iii
MỤC LỤC
Lời cảm ơn…………………………………………………………
i
Lời cam đoan……………………………………………………….
ii
Danh mục chữ viết tắt………………………………..……….......
iii
Danh mục bảng…………………………………………………….
iv
Danh mục hình ảnh, biểu đồ…….………………………………….
v
Đặt vấn đề ………………..……………………………………….
1
Chương 1: Cơ sở lý luận .... ……………………………………….
3
1.1.
3
Cơ sở lý luận……………………………................................
1.1.1. Tổng quan về Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính………………
3
1.1.2. Tổng quan về chương trình PHCNHH ……………..……….
3
1.2.
Cơ sở thực tiễn…………………………………………….
9
1.3. Các quy định hiện hành………………………………………
12
Chương 2: Mô tả vấn đề cần giải quyết…………………………..
13
2.1. Tổng quan về địa bàn thực tế…………………………………
13
2.2. Phương pháp thực hiện……………………………………….
13
2.3. Thông tin chung về người bệnh và thực trạng thực hành tập
13
thở.
14
2.3.1. Thông tin chung về người bệnh……………………………
14
2.3.2. Thực trạng thực hành tập thở……………………………….
Chương 3 Bàn luận……………………………………………….
18
Kết luận ……………………………………………………………
21
Đề xuất …………………………………………………………….
22
Tài liệu tham khảo
20
Phụ lục
21
iv
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
GOLD
Global Initiative for Chronic Obstructive Lung Disease
– Chiến lược toàn cầu về bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính
BPTNMT
Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính
PHCNHH
Phục hồi chức năng hô hấp
vi
DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1: Tuổi và giới tính của đối tượng nghiên cứu
14
Bảng 2.2: Thực hành kỹ thuật thở mạnh của đối tượng nghiên cứu
16
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1: Số năm mắc BPTNMT
15
Biểu đồ 2.2: Thực hành kỹ thuật ho có kiểm soát của đối tượng nghiên cứu
15
Biểu đồ 2.3: Thực hành kỹ thuật thở chúm môi của đối tượng nghiên cứu
16
Biểu đồ 2.4: Thực hành kỹ thuật thở cơ hoành của đối tượng nghiên cứu
17
DANH MỤC HÌNH ẢNH
Hình ảnh 1.1: Kỹ thuật ho có kiểm soát
5
Hình ảnh 1.2: Kỹ thuật thở chúm môi
8
Hình ảnh 1.3: Kỹ thuật thở hoành
9
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (BPTNMT) là bệnh thường gặp và có xu
hướng gia tăng do sự già đi của dân số và sự gia tăng của các yếu tố nguy cơ.
Năm 2020 BPTNMT đứng thứ 3 trong tất cả các nguyên nhân tử vong trên
toàn cầu. Trên thế giới ước tính có 251 triệu người mắc BPTNMT và khoảng
3,17 triệu người chết vì bệnh này trong đó 90% số tử vong ở các nước có thu
nhập thấp và trung bình[3].
Việt Nam là một trong các quốc gia có tỷ lệ mắc, tử vong, chịu gánh
nặng bệnh tật do BPTNMT cao nhất trên thế giới. Năm 2019 Việt Nam có tỷ
lệ mắc BPTNMT khoảng 4,2% dân số trên 40 tuổi và 37,5% người mắc
BPTNMT trưởng thành được ghi nhận có triệu chứng nghiêm trọng, điều này
gây ảnh hưởng đến công việc và hoạt động sinh hoạt hàng ngày[5].
Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính dẫn đến suy giảm chức năng hô hấp, gây
ảnh hưởng tiêu cực tới chức năng sinh hoạt và chất lượng cuộc sống của
người bệnh. Bệnh đặc trưng bởi các triệu chứng khó thở và khó thở thường
xuyên ngay cả khi làm những sinh hoạt cá nhân hàng ngày [14]. Người bệnh
BPTNMT ít hoạt động hơn và đi bộ với cường độ thấp hơn những người sống
khỏe mạnh [14]. Khó thở còn được chứng minh có liên quan đến sự hoảng
loạn, lo lắng và trầm cảm của người bệnh BPTNMT. Vì vậy, để nâng cao chất
lượng cuộc sống của người bệnh BPTNMT, điều quan trọng là cải thiện tình
trạng khó thở trong các hoạt động hàng ngày, cũng như các cơ chế sinh lý
giúp giảm khó thở. Trong BPTNMT, cơ hô hấp bị suy nhược và làm việc kém
hiệu quả là nguyên nhân gây khó thở và hạn chế trong sinh hoạt hàng ngày
của người bệnh. Thực hành phục hồi chức năng hô hấp (PHCNHH) sẽ giúp
các cơ hô hấp được tập luyện, làm tăng sức mạnh, độ bền và hiệu quả làm
việc. Các nghiên cứu ở những người bệnh bị các bệnh hô hấp khác, bao gồm
cả người bệnh BPTNMT đã báo cáo có sự cải thiện chức năng cơ hô hấp (áp
lực thở tối đa), vận động (đi bộ) và khó thở liên quan đến các hoạt động hàng
ngày khi tiến hành phục hồi chức năng hô hấp. Các bài tập thực hành phục hồi
chức năng hô hấp trong chương trình vật lý trị liệu - PHCNHH của người
bệnh BPTNMT nhằm mục đích hướng dẫn người bệnh thở hiệu quả hơn, thay
thế các kiểu thở có thể làm trầm trọng thêm sự trao đổi khí. Việc phục hồi
chức năng hô hấp thông thường như thở chúm chím môi hay thở cơ hoành có
thể cải thiện triệu chứng khó thở, tăng thể tích khí lưu thông và giảm lượng
khí cặn. Song song với giáo dục sức khỏe và tư vấn giúp người bệnh tái hòa
nhập cộng đồng thì hiệu quả của các bài tập thở đóng vai trò rất quan trọng,
đã được khẳng định và được khuyến cáo áp dụng cho người bệnh BPTNMT
[1], [13]. Đây là chương trình điều trị không dùng thuốc nằm trong chương
trình phục hồi chức năng hô hấp dành cho người bệnh BPTNMT của Bộ Y tế.
Mỗi kỹ thuật bao gồm nhiều bước và việc thực hiện cần sự kiên trì trong thời
gian dài, người bệnh cần được hướng dẫn thực hành liên tục trong một thời
gian nhất định bởi nhân viên y tế mới có thể thực hiện đạt và có hiệu quả
trong cải thiện triệu chứng và duy trì chức năng hô hấp. Để đánh giá thực
trạng thực hành các kỹ thuật tập thở của người bệnh mắc BPTNMT, từ đó có
phương án cải thiện khả năng thực hiện kỹ thuật và sự tuân thủ tập luyện của
người bệnh là điều hết sức cần thiết vì vậy tôi tiến hành chuyên đề “Thực
trạng thực hành tập thở của người bệnh mắc bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính tại
Bệnh viện Lao và bệnh phổi tỉnh Hà Nam năm 2022”.
1. Mô tả thực trạng thực hành tập thở của người bệnh bệnh phổi tắc
nghẽn mạn tính điều trị tại bệnh viện Lao và Bệnh phổi tỉnh Hà Nam năm
2022.
2. Đề xuất một số giải pháp cải thiện thực hành tập thở của người bệnh
bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính điều trị tại bệnh viện Lao và Bệnh phổi tỉnh Hà
Nam.
3
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Tổng quan về Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính.
Theo GOLD 2020: BPTNMT là bệnh hô hấp phổ biến có thể phòng và
điều trị được. Bệnh đặc trưng bởi các triệu chứng hô hấp dai dẳng và giới hạn
luồng khí, là hậu quả của những bất thường của đường thở và/hoặc phế nang
thường do phơi nhiễm với các phân tử hoặc khí độc hại, trong đó khói thuốc
lá, thuốc lào là yếu tố nguy cơ chính, ô nhiễm không khí và khói chất đốt
cũng là yếu tố nguy cơ quan trọng gây ra bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính. Các
bệnh đồng mắc và đợt kịch phát làm nặng thêm tình trạng bệnh[11].
BPTNMT là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây bệnh tật và
tử vong trên toàn thế giới dẫn đến gánh nặng kinh tế xã hội ngày càng gia
tăng. Dựa trên các nghiên cứu dịch tễ học, số ca mắc BPTNMT ước tính là
khoảng 385 triệu năm 2010 với tỷ lệ mắc trên thế giới là 11,7% và khoảng 3
triệu ca tử vong hàng năm. Ở Việt Nam nghiên cứu về dịch tễ học của
BPTNMT năm 2009 cho thấy tỷ lệ mắc ở người > 40 tuổi là 4,2%. Với sự
gia tăng tỷ lệ hút thuốc lá tại các nước đang phát triển và sự già hóa dân số ở
những quốc gia phát triển, tỷ lệ mắc BPTNMT được dự đoán sẽ tăng cao
trong những năm tới và đến năm 2030 ước tính có trên 4,5 triệu trường hợp tử
vong hàng năm do BPTNMT và các rối loạn liên quan[4].
1.1.2. Tổng quan về chương trình PHCNHH.
Chương trình PHCNHH bao gồm ba nội dung chính: giáo dục sức
khỏe, vật lý trị liệu hô hấp và hỗ trợ tâm lý và tái hòa nhập xã hội. Mục tiêu
của trị liệu này là giảm triệu chứng, cải thiện chất lượng cuộc sống cho người
bệnh BPTNMT [1]. Theo khuyến cáo của GOLD, Hội lồng ngực Hoa Kỳ cho
thấy các bằng chứng để kết luận rằng tất cả người bệnh BPTNM đều có
những lợi ích nếu được áp dụng chương trình điều trị PHCN hô hấp. Chương
trình này cải thiện tình trạng bệnh BPTNMT trên phương diện: làm giảm triệu
chứng mệt mỏi, khó thở, tăng khả năng vận động và chất lượng cuộc sống [9].
Các bài tập thở trong những kỹ thuật phục hồi chức năng hô hấp là một thành
phần cơ bản trong chương trình PHCNHH giúp quản lý điều trị BPTNMT từ
giai đoạn II trở lên. Đối với người bệnh BPTNMT, thực hành các kỹ thuật tập
thở thật sự là một biện pháp can thiệp có hiệu quả, ngoại trừ những trường
hợp có những nguy cơ cấp tính như suy hô hấp cấp tính, bệnh lý tim mạch cấp
tính hoặc chưa được kiểm soát, hầu hết người bệnh BPTNMT dù là ngoại trú,
đang nằm viện hay đang sử dụng oxy liệu pháp hoặc thông khí không xâm lấn
tại nhà đều có thể nhận được lợi ích từ việc kiểm soát hơi thở [1].
Phục hồi chức năng hô hấp giúp làm giảm triệu chứng khó thở, cải
thiện chất lượng cuộc sống, tăng khả năng gắng sức, giúp ổn định hoặc cải
thiện bệnh, giảm số đợt kịch phát phải nhập viện điều trị, giảm số ngày nằm
viện, tiết kiệm chi phí điều trị.
Thực hành PHCNHH ở người bệnh BPTNMT theo hướng dẫn của Bộ
Y tế trong tài liệu "Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị bệnh phổi tắc nghẽn mạn
tính” bao gồm: phương pháp thông đờm làm sạch đường thở và bảo tồn và
duy trì chức năng hô hấp [1]. Hiệu quả của thực hành PHCNHH đã được
minh chứng bằng các nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có kiểm
soát với cách thu thập số liệu đáng tin cậy. Thực hành PHCNHH người bệnh
BPTNMT nhằm đem lại các lợi ích sau: Giữ vệ sinh cho hai lá phổi bằng
phương pháp thông đờm; Điều chỉnh phương pháp thở; Cải thiện sự vận động
của thành ngực; Tăng cường cơ chế đối phó và khắc phục tình trạng khó thở;
Phối hợp các phương pháp thở với các hoạt động hàng ngày.
A. Phương pháp thông đờm làm sạch đường thở bao gồm 2 kỹ thuật
chính bao gồm kỹ thuật ho có kiểm soát và kỹ thuật thở ra mạnh
* Ho có kiểm soát
- Ho thông thường: là một phản xạ bảo vệ của cơ thể nhằm tống những vật
“lạ” ra ngoài.
- Để thay thế những cơn ho thông thường dễ gây mệt, khó thở, cần hướng dẫn
bệnh nhân sử dụng kỹ thuật ho có kiểm soát:
+ Ho có kiểm soát là động tác ho hữu ích giúp tống đờm ra ngoài, làm sạch
đường thở và không làm cho người bệnh mệt, khó thở...
+ Mục đích của ho có kiểm soát không phải để tránh ho mà lợi dụng động tác
ho để làm sạch đường thở.
+ Ở bệnh nhân BPTNMT cần có một luồng khí đủ mạnh tích lũy phía sau chỗ
ứ đọng đờm để đẩy đờm di chuyển ra ngoài.
Kỹ thuật ho có kiểm soát
- Bước 1: Ngồi trên giường hoặc ghế thư giãn, thoải mái.
- Bước 2: Hít vào chậm và thật sâu.
- Bước 3: Nín thở trong vài giây.
- Bước 4: Ho mạnh 2 lần, lần đầu để long đờm, lần sau để đẩy đờm ra ngoài.
- Bước 5: Hít vào chậm và nhẹ nhàng. Thở chúm môi vài lần trước khi lặp lại
động tác ho.
Ngồi tư thế thoải mái, Ho Ho
mạnh
tiếp
lần Ho mạnh tiếp lần thứ hai
mạnh lần thứ nhất hít vào thứ nhất để đờm long ra
để đẩy đờm ra ngoài, sau
chậm và sâu, nín thở
đó hít vào chậm
trong vòng vài giây
Hình 1.1: Kỹ thuật ho có kiểm soát
Lưu ý:
- Khạc đờm vào lọ để xét nghiệm hoặc khạc vào khăn giấy, sau đó bỏ vào
thùng rác tránh lây nhiễm.
- Khi có cảm giác muốn ho, đừng cố gắng nín ho mà nên thực hiện kỹ thuật
ho có kiểm soát để giúp tống đờm ra ngoài.
- Tùy lực ho và sự thành thạo kỹ thuật của mỗi người, có khi phải lặp lại vài
lần mới đẩy được đờm ra ngoài.
- Một số người bệnh có lực ho yếu có thể làm xen kẽ (3/1) hoặc thay thế bằng
kỹ thuật thở ra mạnh.
* Kỹ thuật thở ra mạnh
Nhằm thay thế động tác ho có kiểm soát trong những trường hợp người bệnh
yếu mệt, không đủ lực để ho.
Kỹ thuật thở ra mạnh
- Bước 1: Hít vào chậm và sâu.
- Bước 2: Nín thở trong vài giây.
- Bước 3: Thở ra mạnh và kéo dài.
- Bước 4: Hít vào nhẹ nhàng. Hít thở đều vài lần trước khi lặp lại.
Lưu ý: Để hỗ trợ thông đờm có hiệu quả cần phải:
- Uống đủ nước hàng ngày, trung bình từ 1 lít - 1,5 lít nước, nhất là những
bệnh nhân có thở oxy, hoặc trong điều kiện thời tiết nóng bức.
- Chỉ nên dùng các loại thuốc long đờm, loãng đờm, không nên dùng các
thuốc có tác dụng ức chế ho.
B. Phương pháp bảo tồn và duy trì chức năng hô hấp
- Mục đích:
+ Hướng dẫn các bài tập thở để khắc phục sự ứ khí trong phổi.
+ Hướng dẫn các biện pháp đối phó với tình trạng khó thở.
- Ở bệnh nhân BPTNMT nhất là ở nhóm viêm phế quản mãn, thường có tình
trạng tắc nghẽn các đường dẫn khí do đờm nhớt hay viêm nhiễm phù nề gây
hẹp lòng phế quản. Còn ở nhóm khí phế thũng, các phế nang thường bị phá
hủy, mất tính đàn hồi. Dẫn đến hậu quả không khí thường bị ứ đọng trong
phổi, gây thiếu oxy cho nhu cầu cơ thể. Các bài tập thở là các kỹ thuật nhằm
khắc phục tình trạng ứ khí trong phổi và tăng cường cử động hô hấp của lồng
ngực.
* Bài tập thở chúm môi
- Khí bị nhốt trong phổi làm cho người bệnh khó thở; đẩy được lượng khí cặn
ứ đọng trong phổi ra ngoài mới có thể hít được không khí trong lành.
- Thở chúm môi là phương pháp giúp cho đường thở không bị xẹp lại khi thở
ra nên khí thoát ra ngoài dễ dàng hơn.
Kỹ thuật thở chúm môi
- Tư thế ngồi thoải mái.
- Thả lỏng cổ và vai.
- Hít vào chậm qua mũi.
- Môi chúm lại như đang huýt sáo, thở ra bằng miệng chậm sao cho thời gian
thở ra gấp đôi thời gian hít vào.
Ngồi thoải mái, thả lỏng cổ và vai,
hít vào chậm qua mũi
Môi chúm lại như đang huýt sáo, thở
ra bằng miệng chậm sao cho thời gian
thở ra gấp đôi thời gian hít vào.
Hình 1.2: Kỹ thuật thở chúm môi
Lưu ý:
- Nên lặp lại động tác thở chúm môi nhiều lần cho đến khi hết khó thở.
- Tập đi tập lại nhiều lần sao cho thật nhuần nhuyễn và trở thành thói quen.
- Nên dùng kỹ thuật thở chúm môi bất cứ lúc nào cảm thấy khó thở, như khi
leo cầu thang, tắm rửa, tập thể dục...
* Bài tập thở hoành
Bệnh nhân BPTNMT:
- Do tình trạng ứ khí trong phổi nên lồng ngực bị căng phồng làm hạn chế
hoạt động của cơ hoành.
- Cơ hoành là cơ hô hấp chính, nếu hoạt động kém sẽ làm thông khí ở phổi
kém và các cơ hô hấp phụ phải tăng cường hoạt động.
- Tập thở cơ hoành sẽ giúp tăng cường hiệu quả của động tác hô hấp và tiết
kiệm năng lượng.
Kỹ thuật thở hoành:
- Ngồi ở tư thế thoải mái. Thả lỏng cổ và vai.
- Đặt 1 bàn tay lên bụng và đặt bàn tay còn lại lên ngực.
- Hít vào chậm qua mũi sao cho bàn tay trên bụng có cảm giác bụng phình
lên. Lồng ngực không di chuyển.
- Hóp bụng lại và thở ra chậm qua miệng với thời gian thở ra gấp đôi thời
gian hít vào và bàn tay trên bụng có cảm giác bụng lõm xuống.
Ngồi tư thế thoải mái, Hít vào chậm qua mũi Hóp bụng lại và thở
thả lỏng cổ và vai, đặt sao cho bàn tay trên ra chậm qua miệng với
1 bàn tay lên bụng và bụng có cảm giác bụng thời gian thở ra gấp đôi
đặt bàn tay còn lại lên phình lên, lồng ngực thời gian hít vào và
ngực
không di chuyển
bàn tay trên bụng có
cảm giác bụng lõm
xuống
Hình1.3: Kỹ thuật thở hoành
Lưu ý:
- Nên tập thở cơ hoành nhiều lần trong ngày cho đến khi trở thành thói quen.
- Sau khi đã nhuần nhuyễn kỹ thuật thở cơ hoành ở tư thế nằm hoặc ngồi, nên
tập thở cơ hoành khi đứng, khi đi bộ và cả khi làm việc nhà.
1. 2. Cơ sở thực tiễn
Hiệu quả của thực hành các kỹ thuật cải thiện thông khí và ho khạc
đờm đã được minh chứng bằng các nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng ngẫu
nhiên có kiểm soát với cách thu thập số liệu đáng tin cậy. Trong một tóm tắt
tổng quan hệ thống Cochrane [12] tổng hợp mười sáu nghiên cứu liên quan
đến 1233 người bệnh BPTNMT thực hiện ở Trung Quốc, Ấn Độ, Hồng Kông,
Vương quốc Anh, Châu Âu, Hoa Kỳ và Brazil từ năm 1965 đến năm 2012,
các biện pháp can thiệp được đưa ra hỗ trợ nhằm thay đổi chất lượng cuộc
sống của người bệnh BPTNMT gồm: yoga (hai nghiên cứu), bài phục hồi
chức năng hô hấp sâu (một nghiên cứu), thở chúm môi (ba nghiên cứu), thở
cơ hoành (ba nghiên cứu), phản hồi sinh học hô hấp (hai nghiên cứu), vận
động cơ hô hấp (một nghiên cứu), bốn nghiên cứu bao gồm các nhóm bài
phục hồi chức năng hô hấp và một nghiên cứu không báo cáo các bài tập thực
tế được thực hiện. Các can thiệp được tiến hành từ 1 tháng đến 20 tháng, với
tần suất từ một đến ba lần một tuần. Bài tổng quan đã cung cấp bằng chứng
cho thấy sử dụng bài phục hồi chức năng hô hấp cải thiện triệu chứng khó thở
và nâng cao chất lượng cuộc sống của người bệnh BPTNMT. Có sự cải thiện
đáng kể trong bài test khoảng cách 6 phút đi bộ sau ba tháng tập yoga liên
quan đến kỹ thuật thở của Pranayama. Các bài phục hồi chức năng hô hấp kéo
dài từ 4 tuần đến 15 tuần cải thiện khả năng tập thể dục ở người BPTNMT so
với không can thiệp, kết quả tương tự nhau trên tất cả các bài phục hồi chức
năng hô hấp được kiểm tra. Theo GOLD, các bằng chứng cho thấy người
bệnh BPTNMT đều có những lợi ích nếu được áp dụng chương trình điều trị
PHCNHH. Chương trình này cải thiện tình trạng bệnh ở
người
bệnh
BPTNMT trên phương diện: giảm các triệu chứng mệt mỏi, khó thở, tăng khả
năng vận động và chất lượng cuộc sống. Hiệp hội phổi Australia đã đưa ra các
chuẩn về PHCNHH cho người bệnh BPTNMT và thiết lập nhiều trung tâm
dịch vụ hỗ trợ người bệnh đạt hiệu quả tốt. Đồng thời Hiệp hội này cũng đưa
ra những chuẩn về kỹ thuật, trang thiết bị cần thiết cho một chương trình điều
trị PHCNHH cho người bệnh BPTNMT. Như vậy có thể thấy các biện pháp
PHCNHH sẽ giúp người bệnh BPTNMT giảm triệu chứng, cải thiện chất lượng
cuộc sống, tăng cường hoạt động thể chất và tinh thần cho người bệnh trong
cuộc sống hàng ngày. Chế độ luyện tập thể lực và PHCNHH rất quan trọng đối
với người bệnh BPTNMT. Tuy nhiên nếu chế độ tập luyện thể lực không thích
hợp có thể gây khó thở thêm cho người bệnh và khiến người bệnh rất ngại vận
động thể lực. Một số nghiên cứu gần đây cho thấy, ở những người BPTNMT có
chế độ tập luyện, PHCNHH phù hợp có thể làm giảm tới trên 50% tỉ lệ người
bệnh nhập viện vì đợt cấp của bệnh. Tập luyện thể lực và tập PHCNHH có rất
nhiều lợi ích cho người bệnh BPTNMT như: cải thiện khả năng gắng sức; cải
thiện chất lượng cuộc sống; giảm triệu chứng khó thở; giảm rõ rệt số lần nhập
viện vì đợt cấp của bệnh; giảm lo âu trầm cảm liên quan tới bệnh; kéo dài tuổi
thọ người bệnh; cải thiện sức khỏe tâm thần kinh, ngủ ngon, tăng cảm giác ngon
miệng khi ăn.
Nghiên cứu của Cote và Celli [10] thực hiện năm 2005 với 116 người
bệnh thuộc nhóm can thiệp và 130 người bệnh thuộc nhóm chứng. Chương trình
PHCNHH kéo dài trong 8 tuần với 24 buổi tập bao gồm hướng dẫn thực hành
phục hồi chức năng hô hấp, giáo dục sức khỏe, tập thể dục. Đánh giá kết quả
bằng chỉ số BODE (BMI – Obstruction – Dyspnea – Exercise) cho thấy có cải
thiện 19% sau phục hồi chức năng (p<0,001); tỷ lệ tử vong do bệnh lý hô hấp
sau 2 năm ở nhóm can thiệp là 7% so với nhóm chứng là 39%; thời gian nằm
viện do bệnh lý hô hấp giảm 20% sau 1 năm ở nhóm phục hồi nhưng tăng lên
25% ở nhóm chứng.
Theo nghiên cứu của Marie Carmen Valenza và cộng sự [15] thực hiện
năm 2014 trên 23 người bệnh thuộc nhóm có can thiệp và 23 người bệnh thuộc
nhóm chứng. Nhóm can thiệp được hướng dẫn thực hành PHCNHH hai lần một
ngày, mỗi lần 30 phút trong thời gian nằm viện. Kết quả cho thấy ở nhóm can
thiệp có cải thiện đáng kể về triệu chứng khó thở, sự lo lắng và trầm cảm ở
người bệnh nhập viện vì BPTNMT nặng.
Tại Việt Nam, để đánh giá về hiệu quả PHCNHH cho người bệnh
BPTNMT tại bệnh viên Lao và bệnh Phổi Trung Ương của Nguyễn Viết Nhung
và cộng sự [6] đã thực hiện nghiên cứu can thiệp có đối chứng trên 60 người
bệnh BPTNMT từ giai đoan II trở lên (theo GOLD 2006) trong đó nhóm can
thiệp thực hiện theo chương trình PHCNHH trong thời gian 8 tuần, mỗi tuần 2
buổi và 1 buổi tập ở nhà. Với nội dung chương trình PHCNHH bao gồm tập thực
hành PHCNHH (ho có hiệu quả, phục hồi chức năng hô hấp cơ hoành, thở chúm
môi), tập thể lực (bài tập sức bền và sức mạnh của chân, sức bền và sức mạng
của tay, bài tập toàn thân), tư vấn sức khoẻ về kiến thức BPTNMT, yếu tố nguy
cơ và đợt cấp của bệnh, tác hại của thuốc lá, chế độ dinh dưỡng, hỗ trợ về mặt
tâm lý. Kết quả được ghi nhận được những lợi ích rõ rệt thông qua các chỉ số
sau: triệu chứng khó thở ở nhóm can thiệp giảm so với nhóm chứng; Khả năng
vận động tăng lên ở nhóm can thiệp với khoảng cách đi bộ trong 6 phút trung
bình là 77,88m; Chất lượng cuộc sống đánh giá bằng bộ câu hỏi hô hấp của Saint
George ở nhóm can thiệp có ý nghĩa thống kê (42,97± 14,23 so với 54,65±
12,47); Tỷ lệ cai thuốc lá ở nhóm can thiệp sau 8 tuần tuân thủ điều trị là 100%.
Kiến nghị điều trị PHCNHH cho người bệnh BPTNMT cần được phổ biến và áp
dụng rộng rãi bằng nhiều hình thức [8].
Đánh giá thực trạng thực hành tập thở của người bệnh mắc BPTNMT tại
bệnh viện Đa khoa tỉnh Nam Định Phạm Thị Bích Ngọc và cộng sự đã thực hiện
nghiên cứu trên 110 người bệnh được chẩn đoán BPTNMT. Kết quả cho thấy
thực hành tập thở của người bệnh mắc BPTNMT cưa cao. Thực hành tốt ở từng
kỹ thuật cụ thể là Kỹ thuật ho có kiểm soát chỉ có 11% người bệnh có điểm kỹ
thuật ở mức tốt, kỹ thuật thở mạnh chỉ có 4,6% người bệnh có điểm kỹ thuật ở
mức tốt, kỹ thuật thở chúm môi chỉ có 7,2% người bệnh có điểm kỹ thuật ở mức
tốt, kỹ thuật thở cơ hoành chỉ có 4,6% người bệnh có điểm kỹ thuật ở mức tốt[6].
1.3. Quy định hiện hành
Quyết định số 4562/QĐ-BYT ngày 19/07/2018: Về việc ban hành tài liệu
chuyên môn “Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính”.
[2]
Chương 2
MÔ TẢ VẤN ĐỀ CẦN GIẢI QUYẾT
2.1. Tổng quan về địa bàn thực tế
Bệnh viện Lao và bệnh phổi tỉnh Hà Nam là bệnh viện hạng III tuyến
tỉnh, trực thuộc Sở y tế tỉnh Hà Nam. Bệnh viện có quy mô 100 giường bệnh
điều trị nội trú và mỗi ngày khám chữa bệnh cho người bệnh ngoại trú từ 30
đến hơn 50 lượt. Trong một tháng khoa Bệnh phổi điều trị khoảng 50 bệnh
nhân BPTNMT, khoa khám bệnh quản lý khoảng 70 người bệnh BPTNMT
điều trị ngoại trú.
2.2. Phương pháp thực hiện
- Thời gian thực hiện: từ 01/06/2022 đến 15/07/2022
- Đối tượng: 48 người bệnh được chẩn đoán bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính
điều trị tại bệnh viện.
- Tiêu chuẩn lựa chọn:
+ Các bệnh nhân được điều trị ổn định đợt cấp
+ Bệnh nhân đã được hướng dẫn các bài tập thở
- Thời gian thu thập thông tin: Người bệnh vào viện thường được điều trị
trong vòng 10-15 ngày, bệnh nhân sẽ được đánh giá các bài tập thở trước
ngày ra viện 01 ngày.
Học viên giải thích cho bệnh nhân biết về mục đích của hoạt động, yêu cầu
người bệnh thực hiện bài tập thở cơ hoành trước, sau 15 phút thực hiện bài tập
thở chúm môi.
- Đánh giá: học viên đánh giá việc thực hiện các bài tập thở của người bệnh
- Cách thức đánh giá: sử dụng bảng kiểm để quan sát quá trình thực hiện các
bài tập thở. Bảng kiểm đánh giá tại phụ lục.
Việc thực hiện được đánh giá theo tiêu chí: (3) làm đúng và đủ; (2) làm
đủ nhưng không đúng; và (1) làm sai hoặc không làm. Mỗi kỹ
thuật
PHCNHH đều có 4 bước (bước 1, bước 2, bước 3, bước 4) mỗi bước được
đánh giá với mức điểm từ 1 – 3 điểm. Như vậy với mỗi kỹ thuật ho có kiểm
soát, kỹ thuật thở mạnh, kỹ thuật thở chúm môi, kỹ thuật thở hoành điểm tối
thiểu là 3 điểm và tối đa là 12 điểm. Số điểm này tương đương với điểm của
thang Morisky Medication Adherence Scales (MMAS – 8). Dựa trên ngưỡng
cắt của thang MMAS – 8 tôi đề xuất phân loại kỹ năng phục hồi chức năng hô
hấp của người bệnh làm 3 mức: tốt khi điểm thực hành kỹ thuật ≥ 8 điểm,
trung bình khi điểm thực hành kỹ thuật từ 6 – 7 điểm và kém khi điểm thực
hành kỹ thuật của người bệnh < 6 điểm
2.3. Thông tin chung và thực trạng thực hành tập thở của đối
tượng nghiên cứu
2.3.1. Thông tin chung về người bệnh
Bảng 2.1. Tuổi và giới của đối tượng nghiên cứu
Nam
Nữ
Số BN
Tuổi
n
%
n
%
N
%
< 50
1
2,1
0
0
1
2,1
50 – 60
8
16,6
3
6,3
6
22,9
> 60
26
54,2
10
20,8
41
75,0
Tổng số
35
72,9
13
27,1
48
100
Nhận xét: Bảng 1 cho ta thấy đa số đối tượng tham gia nghiên cứu nam giới
(72,9%), nữ giới (27,1 %); nhóm tuổi ở độ tuổi > 60 tuổi chiếm 75%.
Biểu đồ 2.1: Số năm mắc BPTNMT
30
26
25
20
14
15
Số lượng
10
6
5
2
0
< 1 năm
1năm-3 năm
>3 năm-5 năm
> 5 năm
Nhận xét: BPTMT đã và đang là một căn bệnh gây ảnh hưởng nghiêm trọng
tới đời sống sinh hoạt. Hầu hết những người bệnh được hỏi đều đang nhập
viện lần thứ hai trở lên. Rất nhiều trường hợp mắc bệnh lâu năm lên tới 5-6
năm, thậm chí là 8 năm. Diễn biến bệnh từ khi khởi phát từ từ, khiến người
bệnh không quá quan tâm đến tình hình bệnh. Tại bệnh viện có tới 54,2%
trường hợp bị bệnh trên 5 năm.
2.3.2. Thực trạng thực hành tập thở của bệnh nhân BPTNMT
Biểu đồ 2.2. Thực hành kỹ thuật ho có kiểm soát của đối tượng nghiên cứu
14,5%
41,7%
43,8%
- Xem thêm -