lOMoARcPSD|17838488
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN THƯƠNG MẠI VÀ KINH TẾ QUỐC TẾ
BÀI THUYẾT TRÌNH
Chủ đề: Thực trạng vận hành chính sách tỷ giá ở Việt Nam và các biện pháp
hoàn thiện trong những năm gần đây
Lớp tín chỉ: Quản trị Tài chính quốc tế 01
GV hướng dẫn: Ths. Nguyễn Thị Thanh Dương
Nhóm thực hiện: Nhóm 3
Hoàng Anh
Trần Bảo Quốc
Nguyễn Quang Đức
Lý Thùy Linh
Nguyễn Cao Toàn
Vũ Thị Quỳnh Hoa
Nguyễn Cao Thúy Nga
11200108
11206722
11200860
11202157
11203941
11201542
11202711
Hà Nội, 2022
Downloaded by hây hay (
[email protected])
lOMoARcPSD|17838488
Chương I: Chính sách tỷ giá ở Việt Nam (1955 - nay) và những tác động với nền
kinh tế Việt Nam
5
Ia. Giai đoạn 1: 1955 - 1988
5
Ib. Giai đoạn 2: 1989 - 1991
7
Ic. Giai đoạn 3: 1992 - 1999
8
Id. Giai đoạn thứ 4: 1999 - nay
11
1. Giai đoạn 1999 - 2000
11
1.1 Bối cảnh kinh tế
11
1.2 Chính sách tỷ giá
11
1.3. Tác động
12
1.4. Đánh giá
13
2. Giai đoạn 2001 - 2013
14
2.1. Giai đoạn 2001-2006
14
2.1.1. Bối cảnh kinh tế
14
2.1.2. Chính sách tỷ giá qua từng năm
14
2.1.3 Tác động của tỷ giá đến tình hình lạm phát
17
2.1.4. Đánh giá
18
2.2. Giai đoạn 2007-2011
18
2.2.1. Bối cảnh kinh tế:
18
2.2.2. Chính sách tỷ giá qua các năm
19
2.2.3. Tác động của tỷ giá đến lạm phát, CCTM
21
2.2.4. Đánh giá
22
3. Giai đoạn 2013 - nay
24
3.1. Bối cảnh kinh tế
24
3.2. Chính sách tỷ giá
25
3.3. Tác động
27
3.4. Đánh giá
30
Chương II: Tổng kết chính sách tỷ giá Việt Nam trong những năm gần đây
30
1. Những vấn đề còn tồn đọng và nguyên nhân
30
2. Các biện pháp hoàn thiện
30
2.1. Yêu cầu và định hướng chính sách tỷ giá hối đoái của Việt Nam giai đoạn
2013-2020, tầm nhìn 2030
30
2.1.1. Yêu cầu
31
2.1.2. Định hướng
31
2.2 Giải pháp hoàn thiện chính sách tỷ giá hối đoái
31
2.2.1. Về lựa chọn chế độ tỷ giá hối đoái
31
2.2.2. Về hoàn thiện cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái
32
Downloaded by hây hay (
[email protected])
lOMoARcPSD|17838488
TỔNG QUÁT
Đặc trưng chính sách tỷ của một quốc gia phụ thuộc chủ yếu vào cơ chế xác định và
cơ chế can thiệp lên tỷ giá mà quốc gia đó áp dụng. Căn cứ vào cơ chế xác định và cơ
chế can thiệp lên tỷ giá, thì chính sách tỷ giá của Việt Nam kể từ khi có đồng tiền
Quốc gia (1955) cho đến nay có thể được chia thành bốn giai đoạn như sau:
Giai đoạn thứ nhất: 1955-1989
Đặc trưng của thời kỳ này là nhà nước độc quyền về ngoại thương và ngoại hội,
do đó tỷ giá cũng do Nhà nước độc quyền xác định, không tính đến yếu tố cung cầu
ngoại tệ trên thị trường. Đây là thời kỳ chế độ tỷ giá cố định, đa tỷ giá với tính chất
phi thị trường sâu sắc.
Giai đoạn thứ hai: 1989-1991
Đặc trưng của thời kỳ này là bãi bỏ chế độ đa tỷ giá, chuyển sang áp dụng chế
độ đơn tỷ giá (tỷ giá chính thức) và được điều chỉnh mạnh theo tín hiệu thị trường.
Chính vì vậy, nhiều người coi thời kỳ này là thời kỳ “thả nổi” tỷ giá, Nhà nước không
có khả năng kiểm soát.
Giai đoạn thứ ba: 1992-1999
Đặc trưng của thời kỳ này là tỷ giá được chính thức ấn định trên các cơ sở:
Đấu thầu tại trung tâm giao dịch ngoại tệ từ 10/1991 đến 31/12/1994. Do đó nội
dung tỷ giá đã hàm chứa yếu tố cung cầu ngoại tệ trên thị trường
Tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng từ 1/1995 đến
2/1999. Chính vì vậy nội dung tỷ giá đã hàm chứa nội dung cung cầu ngoại tệ toàn
diện và khách quan hơn trước.
Ngoài ra trong giai đoạn này đã nổ ra cuộc khủng hoảng tài chính- tiền tệ Đông
Nam Á 1997-1998.
Giai đoạn thứ tư: Từ 1999 đến nay
Đặc trưng cơ bản của thời kỳ này là thay vì ấn định và công bố tỷ giá chính
thức, NHNN bây giờ chỉ “thông báo” tỷ giá giao dịch bình quân liên ngân hàng. Đây
là thời điểm chuyển từ chế độ tỷ giá cố định (tỷ giá chính thức) sang chế độ tỷ giá thả
nổi có điều tiết.
Trong bốn giai đoạn nêu trên, bài thảo luận này xin được điểm qua những
nét nổi bật trong 3 giai đoạn đầu và đi sâu vào giai đoạn gần đây nhất với chính
sách tỷ giá thả nổi có điều tiết từ 1999 đến nay.
Downloaded by hây hay (
[email protected])
lOMoARcPSD|17838488
Chương I: Chính sách tỷ giá ở Việt Nam (1955 - nay) và những tác động với nền
kinh tế Việt Nam
Ia. Giai đoạn 1: 1955 - 1988
a) Bối cảnh kinh tế
Trong giai đoạn này, nền kinh tế Viê ̣t Nam là nền kinh tế đóng cửa và hướng
nô ̣i. Đây là thời kỳ của cơ chế tâ ̣p trung quan liêu bao cấp.
Các bạn hàng chủ yếu là các nước XHCN trong hô ̣i đồng tương trợ kinh tế.
Hình thức trao đổi thương mại chủ yếu là hàng đổi hàng giữa các nước theo mô ̣t tỷ giá
đã được thoả thuâ ̣n trong hiê ̣p định ký kết song phương hay đa phương.
b) Chính sách tỷ giá (phương pháp xác định, chính sách quản lý)
Tỷ giá trong giai đoạn này được xác định dựa trên viê ̣c so sánh sức mua giữa hai
đồng tiền, sau đó được qui định trong các hiê ̣p định thanh toán được ký kết giữa các
nước XHCN.
Tỷ giá của Viê ̣t Nam lần đầu tiên được công bố vào ngày 25/11/1955 là tỷ giá
giữa đồng Nhân dân tệ (CNY) và VND. 1CNY=1470VND. (Tỷ giá này được xác định
bằng cách chọn ra 34 đơn vị hàng hóa cùng loại, thông dụng nhất, tại cùng mô ̣t thời
điểm tại thủ đô và có tham khảo thêm giá cả ở một số tỉnh khác để qui đổi ra tổng giá
cả của 34 mă ̣t hàng đó theo hai loại tiền của 2 nước.)
Sau đó, khi Viê ̣t Nam có quan hê ̣ ngoại thương với Liên Xô, tỷ giá giữa VND và
đồng Rúp (SUR) được tính chéo nhờ tỷ giá giữa CNY và SUR đã có từ trước. 1 SUR
= 0.5 CNY ⇒ 1 SUR = 735 VND.
Tỷ giá hối đoái trong giai đoạn này được giữ cố định trong một thời gian dài.
Một đặc trưng nữa của tỷ giá trong giai đoạn này là “đa tỷ giá” tức là việc tồn
tại song song nhiều loại tỷ giá: tỷ giá chính thức, phi mậu dịch, kết toán nội bộ.
- Tỷ giá chính thức: (còn gọi là tỷ giá mậu dịch) là tỷ giá do ngân hàng nhà nước
công bố và dùng để thanh toán mậu dịch với Liên Xô và các nước XHCN khác. Đây
là tỷ giá dùng trong thanh toán có liên quan đến mua, bán hàng hóa, dịch vụ vâ ̣t chất
giữa các nước trong phe XHCN.
- Tỷ giá phi mậu dịch: là tỷ giá dùng trong thanh toán chi trả hàng hóa hoă ̣c dịch
vụ vâ ̣t chất không mang tính thương mại . Như: chi về ngoại giao, đào tạo, hô ̣i thảo,
hô ̣i nghị…
- Tỷ giá kết toán nội bộ: được tính trên cơ sở tỷ giá chính thức cộng thêm hệ số
phần trăm nhằm bù lỗ cho các đơn vị xuất khẩu. Tỷ giá này không công bố ra ngoài
mà chỉ áp dụng trong thanh toán nội bộ. Nó thoát ly tỷ giá mâ ̣u dịch nhằm bù đắp
những khoản thua lỗ trong kinh doanh xuất nhâ ̣p khẩu của các doanh nghiê ̣p nhà
nước. Đây thực chất là mô ̣t hình thức bù lỗ có tính chất bao cấp thông qua tỷ giá.
c) Tác đô ̣ng đến nền kinh tế
Thực ra trong giai đoạn này do quan hê ̣ thương mại đầu tư của Viê ̣t Nam và
Downloaded by hây hay (
[email protected])
lOMoARcPSD|17838488
khối SEV là quan hê ̣ hàng đổi hàng, mang nă ̣ng tính chất viê ̣n trợ, viê ̣c di chuyển,
chuyển giao về ngoại tê ̣ là không có nên viê ̣c quy định t ỷ giá hối đoái giữa VND và
các ngoại tê ̣ khác chỉ mang tính hạch toán.
Quan hệ về cung cầu ngoại hối trên thị trường đã không được phản ánh đúng
đắn trong tỷ giá. Biểu hiện rõ nhất của tình trạng này là việc tồn tại một thị trường
“chợ đen” với một tỷ giá khác xa tỷ giá chính thức.
Năm
Tỷ giá chính thức
Tỷ giá thị trường tự do
1985
15
115
1986
80
425
1987
368
1.270
1988
3.000
5.000
1989
3.900
4.750
Do đồng tiền Viê ̣t Nam được định giá quá cao so với các đồng tiền tự do chuyển
đổi nên:
- Cán cân thương mại bị thâm hụt nă ̣ng, xuất khẩu gă ̣p nhiều bất lợi trong khi
nhâ ̣p khẩu thì có lợi và thường xuyên tăng lên. Hâ ̣u quả là hàng nô ̣i bị hàng ngoại
chèn ép, sản xuất trong nước bị đình đốn.
- Nhà nước phải áp dụng tỷ giá kết toán nô ̣i bô ̣ để bù lỗ cho các đơn vị sản xuất
hàng xuất khẩt nhưng chưa đáp ứng được nhu cầu và chưa đủ bù đắp chi phí sản xuất.
- Cán cân thanh toán bị bô ̣i chi, dự trữ ngoại tê ̣ bị giảm sút, phản ứng của chính
phủ lúc này là tăng cường quản lý ngoại hối, bảo hô ̣ mâ ̣u dịch và kiểm soát hàng nhâ ̣p
khẩu. Nhưng từ đó nảy sinh tình trạng khan hiếm vâ ̣t tư, hàng hóa, nguyên vâ ̣t liê ̣u cần
thiết khiến cho tốc đô ̣ tăng trưởng châ ̣m lại, sản xuất trong nước trì trê ̣, đình đốn lại
càng trở nên tồi tê ̣, sức ép lạm phát tăng vọt.
d) Đánh giá
Ưu điểm:
-Thúc đẩy đầu tư từ nước ngoài do lo ngại về việc mất giá nghiêm trọng đồng tiền
là rất nhỏ.
-Kiểm soát lạm phát, tạo tâm lý an toàn tin tưởng: một tỷ giá cố định sẽ có ích hơn
cho chính phủ trong cố gắng kiềm chế lạm phát.
-Ngăn ngừa bong bóng tỷ giá do đầu cơ so với tỷ giá thả nổi.
Nhược điểm:
-Tạo ra sự chênh lệch giữa tỷ giá thực và tỷ giá danh nghĩa: do sự mất cân bằng
cung và cầu thực về tiền tệ, sự cứng nhắc trong tỷ giá tạo ra những chỉ báo không
Downloaded by hây hay (
[email protected])
lOMoARcPSD|17838488
chính xác về nền kinh tế.
-Làm sai lệch các tính toán: tỷ giá cố định không phản ánh được tình trạng chính
xác của nền kinh tế khi được đem vào các chính sách kinh tế để dự báo sẽ dẫn đến
những ước lược sai lệc về sức khỏe, chiều hướng của nền kinh tế.
-Tạo ra tỷ giá chợ đen: sự mất cân bằng cung cầu dẫn đến hình thành một thị trường
mua bán ngoại tệ ngoài vòng quản lý của nhà nước.
Ib. Giai đoạn 2: 1989 - 1991
a) Bối cảnh kinh tế.
Đông Âu, Liên Xô sụp đổ, quan hê ̣ ngoại thương được bao cấp với các thị
trường truyền thống bị gián đoạn, khiến chúng ta phải chuyển sang buôn bán với khu
vực thanh toán bằng đồng Đô-la My.
Quá trình đổi mới kinh tế thực sự diễn ra mạnh mẽ bắt đầu từ năm 1989. Chính
phủ cam kết và thực thi chiến lược ổn định hóa nền kinh tế - tài chính – tiền tê ̣, trong
đó vấn đề tỷ giá được coi là khâu đô ̣t phá , có vai trò cực kỳ quan trọng đối với quá
trình cải cách, chuyển đổi cơ chế và mở cửa kinh tế.
b) Chính sách tỷ giá.
Nghị định 53/HĐBT ra đời, qui định về việc tách hệ thống Ngân hàng Viê ̣t Nam
từ một cấp thành hai cấp, bao gồm ngân hàng nhà nước thực hiện chức năng quản lý
vĩ mô và hệ thống ngân hàng thương mại thực hiện chức năng kinh doanh tiền tệ và
tín dụng. Tỷ giá mua bán của các ngân hàng được phép dựa trên cơ sở tỷ giá chính
thức do NHNN công bố cô ̣ng trừ 5%.
Quá trình xóa bỏ chế đô ̣ tỷ giá kết toán nô ̣i bô ̣ diễn ra cùng lúc với viê ̣c điều
chỉnh giảm giá mạnh nô ̣i tê ̣ (không khác gì thả nổi). (Bảng dưới)
Để giảm bớt chênh lệch tỷ giá nhằm tiến tới điều hành tỷ giá dựa chủ yếu vào
quan hệ cung cầu trên thị trường, nhà nước đã thông qua chính sách tỷ giá linh hoạt
hơn – điều chỉnh tỷ giá chính thức theo tỷ giá trên thị trường tự do sao cho mức chênh
lệch nhỏ hơn 20%. Kết quả là mức chênh lệch tỷ giá được thu hẹp.
Năm
Tỷ giá ngân hàng
Tỷ giá thị trường tự
(bình quân)
do (bình quân)
1989
3.900
4.750
1990
5.133
5.610
1991
9.274
9.546
1992
11.179
11.334
Downloaded by hây hay (
[email protected])
lOMoARcPSD|17838488
c) Tác đô ̣ng đến nền kinh tế.
Kim ngạch xuất khẩu tăng. Năm 1990 tăng 18,8% ; 1991: 48,63%.
Đồng Viê ̣t Nam liên tục bị mất giá so với Đô la My làm giá cả hàng nhập khẩu
tăng nhanh. Chi phí đầu vào cho quá trình sản xuất tăng lên là điều kiện thúc đẩy lạm
phát. Tỷ lệ lạm phát của nước ta tăng trở lại: từ 34,7% năm 1989 lên 67,5% trong hai
năm 1990 và 1991.
d) Đánh giá
Ưu điểm:
-Phản ánh kịp thời các biến động, các xu hướng kinh tế thế giới làm cho nền kinh tế
quốc gia hòa nhập với tiến trình vận động chung của nền kinh tế thế giới.
-Tạo điều kiện tiền tệ cho cạnh tranh bình đẳng, giúp cho các nhà kinh doanh, nhà
làm kinh tế năng động bắt kịp với xu thế phát triển của nền kinh tế.
Nhược điểm:
-Gây ra những biến động lớn trong tỷ giá, tác động xấu đến hoạt động ngoại thương.
-Dễ dẫn đến các cú sốc về cung cầu ngoại thương giả tạo do nạn đầu cơ phát triển
nếu như không có sự quản lý chặt chẽ ngoại hối trong nước.
-Độ rủi ro về biến động tỷ giá rất cao đối với các nguồn thu nhập từ đầu tư nước
ngoài, điều này gây trở ngại trong việc thu hút đầu tư nước ngoài.
Ic. Giai đoạn 3: 1992 - 1999
a) Bối cảnh kinh tế.
Thị trường với các nước XHCN cũ bị thu hẹp một cách đáng kể.
Về phương diê ̣n thanh toán quốc tế, Viê ̣t Nam đứng trước mô ̣t tình thế vô cùng
khó khăn. Bên cạnh hê ̣ thống thanh toán đa biên đã bị tan rã , tất cả các nước CNXH
đều đồng loạt chuyển đổi đồng tiền thanh toán với Viê ̣t Nam bằng ngoại tê ̣ tự do
chuyển đổi (chủ yếu là USD). Viê ̣c chuyển đổi đồng tiền thanh toán có ảnh hưởng lớn
đến khả năng thanh toán của Viê ̣t Nam bằng ngoại tê ̣ vì trước đó, hầu hết nguồn thu
ngoại tê ̣ của Viê ̣t Nam đều bằng đồng Rúp chuyển nhượng, chỉ có mô ̣t lượng nhỏ bằng
ngoại tê ̣ tự do chuyển đổi.
Điều đó đã dẫn đến cán cân vãng lai và cán cân thương mại thâm hụt lớn, nhập
khẩu gấp 3 lần xuất khẩu. sự thiếu hụt trong cán cân thương mại được bù đắp bằng các
khoản viê ̣n trợ, cho vay của các nước CNXH mà chủ yếu là Liên Xô.
Năm 1997, cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Đông Nam Á bùng nổ buộc các
nước này phải tiến hành phá giá mạnh đồng nội tệ và Việt Nam cũng không nằm ngoài
xu hướng đó.
b) Chính sách tỷ giá.
-Thời kỳ 1992-1994: tỷ giá chính thức hình thành trên cơ sở đấu thầu tại trung
tâm giao dịch ngoại tê ̣.
Downloaded by hây hay (
[email protected])
lOMoARcPSD|17838488
Trong thời gian này, NHNN đề nghị với chính phủ thành lâ ̣p Quy điều hòa ngoại
tê ̣ tại NHNN để có thể can thiê ̣p vào thị trường ngoại hối nhằm ổn định tỷ giá. C hính
phủ ủy quyền cho Thống đốc được toàn quyền điều hành quy mô ̣t cách linh hoạt.
Có thể nói, viê ̣c thành lâ ̣p quy ngoại tê ̣ tại NHNN đã làm dịu những biến đô ̣ng
thất thường của tỷ giá trên thị trường. NHNN đã sử dụng quy mô ̣t cách rất linh hoạt và
hiê ̣u quả. Quy tạo cho NHNN mô ̣t nguồn lực thực sự để can thiê ̣p nhằm ổn định tỷ
giá, đáp ứng nhu cầu thiết yếu của nền kinh tế về ngoại tê ̣.
Tháng 9/1991 ngân hàng nhà nước đã thành lập một trung tâm giao dịch ngoại
tệ tại thành phố Hồ Chí Minh và tháng 11/1991, một trung tâm giao dịch thứ hai ở Hà
Nội cũng ra đời.
Đối tượng tham gia giao dịch trên các trung tâm này là các ngân hàng được
phép kinh doanh ngoại tê ̣, các tổ chức XNK kinh doanh trực tiếp với nước ngoài và
NHNN. Ngoài ra các ngân hàng được phép tâ ̣p hợp các yêu cầu mua bán ngoại tê ̣ của
khách hàng không trực tiếp mua bán tại trung tâm.
Trung tâm hoạt đô ̣ng theo nguyên tắc đấu giá từ thấp đến cao hoă ̣c ngược lại để
đạt được cân bằng cung cầu về ngoại tê ̣.
Tỷ giá chính thức của đồng Viê ̣t Nam được xác định có căn cứ vào tỷ giá đóng
cửa tại các phiên giao dịch ở các trung tâm theo nguyên tắc tỷ giá mua vào không
được vượt quá 0.5% so với tỷ giá ấn định tại phiên giao dịch trước.
Viê ̣c thành lâ ̣p hai trung tâm giao dịch ngoại tê ̣ là bước ngoă ̣t đầu tiên của hê ̣
thống ngân hàng trong quá trình đổi mới thực sự theo hướng thị trường. Thông qua
hoạt đô ̣ng của hai trung tâm, với vai trò là người tổ chức và điều hành, NHNN đã kịp
thời nắm bắt cung cầu ngoại tê ̣ trên thị trường để điều hành chính sách tiền tê ̣ cũng
như tỷ giá phù hợp với tín hiê ̣u thị trường.
Năm
Tỷ giá chính thức
1992
10.718
1993
10.840
1994
11.003
-Thời kỳ 1995-1999: tỷ giá được hình thành trên cơ sở tỷ giá liên ngân hàng.
Thành lâ ̣p thị trường ngoại tê ̣ liên ngân hàng (20/10/1994). Có qui mô lớn hơn,
hoạt đô ̣ng linh hoạt hơn nên tỷ giá hối đoái ngày càng phản ánh đầy đủ hơn quan hê ̣
cung cầu thị trường. Qua thị trường liên ngân hàng, ngân hàng nhà nước nắm bắt dấu
hiê ̣u thị trường về tỷ giá hối đoái, công bố tỷ giá chính thức hàng ngày và biên đô ̣ giao
dịch cho các ngân hàng thương mại.
Từ tháng 7/1997, do chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ
Châu Á, đồng Viê ̣t Nam chịu áp lực giảm giá mạnh đã khiến cho thị trường ngoại hối
Downloaded by hây hay (
[email protected])
lOMoARcPSD|17838488
rơi vào tình trạng đầu cơ, tích trữ ngoại tệ, cầu ngoại tệ luôn lớn hơn cung. Trong hai
năm 1997-1998, nhà nước đã ba lần chủ động điều chỉnh tỷ giá VND/USD, đồng thời
nới rộng biên độ giao dịch giữa các ngân hàng thương mại với các khách hàng trên thị
trường ngoại tệ.
Năm
Tỷ giá chính thức
1995
11.021
1996
11.040
1997
11.175
1998
12.985
1999
14.016
c) Tác đô ̣ng đến nền kinh tế.
Cuối giai đoạn, trong thời kỳ xảy ra khủng hoảng tài chính ở khu vực, tỷ giá
tăng lên do điều chỉnh của chính phủ là để tăng cao sức cạnh tranh của hàng hóa Viê ̣t
Nam.
Việc tỷ giá của Viê ̣t Nam không tăng quá nhanh như của các nước khác trong
khu vực có tác động tích cực vì không tạo tâm lý hoang mang cho người dân, không
gây ra một sức ép lớn lên nợ nước ngoài và hạn chế thiệt hại cho nhập khẩu.
d) Đánh giá
Ưu điểm
-Ổn định kinh tế vĩ mô.
-Ổn định tỷ giá cho hoạt động thương mại quốc tế diễn ra thuận lợi
Nhược điểm
-NHTW phải có một lượng ngoại tế đủ lớn để duy trì tỷ giá và phải thường xuyên
giám sát sự biến động của tỷ giá đặc biệt khi có các bất ổn kinh tế - chính trị trên thế
giới
-Chi phí can thiệp và quản lý ngoại hối là không nhỏ.
Id. Giai đoạn thứ 4: 1999 - nay
1. Giai đoạn 1999 - 2000
1.1 Bối cảnh kinh tế
Cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực Đông Nam Á ảnh hưởng trực tiếp
Downloaded by hây hay (
[email protected])
lOMoARcPSD|17838488
vấn đề tỷ giá hối đoái. Cuộc khủng hoảng làm cho cho một loạt đồng tiền của các
nước trong khu vực giảm giá mạnh so với đồng USD và VND (Bảng 1). Điều đó cũng
có nghĩa là đẩy giá trị của VND đang bị đánh giá cao hơn thực tế, lên giá hơn nữa.
Bảng 1: Mức giảm giá của một đồng tiền khu vực từ tháng 7/1997 đến tháng
10/1997 (so với đồng USD)
Thời gian
Rupiah
Ringgit
SGD
Baht
Pêsô
Ngày 01/07/1997
2,433
2,5245
1,430
24,7
26,37
Ngày 31/10/1997
3,580
3,580
1,585
40,6
35,42
Mức giảm (%)
32
28,9
9,7
39,2
25,6
Nguồn: Ngân hàng nhà nước
Trong bối cảnh bạn hàng chủ yếu và quan trọng của Việt Nam, cơ cấu mặt hàng
xuất khẩu gần giống nhau thì xuất khẩu của Việt Nam sẽ càng bất lợi. Những tác động
này sẽ ngày càng trầm trọng hơn, nếu Chính phủ không có những biện pháp kịp thời
để điều chỉnh tỷ giá.
Tuy nhiên, đây là thời kỳ đầu Việt Nam chuyển đổi từ cơ chế quản lý nền kinh
tế kế hoạch hóa tập trung bao cấp, sang cơ chế thị trường định hướng XHCN , quan hệ
thương mại mới đang được mở cửa từng phần, thị trường tài chính - tiền tệ thì vẫn
chưa phát triển đầy đủ và mở cửa, nên Việt Nam không bị kéo ngay vào làn sóng của
cuộc khủng hoảng. Chế độ tỷ giá đã linh hoạt nhưng vẫn có sự kiểm soát của nhà
nước(hàng ngày NHNN công bố tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường ngoại tệ
liên ngân hàng của VND/USD trên các phương tiện thông tin đại chúng, thay cho việc
công bố tỷ giá chính thức và tỷ giá bình quân mua vào,bán ra trên các thị trường ngoại
tệ liên ngân hàng).
Nếu thanh toán bằng các đồng tiền khác không phải USD (EUR, JPY, GBP…)
phải tính tỷ giá chéo suy ra từ tỷ giá VND/USD
1.2 Chính sách tỷ giá
Từ đầu năm 1999, NHNN đã chính thức bỏ cơ chế điều hành tỷ giá theo kiểu
bao cấp như trước đây thông qua việc công bố 2 quyết định số 64/1999/QĐ - NHNN7
về việc công bố tỷ giá hối đoái của VND với các ngoại tệ và Quyết định số
65/1999/QĐ -NHNN (có hiệu lực từ ngày 26/2/1999) về việc quy định nguyên tắc xác
định tỷ giá mua bán ngoại tệ của các tổ chức tín dụng được phép kinh doanh ngoại tệ.
Từ đó, một cơ chế điều hành tỷ giá mới hình thành: thay cho công bố tỷ giá chính
thức, hàng ngày NHNN sẽ công bố tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường ngoại tệ
liên ngân hàng của VND so với USD. Căn cứ vào tỷ giá này, tổng giám đốc, giám đốc
các tổ chức tín dụng được phép kinh doanh ngoại tệ xác định tỷ giá mua bán ngoại tệ
theo nguyên tắc: đối với USD, tối đa không vượt quá 0.1% so với giá NHNN công bố
Downloaded by hây hay (
[email protected])
lOMoARcPSD|17838488
của ngày giao dịch gần nhất trước đó. Còn đối với các ngoại tệ khác, tỷ giá sẽ do tổng
giám đốc, giám đốc các tổ chức tín dụng được phép kinh doanh ngoại tệ xác định.
Như vậy tỷ giá đã được hình thành trên cơ sở thị trường.
Bên cạnh đó, biên độ quy định tỷ giá các NHTM được phép giao dịch cũng
không ngừng được đổi mới. Nếu như trong thời gian đầu 1999-2000, khi mới thực
hiện cơ chế này, NHNN còn quy định quá chi tiết các mức độ và biên độ quá hẹp,
được coi là can thiệp quá sâu vào công việc kinh doanh của các NHTM, thì về sau
cũng dần dần được chỉnh sửa theo hướng nới rộng hơn.
1.3. Tác động
Năm
Xuất khẩu Tốc
(triệu
tăng
USD)
(%)
độ Nhập
khẩu
(triệu
USD)
Tốc
tăng
(%)
độ Cán cân Lạm phát
thương
mại
1988
9630,3
4,84
11499,6
-0.79
-1869,3
9.2%
1999
11541,4
23,3
11742,1
2,1
-200,7
0.1%
2000
14482,7
25,5
15636,5
33,2
-1153,8
-0.6%
Nguồn: Tổng cục thống kê, Ngân hàng nhà nước
a, Tới xuất nhập khẩu
Nhờ chính sách tỷ giá linh hoạt hơn cùng với các chính sách hỗ trợ khác, nền
kinh tế Việt Nam đã có những khởi sắc. Kim ngạch xuất nhập khẩu gia tăng đáng kể,
các mặt hàng của Việt Nam ngày càng có chỗ đứng trên thị trường thế giới. Bên cạnh
đó, xuất khẩu được thúc đẩy và nhập khẩu vẫn có lợi, nhất là trong điều kiện nước ta
vẫn trong tình trạng nhập siêu ở mức độ lớn.
b, Tới cán cân thương mại
Cán cân thương mại được cải thiện trong những năm 1999, 2000. Thực hiện
chính sách tỷ giá theo quan điểm “giữ và nâng giá đồng Việt Nam”, tỷ giá danh nghĩa
(USD/VND) liên tục bị ép ở mức thấp tương đối so với tỷ giá thực tế. Hệ quả của
chính sách tỷ giá trên là nhập siêu tăng liên tục diễn ra từ năm 1995-1999 như đã nói ở
trên. Tuy nhiên sự thay đổi trong chính sách đã cải thiện một phần tình trạng nhập
siêu, từ xấp xỉ -2000 giảm xuống còn -200.7 năm 1999.
c, Tới lạm phát
Lạm phát giảm từ mức 9,2% năm 1998 xuống còn 0,1% năm 1999 và -0,6%
năm 2000. Nguyên nhân chủ yếu là do giá lương thực, thực phẩm và nhiều nông sản
khác giảm mạnh trên thị trường thế giới như thóc, gạo, cà phê, cao su,…trong khi
chính sách tiền tệ lại liên tục được nới lỏng. Có thể kết luận rằng, nhờ có một chính
sách tỷ giá phù hợp, lạm phát giai đoạn 1999-2000 là giai đoạn lạm phát vừa phải, tỷ
lệ lạm phát chỉ dừng lại ở 1 con số
Downloaded by hây hay (
[email protected])
lOMoARcPSD|17838488
1.4. Đánh giá
a, Ưu điểm
- Năm 1999 tỷ giá luôn ổn định và cơ bản phù hợp với cung cầu ngoại tệ trên thị
trường và mục tiêu quản lý của NHNN. Giao dịch mua bán ngoại tệ giữa ngân
hàng và doanh nghiệp cũng như các giao dịch trên thị trường ngoại tệ liên ngân
hàng sôi động hơn năm trước.
- Nhu cầu ngoại tệ cho sản xuất kinh doanh cơ bản được đáp ứng đầy đủ. NHNN
đã mua được một số lượng đáng kể ngoại tệ để tăng dự trữ ngoại tệ nhà nước
và bổ sung ngoại tệ cho quy kinh doanh. Có thể nói, việc đổi mới cơ chế quản
lý tỷ giá theo Quyết định số 64/1999/QĐ - NHNN7 ngày 25/2/1999 là một
bước đi đúng đắn và phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế cũng như công tác
điều hành chính sách tiền tệ. NHNN đã chấm dứt việc công bố tỷ giá chính
thức theo lối hành chính như trước đây, chuyển sang công bố tỷ giá giao dịch
bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng.
b, Nhược điểm
- Các ngân hàng vẫn tuân theo quy định quản lý ngoại hối là xác định tỷ giá của
các loại ngoại tệ khác USD dựa theo tỷ giá trên thị trường tiền tệ quốc tế. Tuy
nhiên, NHNN không quy định cơ sở xác định tỷ giá giữa VND và các ngoại tệ
skhác USD dựa trên tỷ giá VND/USD NHNN công bố và tỷ giá giữa USD so
với các ngoại tệ khác theo thị trường tiền tệ quốc tế, mà cho phép các ngân
hàng thương mại tự quy định. Do đó, các ngân hàng thương mại lợi dụng kẽ hở
này để đặt ra một tỷ giá thoả thuận giữa VND với ngoại tệ khác USD, chẳng
hạn giữa VND và EUR đồng nghĩa với việc ngân hàng thương mại đẩy tỷ giá
giao ngay VND/USD cao hơn mức trần quy định của NHNN.
- Việc khống chế tỷ giá kinh doanh ở mức 0,1% là quá hẹp, không thúc đẩy được
việc yết giá cạnh tranh giữa các ngân hàng, tạo sức ỳ trong kinh doanh và thủ
tiêu tính năng động của thị trường. Đứng trước tình hình khan hiếm ngoại tệ,
thị trường luôn chịu áp lực cầu lớn hơn cung, trong khi tỷ giá lại bị khống chế
trần tối đa, nên thị trường có lúc rơi vào tình trạng “mua tranh, bán ép”.
2. Giai đoạn 2001 - 2013
Trong giai đoạn này VN điều hành tỷ giá theo cơ chế neo tỷ giá với biên độ được điều
chỉnh rất nhiều lần. Trong giai đoạn này chia nhỏ hơn thành 2 thời kỳ 2001-2006
(trước khi gia nhập WTO) và 2007-2013
2.1. Giai đoạn 2001-2006
2.1.1. Bối cảnh kinh tế
Đây là giai đoạn nền kinh tế Châu Á mới bước qua cuộc khủng hoảng tài chính 1997
Downloaded by hây hay (
[email protected])
lOMoARcPSD|17838488
và trước cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2007-2008. Đây cũng là mốc đánh dấu
chuyển tiếp từ thế kỉ 20 với đầy chiến tranh và đau thương của dân tộc sang thế kỉ 21
có nhiều triển vọng mới.
Ở thời điểm này, đất nước đã giành được nhiều thành tựu kinh tế đáng kể. Nền kinh tế
của chúng ta đã tăng trưởng khá cao, đỉnh điểm là 8,4% tăng trưởng GDP của năm
2005. Ngoài ra, hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam trong giai đoạn này đã có
những bước tiến mới quan trọng, trong đó lượng vốn ODA và FDI đổ từ nước ngoài
vào đã lên tới 2 con số. Cùng với sự tăng trưởng kinh tế ở mức khá cao, cán cân
thương mại, giao dịch vãng lai, giao dịch vốn được cải thiện đáng kể, nguồn ngoại tệ
bổ sung cho dự trữ ngoại hối Việt Nam đã tăng lên nhanh chóng, tổng số dự trữ ngoại
hối của nước ta đã tương đương 18,18%GDP.
Tuy nhiên, thời kì này Việt Nam vẫn được coi là một nước nghèo, mới bước ra khỏi
chiến tranh và vẫn trong thời kỳ đầu chuyển đổi từ cơ chế quản lỳ nên kinh tế kế
hoạch hóa tập trung bao cấp, sang cơ chế thị trường định hướng XHCN. Nước ta vẫn
là một nước có thu nhập thấp và nợ nước ngoài nhiều đặc biệt là Liên Xô cũ( thời
điểm bấy giờ là Nga). Để có đủ ngoại tệ thanh toán hoặc trả nợ vay nước ngoài, phần
lớn các doanh nghiệp phải mua gom từ nhiều ngân hàng hoặc phải nhận nợ vay ngoại
tệ, từ đó dẫn đến tình trạng “sốt” ngoại tệ bộc phát làm cho tỷ giá biến động rất bất
thường ở thời điểm này.
2.1.2. Chính sách tỷ giá qua từng năm
Giai đoạn này, nước ta áp dụng cơ chế tỷ giá neo cố định, tỷ giá bình quân liên ngân
hàng mà NHNN công bố được giữ xoay quanh từ mức 14.000 VND/USD lên mức
16.000 VND/USD.
Chính sách tỷ giá ở giai đoạn này vẫn thực hiện theo Quyết định số 65/QĐ-NHNN
ngày 26/2/1999NHNN lấy tỷ giá bình quân giao dịch của phiên giao dịch gần nhất
trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng làm tỷ giá trung tâm và công bố, các NHTM
được phép yết giá mua bán USD trong phạm vi biên độ cho phép. Theo đó, tỷ giá của
các đồng tiền khác được tính chéo thông qua tỷ giá với USD.
Năm 2001
Như đã nói ở trên, vào những năm 1999-2000 tình trạng “sốt” ngoại tệ diễn ra rất phổ
biến do nhu cầu trả nợ nước ngoài cao và các doanh nghiệp đầu cơ ngoại tệ lớn để
phục vụ cho việc nhập khẩu. Tuy nhiên, sang đến năm 2001, Cung ngoại tệ của các
ngân hàng dồi dào hơn vì các doanh nghiệp không còn tư tưởng găm giữ ngoại tệ
nhiều trên tài khoản nữa và các ngân hàng cũng không duy trì trạng thái ngoại tệ
dương lớn nữa mà chỉ để một lượng thích hợp nhằm đảm bảo cân đối được nhu cầu
khách hàng của mình. =>Nguyên nhân của chiều hướng tích cực này là do Thống đốc
NHNN công bố sẽ can thiệp bằng cách bán ngoại tệ cho mọi nhu cầu nhập khẩu các
mặt hàng thiết yếu của nền kinh tế và các chính sách can thiệp thị trường tiền tệ của
NHNN đã bắt đầu phát huy tác dụng.
Ngoài ra, việc NHNN hai lần liên tục điều chỉnh tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 5% lên
7% và lên 12% cũng như việc Cục dự trữ liên bang My (Fed) cắt giảm lãi suất chủ đạo
Downloaded by hây hay (
[email protected])
lOMoARcPSD|17838488
xuống còn 6% rồi 5,5% đã khiến cho các NHTM không thể trông chờ vào việc hưởng
lãi tiền gửi nước ngoài như trước nữa mà phải đẩy mạnh tín dụng trong nước để thu về
lợi nhuận. Như vậy, trong 4 tháng đầu năm, tỷ giá giữa VND và USD tương đối ổn
định.
Tuy nhiên, kể từ sau tháng 5/2001, tỷ giá trên thị trường tự do có thay đổi rõ rệt. Tỷ
giá USD/VND tại các ngân hàng thương mại cũng tăng cao và luôn ở mức kịch trần.
Nguyên nhân của tình trạng này là do xu hướng lên giá của USD trên thị trường quốc
tế và tỷ lệ kết hối trong nước giảm từ 50% xuống còn 40% áp dụng từ tháng 5/2001 đã
làm giảm nguồn cung ngoại tệ dẫn đến khan hiếm ngoại tệ và đồng Việt Nam bị xuống
giá mạnh so với đô la My. Đó là toàn bộ diễn biến về chính sách tỷ giá ở năm 2001.
Năm 2002
Trong năm 2002, NHNN vẫn tiếp tục điều hành và thực hiện lãi suất tái chiết khấu và
lãi suất tái cấp vốn đối với các Tổ chức tín dụng. Tuy nhiên, từ ngày 1/7/2002, NHNN
quyết định nới rộng biên độ quy định tỷ giá cho các Tổ chức tín dụng trong giao dịch
mua bán ngoại tệ đối với khách hàng lên ±0,25% so với mức ±0,10% đối với nghiệp
vụ giao ngay. Đây là một dấu hiệu tích cực cho thấy cho thấy NHNN đã bắt đầu nới
lỏng chính sách tỷ giá hơn đối với các NHTM do tình trạng “sốt” ngoại tệ đã giảm.
Sau khi ban hành quy định này, thị trường vốn phản ứng rất tích cực, vì nó giảm đã
dần những quy định mang tính chất hành chính can thiệp vào quyền tự chủ kinh doanh
của các Tổ chức tín dụng trên thị trường. Đồng thời sự thay đổi đó cho phép tiến tới
tự do hoá thị trường giao dịch ngoại hối phù hợp với thông lệ quốc tế, nhất là Việt
Nam đang tiến tới thực hiện đầy đủ các nội dung của Hiệp định thương mại Việt –
My, gia nhập WTO…
Hơn nữa, từ tháng 10/2002, Thống đốc NHNN đã ban hành quy định mới về trạng thái
ngoại tệ đối với các NHTM. Theo đó tỷ lệ số dư ngoại tệ so với vốn tự có của các
NHTM trước đây quy định là 15%, thì nay đã tăng lên 30% bao gồm cả các đồng
ngoại tệ khác đô la My. Có thể thấy đây là những thay đổi quản lý ngoại hối mang
tính rất tích cực, tháo gỡ khó khăn về kinh doanh ngoại hối, tạo điều kiện cho các
NHTM chủ động đáp ứng nhu cầu ngoại tệ cho các doanh nghiệp thực hiện các hợp
đồng nhập khẩu.
Do ảnh hưởng từ việc đầu cơ ngoại từ tồn đọng từ những năm trước đó, NHNN đã đề
ra những biện pháp nhằm thu hút ngoại tệ ngoài thị trường vào hệ thống các ngân
hàng, các biện pháp là:
-
-
Đầu tháng 10/2002, NHNN đã chấp thuận cho doanh nghiệp trong nước thí
điểm đầu tư vốn ngoại tệ ra nước ngoài. Đây là biện pháp quan trọng làm tăng
nhu cầu vay vốn ngoại tệ của các doanh nghiệp từ các NHTM trong nước,
khuyến khích họ thu hút vốn ngoại tệ trong dân vào ngân hàng.
Ngày 4/12/2002, Thống đốc NHNN quyết định tăng lãi suất tiền gửi ngoại tệ
của các Tổ chức tín dụng và Kho bạc nhà nước từ 1,2%/năm lên1,35%/năm, có
tác động tích cực về việc tăng lãi suất huy động vốn USD, thu hút ngoại tệ từ
xã hội vào hệ thống ngân hàng.
Downloaded by hây hay (
[email protected])
lOMoARcPSD|17838488
Với các biện pháp mang tính tích cực trong năm 2002, thị trường ngoại hối nước ta đã
tương đối ổn định, tỷ giá biến động không nhiều. Trong suốt cả năm 2002 tỷ giá
VND/USD chỉ tăng 2,0%, thậm trong tháng 12 – tháng cuối năm chỉ xoay quanh mức
15.400 VND/USD.
Năm 2003-2006
Giai đoạn này nước ta đang trong quá trình chuẩn bị để kí kết tham gia WTO nên các
quy định đòi hỏi phải tuân thủ các thông lệ quốc tế và cần phải tự do hóa các tài khoản
vãng lai. Trong giai đoạn này, chế độ tỷ giá tương đối ổn định
Trong giai đoạn này, NHNN đã có những thay đổi cơ bản về tư duy quản lý trong việc
thực hiện các giao dịch hối đoái của các NHTM nhằm thúc đẩy sự phát triển thị
trường ngoại hối VN. Điều này được thực thi bằng quyết định của thống đốc NHNN
về điều chỉnh giao dịch hối đoái của các tổ chức tín dụng (TCTD) ngày 08,12,2004,
theo đó các NHTM được tự do hơn trong việc kinh doanh trên thị trường ngoại tệ.
Điều này đã làm cho thị trường ngoại hối VN có bước phát triển vượt bậc cả về chất
lượng và quy mô. Chắc chắn thị trường ngoại hối sẽ đông đảo, sôi động hơn, linh
hoạt, thông thoáng hơn, tự chủ hơn và cũng an toàn hơn.
Bên cạnh đó, chính sách tỉ giá hối đoái trong nước phụ thuộc một phần không nhỏ từ
chính sách tỉ giá hối đoái của các nước khác trong khu vực. Cụ thể, giai đoạn này,
đồng đô la đã bị mất giá mạnh so với các đồng chủ lực khác như Euro hay Bảng Anh
do cuộc chiến với Irag, bệnh dịch Sars diễn ra, cuộc chiến thương mại My-EU. Điều
này dẫn đến đồng tiền của các nước có chính sách tỷ giá neo cố định vào đô la My
như Việt Nam bị ảnh hưởng rất nhiều. Tuy nhiên, các nước Châu á, với sự can thiệp
mạnh tay từ chính phủ, đã kiềm chế sự tăng giá của đồng tiền nước mình so với Đôla
nhằm tăng tính cạnh tranh cho hàng hoá xuất khẩu trên thị trường quốc tế và Việt Nam
cũng không phải ngoại lệ. Giai đoạn này, NHNN Việt Nam cũng đã có các biện pháp
mạnh tay để kìm chế sự tăng giá của VND.
Ngoài ra cũng phải kể tới sự tham gia của các quy đầu tư vào thị trường tài chính Việt
Nam. Sự tham gia của các quy này còn tương đối nhỏ nhưng nó vẫn hứa hẹn nhiều với
sự mở cửa mạnh mẽ hơn của Việt Nam sau khi gia nhập WTO.=> Sự tham gia của các
quy sẽ làm tăng lượng cung đôla trên thị trường.
Trong giai đoạn này còn chứng kiến sự phát triển của thị trường chứng khoán trong
nước, điều này đồng nghĩa với việc nhu cầu sử dụng tiền đồng tăng cao, thay vì đầu
cơ hay tích luy ĐôLa thì người dân còn có thể tham gia đầu tư vào thị trường chứng
khoán. Từ đó giúp giảm cầu ĐôLa trên thị trường mà vốn người dân đang có tâm lý
đầu cơ tích trữ Đô La
Có thể thấy rằng trong giai đoạn này, tỷ giá giữa VND so với các đồng ngoại tệ ở giai
đoạn này vẫn tương đối ổn định do các chính sách phù hợp và mang tính tích cực của
NHNN. Đây cũng là tiền đề quan trọng cho việc gia nhập WTO của Việt Nam vào
năm sau.
Downloaded by hây hay (
[email protected])
lOMoARcPSD|17838488
2.1.3 Tác động của tỷ giá đến tình hình lạm phát
Thứ nhất, trong giai đoạn 2000-2003 không có biến động quá mạnh về kinh tế thế giới
và NHNN cũng đề ra được những biện pháp phù hợp giúp tỷ giá tương đối ổn định.
Điều này đã góp phần làm tỷ giá và lạm phát ổn định
Thứ hai, sau một giai đoạn ổn định ở mức thấp thì lạm phát đã tăng trở lại tới 9,5%
vào năm 2004 và nguyên nhân của tình trạng này được cho là do:
- Do những biến động của thế giới làm cho giá cả một số hàng hoá nhập khẩu và
Việt Nam tăng mạnh như giá xăng dầu, sắt thép… cộng với thiên tai dịch bệnh
xảy ra vào năm này ( dịch Sars Cov 1 xảy ra) là nguyên nhân gây ra lạm phát
quay trở lại vào năm này.
- Do chính sách tiền tệ nới lỏng và chính sách quản lý thiếu linh hoạt của NHNN
Thứ ba, Việt Nam đã trở thành thành viên của WTO vào cuối năm 2006 khiến cho
luồng vốn đầu tư trực tiếp và gián tiếp đổ vào Việt Nam tăng mạnh, nợ nước ngoài
cũng tăng. Để ổn định tỷ giá hối đoái có lợi cho xuất khẩu và đầu tư, tăng khả năng
cạnh tranh của hàng hoá trong nước, NHNN đã tăng cung VND phục vụ nhu cầu đổi
USD sang VND của các nhà đầu tư, điều này đã góp phần làm trầm trọng thêm tình
trạng lạm phát trong giai đoạn này.
Có thể thấy, chính sách tỷ giá không tác động trực tiếp đến lạm phát mà chỉ có tác
động gián tiếp qua chính sách tiền tệ.
2.1.4. Đánh giá
- Ưu điểm lớn nhất của chính sách tỷ giá trong giai đoạn này là NHNN đã đề ra
được những biện pháp phù hợp với thị trường tiền tệ Việt Nam và có các chính
sách giúp các NHTM tự do hơn trên thị trường kinh doanh ngoại tệ, từ đó giúp
tỷ giá tương đối ổn định thị trường tiền tệ trong nước cân bằng và có xu hướng
phát triển tốt.
- Nhược điểm lớn trong giai đoạn này là NHNN đã để VNĐ neo quá lâu vào
đồng USD khiến cho đồng Việt Nam quá phụ thuộc vào USD rất nhạy cảm
trước các biến động của USD.
2.2. Giai đoạn 2007-2011
2.2.1. Bối cảnh kinh tế:
Đây là giai đoạn với rất nhiều biến động xảy ra dẫn tới tỷ giá cũng có sự biến
động mạnh
Năm 2007 là năm đầu tiên Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO
và thực hiện cam kết PNTR (Permanent Normal Trade Relations - Quy chế Thương
mại bình thường vĩnh viễn) với Hoa Kỳ. Gia nhập WTO mang tới những cơ hội và
thách thức mới cho Việt Nam khi hội nhập kinh tế quốc tế: thị trường xuất khẩu mở
rộng, các rào cản thương mại Việt Nam với các nước thành viên WTO được dỡ bỏ
hoặc hạn chế. Đặc biệt trong năm 2007, lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng
Downloaded by hây hay (
[email protected])
lOMoARcPSD|17838488
vọt, (đạt 20,3 tỷ USD), vốn đầu tư gián tiếp, vốn ODA và kiều hối cũng có sự tăng
mạnh. Tuy nhiên, dòng vốn đầu tư nước ngoài vào nhiều sẽ gây khó khăn trong việc
kiểm soát khối lượng tiền và kiềm chế lạm phát, một lượng tăng cung USD trên thị
trường sẽ gia tăng áp lực nâng giá đồng nội tệ.
Giai đoạn này cũng xảy ra cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới, trong hai năm
2008-2009, điều này khiến tăng trưởng kinh tế VN ở mức thấp đi liền với lạm phát
cao (đặc biệt trong 2008), thâm hụt thương mại và thâm hụt ngân sách đều cao.
Cuối thời kì này, kinh tế thế giới biến động phức tạp dưới tác động của khủng
hoảng nợ công Châu Âu (2011). Trong nước, lạm phát trên đà tăng cao, cán cân vãng
lai thâm hụt mạnh, VND chịu áp lực phá giá.
Đối mặt với sự thay đổi của nền kinh tế, cùng với sự linh hoạt trong các chính
sách tiền tệ và tài khóa, NHTW đã có những biện pháp can thiệp vào chính sách tỷ
giá.
2.2.2. Chính sách tỷ giá qua các năm
Trong giai đoạn này NHNN áp dụng chế độ tỷ giá ổn định, có kiểm soát của
Nhà nước, nhiều lần thay đổi biên độ giao dịch.
NHNN một mặt nới lỏng chính sách ngoại tệ đã phù hợp với các thông lệ quốc
tế, mặt khác phải tìm mọi biện pháp ổn định tỷ giá, kiểm soát việc mua bán ngoại tệ
trên thị trường để hỗ trợ các Doanh nghiệp xuất nhập khẩu và ổn định nền kinh tế,
phòng chống ảnh hưởng của suy giảm tài chính toàn cầu.
USD ngày càng mất giá trị trong giai đoạn này, vì vậy giá trị của VND bị giảm
sút rất nhiều gây khó khăn cho các doanh nghiệp nhập khẩu và thanh toán quốc tế
NHNN Việt Nam điều chỉnh tỷ giá liên ngân hàng, Chính phủ tăng cường kiểm
soát kinh doanh ngoại tệ.
Năm 2007
Tính tới tháng 6/2007, NHNN đã tăng cung VND hơn 110% so với năm 2006,
và tăng tổng cộng 135% tính từ cuối năm 2005, nhằm mua lại lượng ngoại tệ, mục
đích giữ VND yếu để nâng cao năng lực cạnh tranh về giá cả của hàng xuất khẩu.
Bên cạnh đó, thực hiện chính sách tỷ giá linh hoạt, nới rộng biên độ tỷ giá từ
0,25% lên
0,75%.
0,5% vào đầu năm, và tới 12/12/2007 tiếp tục nới rộng biên độ lên
Tỷ giá tháng 1 là 1USD = 16.080VND và tới cuối năm tỷ giá ở mức 1USD =
16.164VND.
Năm 2008
Năm 2008, tăng trưởng kinh tế toàn cầu sụt giảm đáng kể, các nền kinh tế phát
triển đều rơi vào suy thoái. Diễn biến phức tạp của kinh tế thế giới khiến cho kinh tế
Việt Nam gặp nhiều thách thức. Có thể nói chưa bao giờ tình hình tỷ giá Việt Nam lại
biến động “nóng – lạnh” với cường độ mạnh mẽ như trong năm 2008.
Downloaded by hây hay (
[email protected])
lOMoARcPSD|17838488
Hình 2.2.2.1. Diễn biến tỷ giá VND/USD năm 2008. Nguồn: BIDV
Tỷ giá dao động trong biên độ lớn, từ dao động quanh mức 16.000 (thấp nhất
15.400VND/USD) vào đầu năm và lên đến 19.400VND/USD vào khoảng giữa năm,
sau đó tỷ giá dần đi vào bình ổn và theo đà tăng trở lại.
Tỷ giá biến động mạnh do sự tác động của lạm phát, sự thay đổi trong lượng
vốn đầu tư vào VN, cùng với nhiều tác động tiêu cực của khủng hoảng tài chính. Hai
giai đoạn đầu năm, NHNN đã gấp rút thực hiện những biện pháp kiềm chế lạm phát,
và giảm cung USD.
Giai đoạn sau đó, NHNN đã có những can thiệp để bình ổn tỷ giá. NHNN thực
hiện kiểm soát chặt các đại lý thu đổi ngoại tệ (cấm mua bán ngoại tệ trên thị trường
tự do không đăng ký với các NHTM), cấm mua bán USD thông qua ngoại tệ khác để
lách biên độ, cấm nhập khẩu vàng và cho phép xuất khẩu vàng, bán ngoại tệ can thiệp
thị trường thông qua các NHTM lớn.
Vào cuối năm, NHNN đã bán hơn 1 tỷ USD cho các NHTM nhằm đáp ứng nhu
cầu nhập khẩu một số mặt hàng thiết yếu.
Nhìn chung chính sách tỷ giá của Việt Nam trong năm 2008 khá hợp lý và kịp
thời. Trong năm 2008 có nhiều ý kiến cho rằng Việt Nam sẽ phá giá nội tệ và kịch bản
khủng hoảng kinh tế 1997 – 1998 Thái Lan sẽ lặp lại ở Việt Nam. Tuy nhiên kết thúc
năm 2008 Việt Nam vẫn kiểm soát được tỷ giá VND/USD không quá cao và không
biến động nhiều.
Năm 2009
Năm 2009 tình hình thị trường ngoại hối đang dần được điều chỉnh để trở nên
ổn định hơn. Có 2 đợt điều chỉnh trên thị trường có thể kể tới trong giai đoạn này:
Thứ nhất, Quý I/2009, tình hình thị trường ngoại hối tương đối ổn định nhưng
đến quý II/2009, căng thẳng trên thị trường đã xuất hiện do nhiều doanh nghiệp găm
giữ ngoại tệ, không chịu bán lại cho ngân hàng
Trước tình hình này, NHNN đã triển khai đồng bộ nhiều biện pháp:
+ NHNN quyết định mở rộng biên độ tỷ giá từ +/-3% lên +/-5%, áp dụng từ ngày
Downloaded by hây hay (
[email protected])
lOMoARcPSD|17838488
24/03/2009 nhằm giảm bớt sự chênh lệch tỷ giá giữa thị trường tự do và thị
trường chính thức;
+ kiểm soát chặt chẽ hoạt động kinh doanh ngoại hối của các tổ chức tín dụng
nhằm bảo đảm các tổ chức tín dụng thực hiện nghiêm túc các quy định quản lý
ngoại hối về thực hiện niêm yết và giao dịch;
+ thống nhất tăng lãi suất huy động USD và hạ mặt bằng lãi suất cho vay ngoại tệ
nhằm khắc phục tình trạng mất cân đối cung - cầu ngoại tệ.
Những biện pháp đúng đắn và phù hợp trên của NHNN đã giúp thị trường
ngoại hối trong Quý III/2009 diễn biến tương đối ổn định.
Thứ hai, vào quý IV/2009, tình hình mất cân đối cung - cầu ngoại tệ lại xuất
hiện trở lại vào tháng 11/2009. Giá vàng trong nước tăng cao đã khiến cầu ngoại tệ
tăng đột biến do giới đầu cơ đẩy mạnh hoạt động thu mua USD để mua vàng. Giá
USD tự do tăng mạnh dưới ảnh hưởng của cơn sốt giá vàng
+ NHNN đã lập tức công bố cho nhập khẩu vàng nhằm giảm sức ép lên cung
vàng; qua đó, hạ bớt sức nóng của đồng USD trên thị trường tự do
+ NHNN quyết định can thiệp trực tiếp và mạnh tay vào tỷ giá khi điều chỉnh tỷ
giá bình quân liên ngân hàng tăng 5,44% từ mức 17.034 VND lên 17.961
VND/ 1 USD
+ NHNN thu hẹp biên độ tỷ giá giao dịch USD/VND từ mức ±5% xuống mức
±3%
+ Bên cạnh các quyết định trên của NHNN, Thủ tướng Chính phủ đã có văn bản
số 2578/TTg-KTTH yêu cầu 7 tập đoàn, tổng công ty nhà nước bán ngay số
ngoại tệ dưới dạng tiền gửi và các nguồn thu vãng lai cho các TCTD được phép
hoạt động ngoại hối để góp phần giảm áp lực đè nặng lên nguồn cung ngoại tệ
Với việc triển khai đồng bộ các biện pháp nêu trên, thị trường ngoại hối Việt
Nam đã ổn định trở lại, hiện tượng găm giữ và tích trữ ngoại tệ đã dần được khắc
phục.
Năm 2010
Kế thừa những thành tựu đã đạt được trong năm 2009, nhằm thực hiện mục
tiêu tăng trưởng kinh tế 6,5% trong năm 2010 mà đặc biệt là để hỗ trợ cho hoạt động
xuất khẩu, ngày 10/02/2010, NHNN đã quyết định điều chỉnh tỷ giá bình quân liên
ngân hàng, tăng 3,36% từ 17.961 lên 18.544 VND/ 1USD, theo thông tư số
03/2010/TT-NHNN. Mức lãi suất tiền gửi tối đa bằng USD của tổ chức kinh tế cũng
được NHNN điều chỉnh xuống còn 1%/năm. Bên cạnh đó, NHNN ra quyết định số
74/QĐ-NHNN điều chỉnh giảm mạnh dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ từ 7% xuống 4%
kể từ kỳ dự trữ bắt buộc tháng 2/2010.
Năm 2011
Ngay từ đầu năm, trước tình hình thị trường ngoại hối đặc biệt căng thẳng,
ngày 10/2/2011, NHNN đã thực hiện điều chỉnh tăng tỷ giá bình quân liên ngân hàng
thêm 9,3% và giảm biên độ giao dịch từ 3% xuống 1%. Bên cạnh đó, NHNN cũng
điều hành chính sách tiền tệ chặt chẽ, linh hoạt, kiểm soát tăng trưởng và phân bổ tín
dụng một cách hợp lý, kiểm soát chặt thanh khoản VND ngắn hạn của hệ thống tổ
chức tín dụng, điều chỉnh các mức lãi suất điều hành của NHNN phù hợp với diễn
Downloaded by hây hay (
[email protected])
lOMoARcPSD|17838488
biến thị trường. Việc điều hành chính sách tiền tệ chặt chẽ, đồng thời đẩy mạnh tín
dụng phục vụ xuất khẩu trong cả năm 2011 đã góp phần tích cực khuyến khích xuất
khẩu, hạn chế nhập siêu và giảm áp lực về cung cầu ngoại tệ trên thị trường.
2.2.3. Tác động của tỷ giá đến lạm phát, CCTM
Về lạm phát
Phân tích nguyên nhân của mức lạm phát cao của VN từ năm 2007 trở lại đây:
Tỷ lệ lạm phát trong ba năm 2007, 2008, 2009 rất cao và lần lượt là 12.63, 22,
6.9%
Ngoài một số nguyên nhân nội tại như thiên tai, đầu tư tràn lan một số công
trình công không hiệu quả, nguyên nhân chính là do bất cập trong định hướng chính
sách đối ứng, cụ thể là chính sách tỷ giá (duy trì VND yếu)
Ví dụ Năm 2007, USD mất giá mạnh trên thị trường thế giới, lãi suất của nó liên
tục giảm, Việt Nam lại liên tục theo chính sách duy trì VND yếu, cùng với việc gia
nhập WTO đầu năm 2007 thì đây là cơ hội tuyệt vời cho các quy đầu cơ tài chính huy
động vốn với lãi suất thấp để đầu cơ vào Việt Nam. Thực tế đã cho thấy năm 2007 thị
trường chứng khoán Việt Nam nóng lên nhanh chóng, dòng vốn đầu tư của các nhà
đầu tư không được đưa vào đầu tư thực sự mà chạy lòng vòng từ túi người này sang
người khác rồi quay trở lại túi nhà đầu cơ với giá trị tăng lên gấp nhiều lần. Điều này
gây cản trở cho quá trình hút VND về của NHNN. Doanh nghiệp sau khi huy động
vốn lại tiếp tục đầu tư vào thị trường chứng khoán, do đó số tiền đầu tư vào sản xuất
kinh doanh tạo ra thêm của cải cho xã hội cũng giảm đáng kể. Kết quả là con số lạm
phát năm 2007 lên tới 12.63%, với chỉ số tăng GDP là 8,9% - nghĩa là về thực chất
chúng ta tăng trưởng âm.
Định hướng chính sách tỷ giá không phù hợp so với biến động của kinh tế thế
giới dẫn đến kết quả là: 1. Lượng cung tiền tăng đột biến, 2. Chi phí đầu vào của sản
xuất trong nước tăng cao. Đây là hai nguyên nhân chủ yếu dẫn tới lạm phát cao tại
Việt Nam.
Về CCTM
Vì neo tỉ giá với USD đang mất giá, VNĐ cũng giảm trung bình 15% so với
các ngoại tệ mạnh khác. Chính sách VND yếu mặc dù có thể thúc đẩy xuất khẩu
nhưng đồng thời lại góp phần “nhập khẩu lạm phát “vào Việt Nam. Lí do là sản xuất
tại Việt Nam hiện nay phụ thuộc rất lớn vào các nguyên vật liệu nhập khẩu như xăng
dầu, xi măng, sắt thép, máy móc…Sự mất giá của USD hay nói cách khác là sự tăng
giá của các mặt hàng nhập khẩu thiết yếu cho sản xuất tính bằng VNĐ là nguyên nhân
chủ yếu dẫn đến chi phí đầu vào của sản xuất trong nước tăng, kéo theo giá cả hàng
hóa tăng theo. Việc VND mất giá so với các ngoại tệ khác góp phần đáng kể vào việc
tăng giá trị hàng nhập khẩu, khiến cán cân thương mại bị thâm hụt.
2.2.4. Đánh giá
Ưu điểm:
Downloaded by hây hay (
[email protected])