Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Y dược Thực trạng và một số yếu tố liên quan đến tiếp cận dịch y tế ở nhóm nam bán dâm ...

Tài liệu Thực trạng và một số yếu tố liên quan đến tiếp cận dịch y tế ở nhóm nam bán dâm đồng giới tại hà nội năm 2014 2015

.PDF
65
213
60

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI NGUYỄN HỒNG NGÂN Thực trạng và một số yếu tố liên quan đến tiếp cận dịch vụ y tế ở nhóm nam bán dâm đồng giới tại Hà Nội năm 2014 - 2015” KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN Y KHOA KHÓA 2011 – 2015 Thầy hướng dẫn khoa học: Th.S: VĂN ĐÌNH HÒA HÀ NỘI – 2015 LỜI CẢM ƠN Hoàn thành khóa luận này, trước tiên em xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới ThS. Văn Đình Hòa - Cán bộ giảng dạy Bộ môn Dịch tễ - Viện Đào tạo Y học Dự Phòng và Y tế Công cộng, người thầy trực tiếp hướng dẫn và chỉ bảo cho em trong suốt quá trình học tập và làm khóa luận. Em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới TS.Lê Minh Giang - Cán bộ giảng dạy Bộ môn Dịch tễ - Viện Đào tạo Y học Dự phòng và Y tế Công cộng đã tạo điều kiện thuận lợi để em có thể hoàn thành khóa luận này. Em xin gửi lời cảm ơn tới các anh chị của Trung tâm Nghiên cứu và Đào tạo HIV/AIDS – Trường Đại học Y Hà Nội đã giúp đỡ em trong quá trình hoàn thành khóa luận. Em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới Ban Giám hiệu, Phòng Đào tạo Đại học Trường Đại học Y Hà Nội đã tạo môi trường thuận lợi cho em trong suốt 4 năm dưới mái trường. Em xin chân thành cảm ơn Thầy Cô trong bộ môn Dịch tễ, Viện Đào tạo Y học dự phòng và Y tế công cộng, trường Đại học Y Hà Nội đã đóng góp nhiều ý kiến quý báu cho em trong quá trình làm khóa luận. Và cuối cùng em xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới gia đình, người thân và bạn bè đã luôn ở bên cạnh động viên, khích lệ và hỗ trợ. Hà Nội, ngày 31 tháng 05 năm 2015 Sinh viên Nguyễn Hồng Ngân CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc LỜI CAM ĐOAN Kính gửi: - Ban Giám hiệu Trường Đại học Y Hà Nội. - Phòng Quản lý Đào tạo Đại học, phòng Công tác học sinh sinh viên Trường Đại học Y Hà Nội. - Viện Đào tạo Y học Dự phòng và Y tế Công cộng - Trường Đại học Y Hà Nội. - Bộ môn Dịch tễ Trường Đại học Y Hà Nội. - Hội đồng chấm Khóa luận tốt nghiệp năm 2014 - 2015. Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi. Các số liệu, cách xử lý, phân tích số liệu là hoàn toàn trung thực và khách quan. Các kết quả nghiên cứu này chưa được công bố ở trong bất kỳ tài liệu nào. Hà Nội, ngày 31 tháng 05 năm 2015 Sinh viên Nguyễn Hồng Ngân MỤC LỤC LỜI CẢM ƠN LỜI CAM ĐOAN DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT DANH MỤC BẢNG DANH MỤC BIỂU ĐỒ ĐẶT VẤN ĐỀ .................................................................................................. 1 CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU........................................................ 3 1.1. Một số khái niệm cơ bản ........................................................................ 3 1.1.1. Nam quan hệ tình dục đồng giới ....................................................... 3 1.2. Đặc Điểm nhân khẩu – xã hội, nhân dạng tình dục, nhân dạng giới. .... 6 1.3. Tình hình các bệnh lây truyền qua đường tình dục ở nhóm nam bán dâm đồng giới ....................................................................................... 8 1.3.1. Trên thế giới ...................................................................................... 8 1.3.2. Việt Nam ........................................................................................... 9 1.4. Tình hình thực trạng tiếp cận sử dụng dịch vụ y tế ở nhóm nam bán dâm đồng giới ..................................................................................... 10 1.4.1. Trên thế giới .................................................................................... 10 1.4.2. Việt Nam ......................................................................................... 11 1.5. Một số yếu tố liên quan đến thực trạng sử dụng dịch vụ y tế ở nhóm nam quan hệ tình dục đồng giới .......................................................... 14 1.5.1. Kiến thức ......................................................................................... 14 1.5.2. Sự kỳ thị .......................................................................................... 14 CHƯƠNG 2: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU......... 16 2.1. Địa điểm và thời gian nghiên cứu ........................................................ 16 2.1.1. Địa điểm: ......................................................................................... 16 2.1.2. Thời gian ......................................................................................... 16 2.2. Đối tượng nghiên cứu........................................................................... 16 2.3. Phương pháp nghiên cứu...................................................................... 16 2.3.1. Thiết kế nghiên cứu ........................................................................ 16 2.3.2. Cỡ mẫu nghiên cứu ......................................................................... 17 2.3.3. Cách chọn mẫu ................................................................................ 17 2.3.4. Biến số nghiên cứu.......................................................................... 18 2.3.5. Xử lý và phân tích số liệu ............................................................... 20 2.3.6. Sai số và cách khắc phục sai số ...................................................... 21 CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ................................................... 22 3.1. Thông tin chung ................................................................................... 22 3.2. Thực trạng tiếp cận dịch vụ y tế ở đối tượng tham gia nghiên cứu ..... 24 3.3. Một số yếu tố liên quan đến tiếp cận dịch vụ y tế ở đối tượng tham gia nghiên cứu .......................................................................................... 33 CHƯƠNG 4: BÀN LUẬN ............................................................................ 34 4.1. Thông tin đối tượng tham gia nghiên cứu ............................................ 34 4.2. Thực trạng tiếp cận dịch vụ y tế ở đối tượng tham gia nghiên cứu ..... 35 4.3. Một số yếu tố liên quan đến tiếp cận dịch vụ y tế ở đối tượng tham gia nghiên cứu ........................................................................................... 39 KẾT LUẬN .................................................................................................... 41 KHUYẾN NGHỊ............................................................................................ 42 TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT QHTDĐG Quan hệ tình dục đồng giới HIV Vi rút gây suy giảm miễn dịch ở người (Human Immuno-deficiency Virus) AIDS Hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (Acquired Immune Deficiency Syndrom) NQHTDĐG Nam quan hệ tình dục đồng giới STIs Các nhiễm trùng lây qua đường tình dục (Sexually transmitted infections) NBDĐG Nam bán dâm đồng giới UNAIDS Chương trình Phối hợp của Liên Hợp Quốc về HIV/AIDS (The Joint United Nations Programme on HIV/AIDS) DVYT Dich vụ y tế IBBS Giám sát kết hợp hành vi và các chỉ số sinh học (Integrated Biological and Behavioral Surveillance) HBV Vi rút viêm gan B (Hepatitis B virus) HPV Vi rút gây bênh sùi mào gà (Human Papillomavirus) QHTD Quan hệ tình dục NVYT Nhân viên y tế CSSK Chăm sóc sức khỏe BCS Bao cao su OR Tỷ suất chênh (Odds Ratio) DANH MỤC BẢNG Bảng 3.1: Thông tin chung của đối tượng nghiên cứu .................................... 22 Bảng 3.2: Đặc điểm giới tự nhận và đặc điểm tình dục .................................. 23 Bảng 3.3: Đặc điểm tình dục theo đặc điểm giới tự nhận ............................... 23 Bảng 3.4: Tỷ lệ tiếp cận DVYT của đối tượng nghiên cứu trong 6 tháng qua .... 24 Bảng 3.5: Tỷ lệ tiếp cận DVYT trong 6 tháng qua theo đặc điểm tình dục ở đối tượng nghiên cứu .................................................................... 24 Bảng 3.6: Mức độ cảm thấy dễ chịu khi nói chuyện với NVYT về hành vi QHTDĐG ...................................................................................... 26 Bảng 3.7: Các lý do mà đối tượng không đề cập QHTDĐG với NVYT........ 26 Bảng 3.8: Tỷ lệ phân bố việc xét nghiệm HIV ............................................... 27 Bảng 3.9: Tỷ lệ phân bố nguồn thông tin về HIV/AIDS ................................ 28 Bảng 3.10: Loại chủ đề mà đối tượng trao đổi với NVYT trong lần gần nhất .... 30 Bảng 3.11: Tỷ lệ các loại vật liệu giảm hại nhận được lần gần nhất ............. 31 Bảng 3.12: Lý do chính mà đối tượng đi xét nghiệm HIV trong lần gần đây nhất... 32 Bảng 3.13: Một số yếu tố liên quan đến tiếp cận DVYT trong 6 tháng qua .. 33 DANH MỤC BIỂU ĐỒ Biểu đồ 3.1: Tỷ lệ % theo từng cảm nhận về khả năng có được DVYT về STIs..... 25 Biểu đồ 3.2: Tỷ lệ đối tượng nói thật với NVYT về QHTDĐG ..................... 25 Biểu đồ 3.3: Mức độ tìm kiếm dịch vụ xét nghiệm HIV trong 12 tháng tới .. 27 Biểu đồ 3.4: Tỷ lệ phân bố nơi nhận BCS miễn phí ....................................... 29 Biểu đồ 3.5: Loại NVYT mà đối tượng trao đổi trong lần gần đây nhất ........ 29 Biểu đồ 3.6: Lý do chính mà đối tượng đến CSYT trong lần gần đây nhất. .. 31 1 ĐẶT VẤN ĐỀ Tuyên bố Alma Ata năm 1978 cho rằng tiếp cận các dịch vụ y tế (DVYT) là quyền cơ bản của con người. Tuy nhiên, mất công bằng trong việc tiếp cận và sử dụng DVYT luôn xảy ra ở mọi nơi trên thế giới, có sự khác biệt lớn giữa các nhóm đối tượng khác nhau như nhóm dân cư nói chung và nhóm đối tượng dễ bị tổn thương như nam quan hệ tình dục đồng giới (NQHTDĐG), gái mại dâm và người khuyết tật, giữa các vùng miền khác nhau. Việc tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe (CSSK) không tốt sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển chung của kinh tế xã hội. Những nghiên cứu Dịch tễ học và xã hội về lây nhiễm HIV của nhóm NQHTDĐG đã cho thấy nhóm nam bán dâm đồng giới (NBDĐG) là nhóm có nguy cơ lây nhiễm cao với HIV và các nhiễm trùng lây truyền qua đường tình dục (STIs) khác [1],[2],[3],[4],[5],[6]. Tuy nhiên việc tiếp cận và sử dụng DVYT ở nhóm này lại chưa hiệu quả. Các nghiên cứu trên thế giới nói chung cho thấy dưới 50% đối tượng này đã từng xét nghiệm HIV, trên 50% đối tượng tự điều trị khi mắc STIs thay vì tìm đến cơ sở y tế (CSYT) [7],[8],[9]. Điển hình như nghiên cứu tại thành phố Larkana, Parkistan có đến 65% người được hỏi không biết đến trung tâm sức khỏe y tế của chính phủ, nơi họ có thể đến điều trị STIs và làm xét nghiệm sàng lọc HIV. 100% đối tượng trả lời chưa từng đi xét nghiệm sàng lọc HIV. 78% đối tượng tự điều trị khi mắc bệnh, trong khi chỉ 22% tìm đến bác sĩ có trình độ chuyên môn [7]. Ở Việt Nam, tỷ lệ nhóm NBDĐG tiếp cận DVYT cũng nằm trong xu hướng thấp nói chung. Trong nghiên cứu về vai trò của DVYT nói chung trong tăng cường xét nghiệm HIV ở 654 NBDĐG tính từ 1/2009 đến 7/2011 tại Hà Nội, Nha Trang, thành phố Hồ Chí Minh, tỷ lệ được xét nghiệm HIV trong vòng 2 năm qua là 17,9%. 50,6% số người tham gia có khám sức khỏe tổng quát trong 2 vòng một năm qua, số còn lại chưa từng khám sức khỏe tổng quát hoặc đã khám hơn một năm trước đó. Có 17,9% số người tham gia đã từng trao đổi với nhân viên y tế về QHTDĐG của họ [10]. Nguyên nhân dẫn đến việc tiếp cận DVYT thấp ở nhóm NBDĐG có thể do thiếu hiểu biết, thiếu thông tin về các dịch vụ CSSK. Tuy nhiên chất xúc tác chính cho vấn đề trên là do các quy định của pháp luật và văn hóa xã hội đặc biệt là sự kì thị, phân biệt đối xử [11]. Ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, dù các mối quan hệ đồng giới có bị coi là phạm pháp hay không thì những phong tục tập quán vẫn nghiêng về lên án với các hành vi tình dục đồng giới nói chung và hành vi bán dâm đồng giới nói riêng. Rõ ràng, nhóm NBDĐG là nhóm đa dạng về bạn tình, nguy cơ lây nhiễm STIs cao. Tuy nhiên tại Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng chưa có nghiên cứu nào đề cập đầy đủ đến việc tiếp cận DVYT ở nhóm này. Xuất phát từ tồn tại trên, chúng em thực hiện đề tài: “Thực trạng và một số yếu tố liên quan đến tiếp cận dịch vụ y tế ở nhóm nam bán dâm đồng giới tại Hà Nội năm 2014 - 2015” nhằm cung cấp bằng chứng để thực hiện các chương trình can thiệp tốt hơn với ba mục tiêu sau: 1. Mô tả thực trạng tiếp cận dịch vụ y tế ở nhóm nam bán dâm đồng giới tại Hà Nội năm 2014 – 2015. 2. Mô tả một số yếu tố liên quan đến tiếp cận dịch vụ y tế ở nhóm nam bán dâm đồng giới tại Hà Nội năm 2014 – 2015. 3 CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU 1.1. Một số khái niệm cơ bản 1.1.1. Nam quan hệ tình dục đồng giới 1.1.1.1. Định nghĩa Theo Vũ Ngọc Bảo và Philippe Girault, thì thuật ngữ MSM (Men who have sex with men) bắt đầu du nhập vào Việt Nam từ thập kỷ 1990, khi những người nhiễm HIV đầu tiên là người đồng tính luyến ái. Cụm từ này được dịch ra là “Nam quan hệ tình dục đồng giới” [12]. Khung hướng dẫn Hành động của UNAIDS về tiếp cận phổ cập đối với nhóm nam quan hệ tình dục đồng giới và người chuyển giới đã định nghĩa như sau: Nam quan hệ tình dục đồng giới là những người nam giới có quan hệ tình dục với những người nam khác, bất kể họ có quan hệ tình dục với phụ nữ hay không hoặc có những nhân dạng cá nhân hay nhân dạng xă hội liên quan tới hành vi đó, như là “gay” hoặc “lưỡng tính” [13]. Như vậy, NQHTDĐG bao gồm cả đồng tính nam và những người có hành vi quan hệ tình dục đồng giới. Mặc dù hiện nay đã có nhiều quan điểm nhìn nhận đúng hơn nhưng ở nhiều nơi nhóm này vẫn là nhóm đối tượng dễ bị tổn thương, hay phải chịu sự kì thị của xã hội. 1.1.1.2. Phân loại Theo UNAIDS phân loại trong ấn phẩm HIV và Nam giới có quan hệ tình dục đồng giới ở Châu Á – Thái Bình Dương thì NQHTDĐG có thể được phân loại theo những tiêu chí sau [11]. - Theo đặc tính tình dục (đồng tính nam (gay), đồng tính (homosexual), tình dục khác giới (heterosexual); tình dục cả 2 giới (bisexual); chuyển đổi giới tính, hoặc những khái niệm tương tự) mà không quan tâm đến hành vi tình dục; 4 - Theo thừa nhận và công khai về đặc tính tình dục (công khai là đồng tính nam hoặc còn ẩn giấu); - Theo bạn tình (nam, nữ và/hoặc chuyển đổi giới tính); - Theo các lý do để lựa chọn bạn tình (ý thích tự nhiên, bị cưỡng ép hoặc chịu áp lực, được thúc đẩy làm mại dâm, do hoàn cảnh thuận tiện, hoặc chỉ là vui chơi, phải sống trong môi trường toàn nam giới); - Theo vai trò trong các thực hành tình dục cụ thể (cho, nhận, cả cho cả nhận, không có vai trò nào, tình dục qua đường miệng, thủ dâm cho nhau hoặc những hành động khác); - Theo đặc tính vai trò và hành vi có liên quan đến giới (nam hay nữ, tính nam hoặc tính nữ, y phục giống nữ hoặc y phục theo giới tính đang mang). 1.1.1.3. Nam bán dâm đồng giới Nam bán dâm đồng giới là một bộ phận trong nhóm nam quan hệ tình dục đồng giới (MSM hay viết tắt của Men Who Have Sex With Men). Họ là những người sinh ra là nam giới và có hoạt động trao đổi tình dục với nam giới vì mục đích lấy tiền hoặc các giá trị vật chất khác (quần áo, xe máy, công việc, chuyến du lịch, chỗ ở vv…), mặc dù bản thân họ có thể không phải là người đồng tính (là những người tự nhận đặc điểm tình dục của bản thân là ưa thích nam giới hơn phụ nữ) [13]. 1.1.1.4. Một số khái niệm khác về nam quan hệ tình dục đồng giới - Bóng lộ: được sử dụng để chỉ những người nam giới mà họ thể hiện bản thân như người nữ giới và họ không cần cố gắng để che dấu đi bản chất tính tình dục đồng giới [14]. - Bóng kín: để chỉ những người đàn ông trông nam tính và giấu các hoạt động đồng tính luyến ái của họ, họ cũng tin rằng nhiều bóng kín đã kết hôn và có con [14]. 5 - Bóng nửa mùa: chỉ những người thể hiện sự xuất hiện của bản thân họ theo sự thay đổi của bối cảnh xã hội. Ví dụ như một người có thể là bóng kín vào ban ngày và là bóng lộ vào ban đêm khi họ giao tiếp với bóng khác. Một người cũng có thể là bóng lộ khi ở nhà nếu họ hàng gia đình nhận thức được giới tính thật của họ [14]. - Chuyển giới: là tình trạng mà một người có các đặc điểm cơ thể hoàn toàn bình thường về mặt giới tính (nam hoàn toàn hay nữ hoàn toàn) nhưng lại tin rằng họ thuộc về giới tính khác (nam nhưng nghĩ mình là nữ, hay nữ nghĩ mình là nam) và sống như giới tính họ tin [15]. - Chuyển giới tính: là thực hiện phẫu thuật, điều trị hóc môn để đổi giới tính sinh học từ nam sang nữ hoặc từ nữ sang nam [15]. 1.1.1.5. Tiếp cận dịch vụ y tế Tuyên bố Alma Ata năm 1978 cho rằng tiếp cận các DVYT là quyền cơ bản của con người. Tuy vậy không phải lúc nào cũng có thể đạt được, mất công bằng trong việc tiếp cận và sử dụng DVYT luôn xảy ra ở mọi nơi trên thế giới, có sự khác biệt lớn giữa các nhóm đối tượng khác nhau như nhóm dân cư nói chung và nhóm đối tượng dễ bị tổn thương như NQHTDĐG, gái mại dâm, người khuyết tật, giữa các vùng miền khác nhau. Việc tiếp cận dịch vụ CSSK không tốt sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển chung của kinh tế xã hội. Theo tác giả Nguyễn Thị Minh Châu, có nhiều định nghĩa về tiếp cận DVYT song hầu hết các nhà nghiên cứu đều có chung quan điểm rằng tiếp cận liên quan đến việc sử dụng các dịch vụ theo nhu cầu [16]. Có người định nghĩa tiếp cận như là cơ hội sử dụng DVYT và không phân biệt giữa tiếp cận và sử dụng. Có người phân biệt cung ứng dịch vụ và cơ hội sử dụng DVYT với việc thực sự sử dụng DVYT trong khi đa số đều coi tiếp cận các DVYT và cơ hội sử dụng DVYT là bao gồm nhu cầu thực có [16]. Viện y học Mỹ định nghĩa tiếp cận DVYT là “việc sử dụng kịp thời các dịch vụ chăm sóc sức khỏe cá nhân để có được tình trạng sức khỏe tốt nhất có 6 thể” [17]. Việc tiếp cận dịch vụ y tế phụ thuộc nhiều vào hai yếu tố sau: - Khả năng đáp ứng của dịch vụ y tế như điều kiện cơ sở vật chất, thuốc, trang thiết bị, đội ngũ cán bộ y tế. - Việc người dân có thực sự sử dụng dịch vụ y tế hay không. 1.2. Đặc Điểm nhân khẩu – xã hội, nhân dạng tình dục, nhân dạng giới. Trên thế giới, những nghiên cứu ở đối tượng nam bán dâm được tiến hành ở những độ tuổi khác nhau, phổ biến ở nam giới trẻ có độ tuổi trung bình dao động từ 21 đến 26, đa dạng về trình độ học vấn, và phần lớn chưa kết hôn, nghề nghiệp đa dạng nhưng chủ yếu là bán dâm. - Một nghiên cứu trên 259 NBDĐG từ 19-39 ở Hàng Châu, Trung Quốc đã cho thấy độ tuổi trung bình 21,9, trong đó 61,4% trình độ trung học cơ sở, đa số chưa kết hôn với tỷ lệ 94,2%, đồng tính 30,2%, tình dục khác giới 12,6%, lưỡng tính 46,2%; 54,1% đối tượng bán dâm chủ yếu thời gian [18]. - Trong nghiên cứu khác ở Ấn Độ trong số 75 NBDĐG với độ tuổi trung bình 23,3, đa số chưa lập gia đình chiếm tỷ lệ 85%, trình độ trung học phổ thông trở lên chiếm 55%, khoảng 80% đối tượng có nghề nghiệp chính là bán dâm [19]. Tại Việt Nam, nhóm NBDĐG cũng có các đặc điểm tương tự, nghiên cứu năm 2009 tại TP HCM, Hà Nội, Cần Thơ và Hải Phòng cho thấy nhóm NBDĐG gồm một số lượng đáng kể đến từ tỉnh khác (40,0% - 87,0%) với nghề nghiệp tương đối đa dạng và mức thu nhập dao động tùy theo tỉnh/thành phố [20]. - Ở Hà Nội, theo nghiên cứu của Nguyễn Thị Phương Hoa nghiên cứu trên 250 NBDĐG năm 2009-2010 đã cho thấy: các đối tượng tham gia nghiên cứu có độ tuổi trung bình là 22 (16-35), trong đó nhóm tuổi từ 20-24 tham gia 7 chiếm số đông (52,8%). Có 1,2% tỷ lệ thấp là người không biết chữ, 87,2% có trình độ học vấn từ trung học trở lên, trong đó 19,6% số đối tượng có trình độ trung cấp/cao đẳng/đại học. Hầu hết các đối tượng độc thân, chưa bao giờ kết hôn (94,4%), đa số các đối tượng là người ngoại tỉnh (78,0%), 78,0% đối tượng không có nơi ngủ qua đêm cố định. Đa số có thu nhập từ 2.000.000 5.000.000 đồng (53,6%) trong tháng qua [21]. - Ở thành phố Hồ Chí Minh theo Donn Colby nghiên cứu trên 200 NBDĐG vào năm 2011 thì đối tượng nghiên cứu có độ tuổi trung bình là 22 (16-41). Thu nhập trung bình là 5.000.000 đồng một tháng và 39% cho biết là không làm việc một công việc nào khác ngoài việc bán dâm đồng giới [22]. Tỷ lệ nhóm NBDĐG tự nhận là người đồng tính nam/gay, lưỡng tính, dị tính, là đàn ông, là phụ nữ khác nhau giữa các thành phố. - Tại Hà Nội, tỷ lệ tự nhận mình là dị tính cao hơn so với các nhóm còn lại, tương ứng với nhận dạng tình dục dị tính. Chủ yếu đối tượng tự nhận mình là nam giới (68,8%), chỉ có 5,2% tự nhận mình là nữ giới và 5,2% tự nhận mình là người chuyển giới. Phần lớn (56,0%) đối tượng thích QHTD với nữ, hơn 1/3 đối tượng thích QHTD với nam và 12,4% thích QHTD với cả nam và nữ [21]. Theo đánh giá khác tại Hà Nội thì NBDĐG tự nhận mình là đàn ông (76,4%) và bị hấp dẫn bởi nữ giới (73,6%), một tỷ lệ rất thấp tự nhận mình là phụ nữ (1,8%) [23]. - Tại thành phố Hồ Chí Minh, 1/2 nhóm NBDĐG tự nhận là đồng tính, tiếp đến là lưỡng tính (32,0%) và dị tính là 16,0% [24]. Nghiên cứu khác tại thành phố Hồ Chí Minh năm 2011, nhóm tự nhận mình là lưỡng tính chiếm tỷ lệ cao nhất (42,9%), tiếp đến là đồng tính (37,9%) và dị tính là 19,2% [22]. 8 1.3. Tình hình các bệnh lây truyền qua đường tình dục ở nhóm nam bán dâm đồng giới 1.3.1. Trên thế giới Theo UNAIDS [11] thì: ít nhất có từ 5% đến 10% trường hợp nhiễm HIV trên thế giới là lây truyền qua tình dục đồng giới nam không an toàn và ước tính số NQHTDĐG chiếm khoảng 2% đến 5% tổng số nam giới trên toàn thế giới. Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng, nhóm NBDĐG là nhóm có tỷ lệ nhiễm HIV và STIs cao [1]. - Tỷ lệ nhiễm HIV trong nhóm NBDĐG tại một số quốc gia trên thế giới dao động từ 3,6% - 33,0% [2],[3],[4],[25]. Như ở Braxin, một nghiên cứu năm 2008 đã so sánh tỷ lệ nhiễm HIV giữa hai nhóm nam tình dục đồng giới bán dâm và không bán dâm cho thấy tỷ lệ nhiễm HIV trong nhóm bán dâm là 13,5%, cao hơn nhiều so với nhóm không bán dâm (5,8%) [4]. - Nghiên cứu khác tại Tây Ban Nha (2009 - 2010) cho thấy 6,0% nhóm NBDĐG nhiễm ít nhất một STI tại thời điểm hiện tại và một tỷ lệ cao hơn (33,0%) đã từng mắc STIs [26]. - Ở Victoria, Australia số lượng khai báo mắc bệnh giang mai giai đoạn đầu ở những người nam giới, mà phần lớn từ nhóm NQHTDĐG, tăng từ 119 vào năm 2005 lên 373 vào năm 2008. Tương ứng, tỉ lệ mắc giang mai giai đoạn đầu là 23% và 40%. 46% những người đàn ông được chẩn đoán mắc bệnh giang mai giai đoạn sớm có HIV dương tính vào năm 2008 [27]. - Các báo cáo gần đây về bệnh giang mai trong nhóm NQHTDĐG được đặc trưng bởi tỉ lệ đồng nhiễm HIV và hành vi tình dục có nguy cơ cao [5],[6]. Tại California, 1489 trường hợp mắc giang mai tiên phát và thứ phát đã được báo cáo trong năm 2005, tăng hơn 700% so với năm 1999. 79% là NQHTDĐG, và trong số này, 61% trường hợp đa số tự báo cáo bị nhiễm HIV dương tính [6]. 9 1.3.2. Việt Nam Những nghiên cứu bước đầu ở nhóm NBDĐG từ giữa thập kỷ 2000 đã cho thấy xu hướng gia tăng dịch HIV ở nhóm này. Theo kết quả nghiên cứu IBBS cho thấy tỷ lệ hiện nhiễm HIV trong nhóm NBDĐG tại Hà Nội năm 2006 là 8,8% và năm 2009 tăng lên 14,3%, tại thành phố Hồ Chí Minh năm 2006 là 9,5% và tăng lên 15,3% vào năm 2009 và tỷ lệ nhiễm ít nhất một STI tại Hà Nội và TP HCM năm 2009 lần lượt là 18,7% và 21,5% [20],[28]. Trong các báo cáo giám sát trong quần thể NQHTDĐG trên địa bàn Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh vào năm 2005 cũng cho thấy tỷ lệ nhiễm Lậu trực tràng - hậu môn cao trong quần thể NQHTDĐG (11,5% tại thành phố Hà Nội và 6,7% tại thành phố Hồ Chí Minh) có liên quan tới tỷ lệ sử dụng BCS thấp khi quan hệ tình dục qua đường hậu môn với bạn tình nam. Một điều tra tương tự vào năm 2009 cho thấy tỷ lệ nhiễm HIV trong nhóm NQHTDĐG ở Hà Nội ước tính là 17,4% (tăng đáng kể so với 9,4% vào năm 2005) [20],[29]. Tại thành phố Hồ Chí Minh, tỷ lệ nhiễm HIV ước tính trong năm 2010 là 16,7% (tăng từ 5,3% vào thời điểm năm 2005) [29].Các tỷ lệ này chỉ thấp hơn so với nhóm nam giới tiêm chích ma tuý, nhưng cao hơn nhiều so với nhóm nữ bán dâm và các nhóm khác trong cộng đồng. Tỷ lệ hiện nhiễm STIs (không phải HIV) trong nhóm NQHTDĐG duy trì ở mức cao. Cứ năm người NQHTDĐG tại thành phố Hồ Chí Minh thì có một người nhiễm một trong STIs như: giang mai, lậu sinh dục, lậu trực tràng, Chlamydia sinh dục hoặc Chlamydia trục tràng. Không giống với Hà Nội, tỷ lệ NQHTDĐG tại thành phố Hồ Chí Minh STIs năm 2009 cao hơn so với năm 2006. Nhiễm STIs trong nhóm NQHTDĐG tại Hà Nội có giảm tuy nhiên tỷ lệ hiện nhiễm vẫn đang ở mức trên 10% năm 2009 [20]. Một nghiên cứu trên nhóm NBDĐG được tiến hành tại Hà Nội năm 2007 - 2008 cho kết quả 2,1% NBDĐG tham gia nghiên cứu nhiễm HIV, tỷ lệ 10 nhiễm ít nhất một STI là 26,0% [23]. Nghiên cứu tại TP HCM năm 2010 cho thấy, tỷ lệ hiện nhiễm HIV trong nhóm NBDĐG là 6,3%, nhiễm giang mai là 4,0%, nhiễm chlamydia là 2,0%, lậu là 2,0%, viêm gan B là 24,3% và viêm gan C là 4,0% [24]. 1.4. Tình hình thực trạng tiếp cận sử dụng dịch vụ y tế ở nhóm nam bán dâm đồng giới 1.4.1. Trên thế giới Trên thế giới, nhiều nơi tình dục đồng giới nam vẫn chịu sự kì thị mạnh mẽ, vẫn có nơi chưa được pháp luật công nhận, sự quan tâm của xã hội đặc biệt là y tế còn hạn chế. Việc tiếp cận dịch vụ xét nghiệm HIV ở nhóm NBDĐG trong các nghiên cứu trên thế giới nhìn chung đều thấp và dưới 50% [7],[8],[30],[9] .Tỷ lệ này ở Shenzhen, China chiếm 43% và những NBDĐG có bạn tình QHTD qua đường hậu môn nhiều và có nhiều đối tác được báo cáo có một tỷ lệ xét nghiệm HIV cao hơn [8]. Tại Jakarta, Indonesia, ít hơn 3,0% nhóm NBDĐG đã từng xét nghiệm HIV tự nguyện mặc dù có tới 28,0% NBDĐG tiếp xúc với các chương trình dự phòng trong năm qua [30]. Thậm chí, một nghiên cứu tại thành phố Larkana, Parkistan cho thấy 100% NBDĐG được hỏi trả lời chưa từng đi xét nghiệm sàng lọc HIV, trong số này có đến 65% người được hỏi không biết đến trung tâm sức khỏe y tế của chính phủ, nơi họ có thể đến điều trị STIs và làm xét nghiệm sàng lọc HIV [7]. Ở Mỹ cũng chỉ khoảng 50% đối tượng đã từng làm xét nghiệm HIV [9]. Phần lớn đối tượng NBDĐG còn rất hạn chế trong việc tiếp cận DVYT chung. Đa số họ không tìm đến các CSYT mà chủ yếu tự điều trị cho bản thân. Như tại Jakarta, Indonesia 44,9% đối tượng NBDĐG đã tìm kiếm DVYT khi có triệu chứng STIs, gần 50% (48,2%) tự điều trị [30]. Cũng về vấn đề này, ở Lakana, Pakistan thì chỉ 22% tìm đến bác sĩ có trình độ chuyên 11 môn, trong khi 78% đối tượng tự điều trị khi mắc bệnh [7]. Tại Mỹ, chỉ có 32% NBDĐG có bảo hiểm y tế, 11% đã từng tiết lộ với một bác sĩ về hành vi QHTDĐG [9]. Rào cản việc tiết lộ hành vi QHTDĐG do sự mất lòng tin không được bảo mật, xấu hổ, phân biệt đối xử… Các xét nghiệm liên quan đến STIs còn rất ít do chi phí, sự bất tiện, thiếu quan tâm… Ở Córdoba, Argentina, chỉ 41,9% đã từng tiêm vaccin viêm gan A hoặc B [31]. 1.4.2. Việt Nam Ở Việt Nam, hoạt động dự phòng HIV cho nhóm NQHTDĐG gia tăng đáng kể từ năm 2005 khi có các chương trình được tài trợ của PEPFAR. Các chương trình này áp dụng mô hình can thiệp trước đó của nhóm IDUs, trong đó nhấn mạnh việc xây dựng các nhóm “tự lực” và các chương trình giáo dục viên đồng đẳng tại nhiều thành phố (ví dụ như Câu lạc bộ Hải Đăng ở Hà Nội và Câu lạc bộ Bầu Trời Xanh ở thành phố Hồ Chí Minh). Tuy nhiên kết quả của hoạt động này còn hạn chế: - Tỷ lệ NQHTDĐG xét nghiệm sàng lọc HIV còn thấp, ví dụ như theo kết quả điều tra IBBS năm 2009-2010 thì chỉ có 19% NQHTDĐG ở Hà Nội có làm xét nghiệm HIV và nhận kết quả xét nghiệm trong năm trước điều tra [20]. - Có thể việc triển khai mô hình tiếp cận đồng đẳng có thể mang lại một số kết quả nhất định trong giai đoạn đầu do các NQHTDĐG là giáo dục viên đồng đẳng có thể phát huy và sử dụng các mối quan hệ xã hội sẵn có của mình với các NQHTDĐG khác [14],[29],[32],[33]. Tuy nhiên, trong bối cảnh văn hóa xã hội ở Việt nam, giả định này cần phải xem xét. Một số lượng lớn NQHTDĐG ở Việt Nam không thừa nhận công khai nhân dạng của bản thân là người đồng tính, do bản thân họ không thấy mình có được quyền lợi gì khi công khai đặc điểm nhân dạng này mà còn có thể bị kỳ thị và phân biệt đối xử, và do đó họ sẽ không tham gia trong các mạng lưới hay dịch vụ dành cho NQHTDĐG, và các đồng đẳng trong các nhóm tự lực của NQHTDĐG không dễ dàng tiếp cận với hệ thống mạng lưới của họ [34]. 12 Vào năm 2009, nhóm nghiên cứu Đại học y Hà Nội và Viện Nghiên cứu và Phát triển quốc gia Hoa Kỳ với sự tài trợ của Viện Nghiên cứu Quốc gia về Lạm dụng Ma túy của Hoa Kỳ (NIDA) tiến hành nghiên cứu ở 710 đối tượng tại 3 thành phố (Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và Nha Trang) nhằm thu thập những thông tin về đặc điểm dịch tễ của nhóm NBDĐG. Kết quả cho thấy chỉ có khoảng 1/3 (36%) đã từng đến khám tại các CSYT trong 1 năm gần đây. Tỷ lệ xét nghiệm dương tính với STIs rất cao trong đó có 19% nhiễm HPV, 13% nhiễm Lậu, 12% nhiễm Chlamydia, 14% nhiễm HBV. Trong khi đó tỷ lệ báo cáo đã từng được chẩn đoán với STIs chỉ khoảng 5%, điều này cho thấy việc đi khám xét nghiệm STIs chỉ xảy ra khi có triệu chứng. Tỷ lệ đã được tiêm phòng vacxin HBV hay HPV thấp và tỷ lệ biết về những loại virus này hoặc là biết về vacxin dự phòng rất thấp [35]. Trong nghiên cứu về vai trò của DVYT nói chung trong tăng cường xét nghiệm HIV ở nhóm NBDĐG [10]. - Trong tổng số 654 NBDĐG trong 30 ngày qua ở Hà Nội, Nha Trang, thành phố Hồ Chí Minh, thì tỷ lệ được xét nghiệm HIV trong vòng 2 năm qua là 17,9%. Có 50,6% số người tham gia có khám sức khỏe tổng quát trong vòng một năm qua, số còn lại chưa từng khám sức khỏe tổng quát hoặc đã khám hơn một năm qua. Có 17,9% số người tham gia đã từng trao đổi với NVYT về QHTDĐG của họ [10]. - Nghiên cứu cho thấy tỷ lệ NBDĐT có xét nghiệm HIV trong vòng 2 năm qua ở mức khá thấp, dưới 18% trong mẫu nghiên cứu. Trong số những người được xét nghiệm HIV, có tới trên 60% là ở thành phố Hồ Chí Minh. Kết quả tại thành phố Hồ Chí Minh tương đồng với một nghiên cứu trước đó cho thấy tỷ lệ xét nghiệm cao và có xu hướng tăng lên, từ 37% năm 2009 đến 50% năm 2010. Kết quả này có thể được giải thích là do những can thiệp trong nhóm NBDĐG tại thành phố Hồ Chí Minh được quan tâm chú ý và phát triển sớm hơn các thành phố khác [10].
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng