứng yêu cầu tuyên truyền của cơ quan báo chí truyền hình, nhằm mang lại hiệu quả cao nhất cho khán giả [45]. Ngoài ra, hiện nay còn có nhiều khái niệm khác nhau về chương trình truyền hình. Tuy nhiên theo tác giả, chương trình truyền hình có thể hiểu một cách rất linh hoạt. Có chương trình thời lượng dài vài chục phút đến vài tiếng đồng hồ nhưng cũng có chương trình ngắn chỉ vài phút. Ví dụ như chương trình ca nhạc, sân chơi truyền hình, chương trình Thời sự 19 giờ của VTV dài từ vài chục phút đến cả tiếng đồng hồ. Các chương trình này có hình hiệu riêng, nội dung chủ đề riêng, cách thể hiện riêng và cả kết cấu chương trình cũng mang những nét khá riêng biệt. Tuy nhiên cũng có Bản tin thời sự đầu giờ thời lượng chỉ có 5 phút. Có một số chuyên mục, chuyên đề, phim phóng sự thời lượng chỉ có 10 đến 15 phút. Tuy nhiên những bản tin, chuyên mục này đều có tính độc lập rất cao so với các chương trình khác phát liền với nó. Tác giả luận văn xin đưa ra định nghĩa của mình về chương trình truyền hình, chương trình truyền hình có thể hiểu là một sản phẩm truyền thông có hình hiệu riêng, được phát sóng trong một khung giờ nhất định mà trong nó có sự thống nhất giữa nội dung, hình thức thể hiện và không trùng lặp với các chương trình khác. PTTH các tỉnh, thành phố khác trên cả nước có rất nhiều chương trình hướng đến những đối tượng khán giả chuyên biệt như chương trình : “Cây cao bóng cả” hướng đến người cao tuổi; Chương trình “ Măng non” hướng đến công chúng thiếu nhi; Chương trình “ Dân tộc và miền núi” hướng đến công chúng là đồng bào các dân tộc thiểu số miền núi hay chương trình Tiếng H’Mông, tiếng Tày, Nùng, tiếng Ragiai, Êđê .v.v… hướng đến công chúng là người dân sử dụng ngôn ngữ đó. Như vậy, có thể hiểu chương trình truyền hình chuyên biệt là chương trình truyền hình mà nội dung, hình thức thể hiện của nó hướng đến một nhóm công chúng cụ thể nào đó. 13 Cũng giống như bất kỳ chương trình truyền hình nào khác, chương trình truyền hình chuyên biệt cũng phải đảm bảo một số yếu tố cơ bản của một chương trình truyền hình như sự thống nhất về nội dung tư tưởng, hình thức thể hiện, có hình hiệu, mở đầu bằng lời chào và kết thúc là lời chào tạm biệt hoặc bằng hình thức khác 1.2.1.2. Cơ sở lí luận về ngôn ngữ dân tộc thiểu số trong truyền thông Ngôn ngữ là công cụ giao tiếp quan trọng nhất của con người, do vậy cũng là phương tiện quan trọng nhất của truyền thông. Cùng với đó, ngôn ngữ được nhận thức như là một công cụ tương tác xã hội trong mọi trường hợp gồm hai chức năng cơ bản: chức năng bày tỏ và chức năng tác động. Trên thế giới, cuốn sách Ethnic Minority Media: An International Perspective của Riggin ra đời năm 1992 chính là bước đi đầu tiên cho những hoạt động nghiên cứu có tính chất cơ bản vấn đề này. Tác giả đã chỉ ra 5 mô hình truyền thông dân tộc thiểu số: Mô hình hợp thể (với mục đích nhằm hợp nhất văn hóa các dân tộc thiểu số vào trong văn hóa nhóm sắc tộc đa số nhưng không phải làm đồng hóa và làm mất bản sắc văn hóa của nhóm thiểu số đó). Mô hình gắn với kinh tế (Ngôn ngữ trong truyền thông dân tộc thiểu số được thiết kế kết hợp với những áp lực về kinh tế nhằm khiến cho các nhóm dân tộc thiểu số phải biến đổi). Mô hình phân tách (những hoạt động truyền thông dân tộc thiểu số được thiết kế để làm nổi bật sự khác biệt giữa các nhóm dân tộc thiểu số với nhau, từ đó hình thành bản sắc của mỗi dân tộc. Đó là mục đích chính của mô hình phân tách). Mô hình đặc quyền (những hoạt động truyền thông dân tộc thiểu số được thiết kế dựa trên sự phân biệt về quyền lực). Mô hình đồng hóa (những hoạt động truyền thông dân tộc thiểu số được thiết kế nhằm đồng hòa các dân tộc thiểu số vào vào dân tộc đa số). 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan