Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Y dược Thực trạng kiến thức dự phòng biến chứng do tăng huyết áp của người bệnh tại tru...

Tài liệu Thực trạng kiến thức dự phòng biến chứng do tăng huyết áp của người bệnh tại trung tâm y tế thị xã đông triều, tỉnh quảng ninh năm 2022

.DOCX
74
1
95

Mô tả:

i MỤC LỤC LỜI CẢM ƠN.....................................................................................................................i LỜI CAM ĐOAN..............................................................................................................ii MỤC LỤC........................................................................................................................iii DANH MỤC BẢNG......................................................................................................... v DANH MỤC BIỂU ĐỒ...................................................................................................vi DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT.......................................................................................vii ĐẶT VẤN ĐỀ................................................................................................................... 1 CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN......................................................... 4 1.1 Cơ sở lý luận...........................................................................................................4 1.1.1 Định nghĩa tăng huyết áp.................................................................................... 4 1.1.2 Phân độ tăng huyết áp.........................................................................................4 1.1.3 Các yếu tố nguy cơ gây tăng huyết áp.................................................................5 1.1.4. Nguyên nhân tăng huyết áp thứ phát................................................................. 8 1.1.5. Biến chứng tăng huyết áp................................................................................... 9 1.2. Chăm sóc, phòng ngừa biến chứng tăng huyết áp.............................................. 10 1.2.1. Uống thuốc điều trị tăng huyết áp....................................................................10 1.2.2. Tích cực thay đổi lối sống................................................................................ 11 1.2.3. Theo dõi huyết áp, nhận biết và xử trí các dấu hiệu của biến chứng do tăng huyết áp.......................................................................................................................11 1.3. Các nghiên cứu liên quan đến THA và dự phòng biến chứng do THA.............12 1.3.1. Trên thế giới......................................................................................................12 1.3.2. Tại Việt Nam.....................................................................................................15 1.4. Phương pháp đánh giá kiến thức về dự phòng biến chứng của người bệnh THA .............................................................................................................................. 18 CHƯƠNG 2. MÔ TẢ VẤN ĐỀ CẦN GIẢI QUYẾT............................................... 20 2.1. Một số thông tin khái quát về Trung tâm y tế thị xã Đông Triều.......................20 2.2. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu.............................................................. 20 2.3.1 Thông tin chung của người bệnh tham gia nghiên cứu...................................22 2.3.2 Thực trạng kiến thức về dự phòng biến chứng THA của ĐTNC......................25 Chương 3. BÀN LUẬN...................................................................................................32 3.1 Thông tin chung về người bệnh tham gia nghiên cứu.........................................32 3.2 Kiến thức về phòng biến chứng do tăng huyết áp của ĐTNC............................34 KẾT LUẬN.......................................................................Error! Bookmark not defined. ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP .........................................Error! Bookmark not defined.3 TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC DANH MỤC BẢNG Bảng 2.1. Đặc điểm nhân khẩu học của ĐTNC (n=89)..................................22 Bảng 2.2. Đặc điểm về chỉ số khối cơ thể của ĐTNC....................................24 Bảng 2.3. Đặc điểm liên quan đến tăng huyết áp của ĐTNC.........................24 Bảng 2.4. Nguồn thông tin về tăng huyết áp mà người bệnh nhận được.......25 Bảng 2.5. Kiến thức về chỉ số tăng huyết áp và nguyên tắc điều trị...............25 Bảng 2.6. Kiến thức về biến chứng do tăng huyết áp.....................................26 Bảng 2.7. Kiến thức dấu hiệu và xử trí biến chứng tăng huyết áp..................27 Bảng 2.8. Kiến thức về dấu hiệu và xử trí cơn tăng huyết áp kịch phát.........27 Bảng 2.9. Kiến thức về các yếu tố làm tăng nguy cơ biến chứng (n=89)......28 Bảng 2.10. Kiến thức về lối sống phòng biến chứng do tăng huyết áp..........28 Bảng 2.11. Phân loại kiến thức về phòng biến chứng do tăng huyết áp.........29 Bảng 2.12. Tuân thủ điều trị thuốc của người bệnh (n=89)............................29 DANH MỤC BIỂU ĐỒ Biểu đồ 2.1. Đặc điểm giới tính của đối tượng nghiên cứu..........................223 Biểu đồ 2.2. Đặc điểm trình độ học vấn của đối tượng nghiên cứu...............23 DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT ĐTNC Đối tượng nghiên cứu ĐTĐ Đái tháo đường HA Huyết áp HATT Huyết áp tâm thu HATTr Huyết áp tâm trương NB Người bệnh NCT Người cao tuổi NMCT Nhồi máu cơ tim TBMMN Tai biến mạch máu não THA Tăng huyết áp NVYT Nhân viên y tế WHO Tổ chức Y tế Thế giới GDSK Giáo dục sức khỏe TTGDSK Truyền thông giáo dục sức khỏe 1 ĐẶT VẤN ĐỀ Tăng huyết áp đã và đang là căn bệnh có xu hướng tăng nhanh trên toàn cầu cũng như ở Việt Nam trong thời gian gần đây. Theo thống kê của Tổ chức Y tế Thế giới, tăng huyết áp hiện tác động đến gần 1 tỷ người trên khắp thế giới và có thể tăng lên mức 1,5 tỷ người vào năm 2025 [35]. Hiện nay, ở Châu Á, cứ 4 người trưởng thành thì có 1 người bị tăng huyết áp [30]. Tại Việt Nam, nếu năm 1980 cho thấy có khoảng 10% người bệnh tăng huyết áp thì đến năm 2009 con số này đã tăng lên 25% và năm 2015 là trên 40% ở người trưởng thành [16]. Đây cũng là căn bệnh có tỷ lệ gây ra các bệnh lý về tim mạch nhiều nhất và là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu hiện nay. Tăng huyết áp được xem như là “kẻ giết người thầm lặng” vì bệnh thường không có triệu chứng, tiến triển theo thời gian và có thể gây ra những biến chứng nặng nề và nguy hiểm. Tỷ lệ tử vong và tàn phế do tăng huyết áp là 2030% và biến chứng xuất huyết não lên tới 45-50% [28]. Các biến chứng của tăng huyết áp là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây tử vong trong các bệnh về tim mạch. Theo số liệu của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) năm 2013, trên toàn cầu bệnh tim mạch có 17 triệu ca tử vong mỗi năm và hơn một phần ba trong số đó có nguyên nhân là tăng huyết áp [30]. Ở người cao tuổi, tử vong do tăng huyết áp chiếm đến 81% trong tổng số ca tử vong [28]. Trước thực tế này, từ năm 2000, Liên đoàn Tim mạch Thế giới (World Heart Federation – WHF) đã quyết định chọn ngày Chủ nhật cuối cùng của Tháng 9 là “Ngày Tim mạch Thế giới” (World Heart Day) nhằm nâng cao nhận thức trong cộng đồng về bệnh lý tim mạch, đặc biệt là bệnh tăng huyết áp [35]. Tại Việt Nam, nhiều nghiên cứu về biến chứng của tăng huyết áp cũng đã cho kết quả tương tự và cho thấy tăng huyết áp thực sự là một gánh nặng về kinh tế - tinh thần đối với mỗi cá nhân, gia đình và cộng đồng [9]. Tăng huyết áp là nguyên nhân hàng đầu gây suy tim ở người lớn, 46% người bệnh nhồi máu cơ tim cấp được điều trị tại Viện Tim Mạch Việt Nam có liên quan đến tăng huyết áp và hơn 1/3 số người bệnh tai biến mạch máu não điều trị tại Khoa Thần Kinh, Bệnh viện Bạch Mai có nguyên nhân là tăng huyết áp [26]. Nhiều nghiên cứu đã cho thấy cải thiện kiến thức và thực hành dự phòng các biến chứng do tăng huyết áp cho người bệnh (NB) thông qua can thiệp giáo dục sức khoẻ là một trong các biện pháp có hiệu quả góp phần giảm tỷ lệ các biến chứng do tăng huyết áp [5], [20]. Kiểm soát huyết áp hiệu quả làm giảm 40% nguy cơ đột qụy và 15% nguy cơ nhồi máu cơ tim [29]. Tuy nhiên, từ kết quả của các nghiên cứu có sẵn lại cho thấy tỷ lệ kiểm soát tốt huyết áp bằng thuốc trên thế giới chỉ đạt từ 25 - 40% do tăng huyết áp thường đi kèm những yếu tố nguy cơ như hút thuốc lá, đái tháo đường, rối loạn lipid máu, béo phì, ít vận động thể lực… Các yếu tố nguy cơ nếu không được phòng tránh một cách đầy đủ, kết quả lại làm trầm trọng thêm tình trạng tăng huyết áp và các biến chứng của nó [9]. Theo nghiên cứu của Trịnh Thị Hương Giang tại Ninh Bình (2015), cho thấy tỷ lệ thực hành phòng biến chứng của người bệnh tăng huyết áp chỉ đạt là 28,7% [5]. Nghiên cứu của Đinh Thị Thu (2018), tại Bệnh viện đa khoa Tỉnh Quảng Ninh cũng cho thấy kết quả không cao về tỷ lệ (54,6%) người bệnh tăng huyết áp có kiến thức và thực hành phòng biến chứng do tăng huyết áp [22]. Tính đến thời điểm hiện nay, tại Trung tâm Y tế thị xã Đông Triều, đã có một số nghiên cứu mô tả về tình hình tăng huyết áp được thực hiện nhưng chưa có một nghiên cứu can thiệp giáo dục sức khoẻ về việc phòng ngừa các biến chứng do tăng huyết áp cho người bệnh được công bố. Với mong muốn đóng góp vào công tác quản lý người bệnh tăng huyết áp, hạn chế các biến chứng do tăng huyết áp gây ra cho người bệnh; góp phần mở rộng và cải thiện chất lượng dịch vụ chăm sóc y tế tại địa phương. Tôi tiến hành thực hiện chuyên đề “Thực trạng kiến thức dự phòng biến chứng do tăng huyết áp của người bệnh tại Trung tâm y tế thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh năm 2022” Với 2 mục tiêu như sau: 1. Mô tả thực trạng kiến thức dự phòng biến chứng do tăng huyết áp của người bệnh tại Trung tâm Y tế thị xã Đông Triều,tỉnh Quảng Ninh năm 2022. 2. Đề xuất một số giải pháp để cải thiện kiến thức dự phòng biến chứng do tăng huyết áp của người bệnh tại Trung tâm Y tế thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh. CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 1.1 Cơ sở lý luận 1.1.1 Định nghĩa tăng huyết áp Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), tăng huyết áp khi huyết áp tâm thu ≥ 140mmHg và/hoặc huyết áp tâm trương ≥ 90 mmHg [30]. Tăng huyết áp (THA) có thể là tăng cả huyết áp tâm thu và huyết áp tâm trương hoặc chỉ tăng một trong hai chỉ số. Các chỉ số huyết áp 120-139/8090mmHg, Theo JNC7 (Joint National Committee 7 - Uỷ ban Quốc gia lần thứ 7 của Hoa Kỳ) được coi là tiền THA, nghĩa là có nguy cơ bị THA thật sự cao gấp 2 lần so với người có huyết áp bình thường là < 120/80mmHg. Tại Việt Nam, theo Bộ Y tế (2010) một người trưởng thành (≥ 18 tuổi) được gọi là tăng huyết áp khi huyết áp tâm thu lớn hơn hoặc bằng 140 mmHg và/hoặc huyết áp tâm trương lớn hơn hoặc bằng 90 mmHg [1]. 1.1.2 Phân độ tăng huyết áp: Hiện nay có 3 phân loại THA thường được sử dụng trên lâm sàng là phân độ theo Liên ủy quốc gia về dự phòng, phát hiện, đánh giá và điều trị THA (JNC - Join National Committee) lần thứ VII năm 2003. Phân độ theo European Society of Hypertension/European Society of Cardiology (ESH/ESC) Hội tăng huyết áp Châu Âu / Hội Tim mạch Châu Âu năm 2007 và phân độ THA theo bộ y tế năm 2010 [1], [14], [35]. Trong nghiên cứu này chúng tôi sử dụng phân độ tăng huyết áp của Bộ Y tế Việt Nam [1]. Bảng 1. Phân độ tăng huyết áp của Bộ Y tế Phân độ HATT (mmHg) HATTr (mmHg) HA tối ưu < 120 và < 80 HA bình thường 120 – 129 và/hoặc 80 - 84 Tiền tăng huyết áp 130-139 và/hoặc 85-89 THA độ 1 140-150 và/hoặc 90-99 THA độ 2 160-179 và/hoặc 100-109 THA độ 3 ≥180 và/hoặc ≥110 THA tâm thu đơn độc ≥140 và <90 Tiền THA: Kết hợp HA bình thường và HA bình thường cao, nghĩa là HATT từ 120 -139 mmHg và HATTr từ 80-89 mmHg. 1.1.3 Các yếu tố nguy cơ gây tăng huyết áp * Ăn mặn Nguy cơ mắc bệnh THA thường hay gặp ở người có thói quen ăn mặn. Muối hiện được coi là một trong những nguy cơ quan trọng của THA. Theo khuyến cáo của WHO, người trưởng thành mỗi ngày chỉ nên sử dụng ít hơn 6g muối (một thìa cà phê). Thực tế cũng cho thấy người dân ở vùng ven biển có tỷ lệ THA cao hơn so với người dân ở vùng đồng bằng và miền núi [30]. * Hút thuốc lá, thuốc lào Theo nghiên cứu của Nguyễn Văn Triệu về thực trạng bệnh THA và một số yếu tố liên quan đến bệnh THA tại nhà máy nhiệt điện Phả Lại, số người mắc tiền THA, THA độ I và THA độ II ở những người hút thuốc lá cao hơn so với những người không hút thuốc lá (tương ứng 8,5; 13,4 và 5,5% với 6,8; 13,7 và 2,5%) [25]. * Đái tháo đường Ở những người bị đái tháo đường tỷ lệ bị bệnh THA cao gấp đôi so với người không bị đái tháo đường (ĐTĐ). Khi NB có cả bệnh THA và ĐTĐ sẽ làm tăng gấp đôi biến chứng ở các mạch máu lớn và nhỏ, làm tăng gấp đôi nguy cơ tử vong so với người bệnh THA đơn thuần. Vì vậy khi bị ĐTĐ, cần phải điều trị tốt bệnh này để góp phần khống chế được bệnh THA kèm theo. * Rối loạn Lipid máu Cholesterol và triglycerid máu là các thành phần chất béo ở trong máu. Chúng thường được gọi là các thành phần mỡ của máu hay chính xác hơn là lipid máu. Nồng độ cholesterol máu cao là nguyên nhân chủ yếu của quá trình xơ vữa động mạch và dần dần làm hẹp lòng các động mạch cung cấp máu cho tim và các cơ quan khác trong cơ thể. Động mạch bị xơ vữa sẽ kém đàn hồi và cũng chính là yếu tố gây THA. Vì vậy cần ăn chế độ giảm lipid máu sẽ giúp phòng bệnh tim mạch nói chung và bệnh THA nói riêng. Nhóm tăng triglycerid có nguy cơ THA cao gấp 1,34 lần so với nhóm triglyceride bình thường theo nghiên cứu của Nguyễn Thái Hoàng và cộng sự trên 948 NCT, nghiên cứu một số yếu tố nguy cơ ảnh hưởng đến huyết áp ở NCT năm 2012 [9]. * Tiền sử gia đình có người bị tăng huyết áp Tiền sử gia đình, nhất là trực hệ (bố, mẹ, anh, chị, em, ruột), có người mắc bệnh THA, béo phì, bệnh tim mạch, rối loạn lipid máu là nguy cơ cao cho thành viên trong gia đình mắc các bệnh mãn tính trên nói chung và THA nói riêng. Vì vậy, những người mà tiền sử gia đình có người thân bị THA càng cần phải cố gắng loại bỏ các yếu tố nguy cơ để có thể phòng tránh được bệnh THA. * Tuổi, giới, chủng tộc Tuổi càng cao thì tỷ lệ THA càng nhiều do thành động mạch bị lão hóa và xơ vữa, giảm tính đàn hồi, trở nên cứng hơn, làm cho huyết áp tâm thu tăng cao hơn, gọi là THA tâm thu đơn thuần. Tuổi càng cao, khả năng đàn hồi của thành mạch càng giảm cộng với huyết áp càng cao tăng dần theo tuổi sẽ làm tăng nguy cơ xảy ra biến chứng do THA [3], [14]. * Thừa cân, béo phì Trọng lượng của cơ thể con người có mối quan hệ khá tương đồng với bệnh THA. Có một công thức đơn giản để tính trạng thái thừa cân, đó là tính chỉ số khối cơ thể (BMI). BMI = cân nặng(kg)/{chiều cao(m)}2 Ở người bình thường, chỉ số BMI sẽ giao động trong khoảng 18,5-24,9. Tỷ lệ THA tăng dần theo chỉ số cơ thể Body Mass Index (BMI), BMI càng cao, khả năng bị THA càng nhiều với nguy cơ tương đối càng cao [22]. Theo nghiên cứu của Hoàng Văn Ngoạn tại Huế (2009) cho thấy rằng chỉ số BMI càng lớn thì mức độ THA càng cao (p < 0,05) [25]. * Uống nhiều bia, rượu Người uống nhiều bia, rượu quá mức cũng là yếu tố nguy cơ gây bệnh tim mạch nói chung và bệnh THA nói riêng. Đối với những người phải dùng thuốc để điều trị THA, việc uống bia, rượu quá mức hoặc người bị nghiện rượu sẽ làm mất tác dụng của thuốc hạ huyết áp, làm tăng tỷ lệ TBMMN ở người THA. Ở nghiên cứu của Nguyễn Dung và cộng sự năm 2011 tại Thừa Thiên Huế, nhóm NB có thói quen uống rượu bia có tỷ lệ THA là 17,1% cao hơn nhóm không uống rượu bia có tỷ lệ THA là 16,7% [10]. * Ít vận động thể lực Hoạt động thể lực có liên quan đến THA. Người ít vận động thể lực hay có lối sống tĩnh tại cũng được xem là một nguy cơ của bệnh THA. Tỷ lệ THA tăng dần theo mức giảm hoạt động thể lực, ở nhóm ít hoạt động thể lực có tỷ lệ THA 17,6% cao hơn nhóm có vận động thể lực có tỷ lệ THA 16,7% theo nghiên cứu của Nguyễn Dung và cộng sự, nghiên cứu tình hình bệnh THA tại thành phố Huế và thị xã Hương Thuỷ, tỉnh Thừa Thiên Huế năm 2011 [3]. * Căng thẳng, lo âu quá mức Khi bị căng thẳng tâm thần kinh, hệ thần kinh giao cảm tăng cường hoạt động giải phóng ra Adrenalin và Noadrenalin làm cho tim tăng co bóp, nhịp tim đập nhanh hơn, động mạch nhỏ co lại và làm HA tăng. Nhiều nghiên cứu đã chứng minh được những người bị căng thẳng thần kinh, lo âu quá mức hay bị stress sẽ làm tăng nhịp tim. Vì vậy, mỗi người cần rèn luyện cho mình tính tự lập, kiên nhẫn và luôn luôn biết làm chủ bản thân trước mọi vấn đề xảy ra trong cuộc sống góp phần vào việc phòng THA. Kết quả nghiên cứu của Nguyễn Kim Kế năm 2012 đã chỉ ra người cao tuổi có cuộc sống tinh thần không thoải mái, hay căng thẳng có nguy cơ THA cao gấp 7,4 lần so với người cao tuổi có cuộc sống tinh thần thoải mái [12]. 1.1.4. Nguyên nhân tăng huyết áp thứ phát Đại đa số NB THA (trên 90%) thường không có các dấu hiệu cảnh báo nào trước. Quan điểm trước đây cho rằng cứ THA là phải có các dấu hiệu như đau đầu, mặt đỏ bừng, người béo… là hết sức sai lầm. Ở nhiều trường hợp, sự xuất hiện triệu chứng đau đầu đã có thể là sự kết thúc của người bệnh THA do đã bị tai biến mạch máu não (TBMMN). Do vậy, việc kiểm tra huyết áp thường xuyên, đặc biệt đối với những người có nguy cơ cao là việc làm hết sức cần thiết và quan trọng [13], [19]. Khoảng 90 - 95 % các trường hợp bị THA là không có nguyên nhân trực tiếp (hay còn gọi THA nguyên phát). Các nhà khoa học nhận thấy có một số yếu tố tác động, phối hợp gây bệnh và liên quan đến sự hình thành, tiến triển của THA nguyên phát, còn được gọi là yếu tố nguy cơ như: Ăn mặn, béo phì, uống nhiều rượu/bia, hút thuốc lá/thuốc lào, ít hoạt động thể lực, tuổi, giới, chủng tộc các yếu tố di truyền, … các yếu tố trên có thể phối hợp với nhau ngay trên cùng một NB. Có khoảng dưới 10% số người bị THA là do một bệnh hoặc yếu tố nào đó gây ra. Đây gọi là THA thứ phát, hay THA có căn nguyên. Một số bệnh có thể là nguyên nhân gây ra THA như [19]: - Các bệnh về thận cấp hoặc mãn tính: viêm cầu thận cấp/mãn, viêm thận kẽ, sỏi thận, suy thận, thận đa nang… - Hẹp động mạch thận - Bệnh về nội tiết: U tủy thượng thận - Cường Aldosterone tiên phát (hội chứng Conn) - Hội chứng Cushing - Bệnh lý tuyến giáp, cận giáp, tuyến yên - Do thuốc, liên quan đến thuốc: Hormone, corticoid. - Hẹp eo động mạch chủ. - Tăng huyết áp do nhiễm độc thai nghén 1.1.5. Biến chứng tăng huyết áp * Các biến chứng thường gặp Biến chứng ở tim: Suy tim và bệnh mạch vành là hai biến chứng chính và là nguyên nhân tử vong cao nhất đối với THA: dày thất trái gây suy tim toàn bộ, suy mạch vành gây nhồi máu cơ tim, phù phổi cấp [13]. THA thường xuyên sẽ làm sức cản ngoại vi tăng dẫn đến tim phải làm việc nhiều để thắng sức cản đó theo thời gian dẫn đến suy tim trái, suy tim phải và suy tim toàn bộ. Về lâm sàng, lúc đầu NB mệt mỏi, khó thở khi gắng sức, về sau với gắng sức vừa cũng khó thở và đến giai đoạn cuối của bệnh thì khó thở cả khi đi ngủ. Ngoài ra người bệnh còn có da xanh, phù, tím tái…. Động mạch vành cũng dần dần bị xơ vữa do tăng huyết áp thúc đẩy, gây ra thiếu máu cơ tim cục bộ làm xuất hiện những cơn đau thắt ngực, mức độ nặng có thể gây nhồi máu cơ tim. Bệnh THA được coi là yếu tố đe dọa quan trọng trong bệnh mạch vành [27]. Biến chứng ở não: Là những biến chứng rất thường gặp và thường là nặng nề với người bệnh THA. THA lâu ngày làm cho động mạch não mất độ đàn hồi, biến dạng, dễ hình thành những túi phồng nhỏ, rất dễ vỡ khi có cơn THA kịch phát. THA cũng thúc đẩy quá trình xơ vữa động mạch não, lòng động mạch não hẹp lại, gây cản trở tuần hoàn, giảm lưu lượng máu tới nuôi tổ chức não gây ra tình trạng thiếu máu não, hoặc gây tắc mạch dẫn đến tình trạng nhồi máu não. Các biến chứng não ở người bệnh THA rất đa dạng: Từ tai biến mạch máu não (TBMMN) đến xơ vữa mạch não.…có thể tử vong hoặc để lại di chứng nặng nề [13]. TBMMN có thể xảy ra đột ngột vào bất cứ thời điểm nào trong ngày nhưng chủ yếu là vào ban đêm hoặc khi thời tiết thay đổi. Biến chứng ở thận: THA gây tổn thương thận, tình trạng THA cao và kéo dài làm tổn thương và phá hủy các mạch máu trong cơ thể, làm giảm lượng máu cung cấp đến thận và các cơ quan khác, động mạch thận dần dần bị xơ hóa, ảnh hưởng đến chức năng lọc của cầu thận. Do đó, THA là nguyên nhân chính dẫn đến suy thận mạn. Triệu chứng lâm sàng của thận trong THA rất kín đáo. Thường ở thời gian đầu thận bù trừ tốt nên các biểu hiện thường nghèo nàn như thiếu máu nhẹ, chán ăn, mệt mỏi, tức 2 bên hố lưng. Những xét nghiệm cần làm chẩn đoán tổn thương thận do THA dựa vào creatinin máu để đánh giá mức lọc máu cầu thận, lượng protein trong nước tiểu [2]. Khi người bệnh (NB) đã bị bệnh thận mạn do THA đến giai đoạn không thể điều chỉnh bằng thuốc sẽ dẫn đến chi phí điều trị tăng lên rất nhiều do phải chạy thận nhân tạo định kỳ dẫn đến nhiều NB nghèo không có khả năng chi trả phải ngưng điều trị ảnh hưởng đến tính mạng. Biến chứng ở mắt: Các biến chứng về mắt tiến triển qua nhiều giai đoạn từ mờ mắt, xuất huyết, xuất tiết và phù gai thị. Khi soi đáy mắt có thể thấy tổn thương đáy mắt. Biến chứng này tuy ít gặp nhưng dễ nhầm với các bệnh về mắt hoặc biến chứng mắt do đái tháo đường. Biến chứng ở mạch máu: THA là yếu tố gây xơ vữa động mạch, phồng động mạch chủ. Các biến chứng về mạch máu ngày càng gặp nhiều hơn trong thời gian gần đây và ảnh hưởng nhiều đến chất lượng cuộc sống của NB. 1.2. Chăm sóc, phòng ngừa biến chứng tăng huyết áp 1.2.1. Uống thuốc điều trị tăng huyết áp THA là bệnh mạn tính, chính vì vậy việc uống thuốc điều trị THA hàng ngày và liên tục là điều rất quan trọng giúp NB ổn định HA, cải thiện được tình trạng bệnh, hạn chế tối đa các biến chứng. Nhưng mức độ tuân thủ dùng thuốc ở các nghiên cứu còn chưa cao. Theo nghiên cứu của Nguyễn Thị Thơm tại địa bàn nghiên cứu chỉ có 59,6% NB uống thuốc điều trị THA thường xuyên [21]. 1.2.2. Tích cực thay đổi lối sống Tại Việt Nam theo hướng dẫn chẩn đoán, điều trị THA của Bộ Y Tế áp dụng cho mọi NB để ngăn ngừa sự tiến triển của bệnh và giảm nguy cơ mắc biến chứng do THA gây ra [1]. Các biện pháp tích cực thay đổi lối sống: áp dụng cho mọi NB để ngăn ngừa tiến triển và giảm được huyết áp, giảm số thuốc cần dùng … + Chế độ ăn hợp lý, đảm bảo đủ kali và các yếu tố vi lượng: + Giảm ăn mặn (< 6 gam muối hay 1 thìa cà phê muối mỗi ngày). + Tăng cường rau xanh, hoa quả tươi. + Hạn chế thức ăn có nhiều cholesterol và axít béo no. Tích cực giảm cân (nếu quá cân), duy trì cân nặng lý tưởng với chỉ số khối cơ thể (BMI: body mass index) từ 18,5 đến 22,9 kg/m2. Cố gắng duy trì vòng bụng dưới 90cm ở nam và dưới 80cm ở nữ. Hạn chế uống rượu, bia: Số lượng ít hơn 3 cốc chuẩn/ngày (nam), ít hơn 2 cốc chuẩn/ngày (nữ) và tổng cộng ít hơn 14 cốc chuẩn/tuần (nam), ít hơn 9 cốc chuẩn/tuần (nữ). 1 cốc chuẩn chứa 10g ethanol tương đương với 330ml bia hoặc 120ml rượu vang, hoặc 30ml rượu mạnh. Ngừng hoàn toàn việc hút thuốc lá hoặc thuốc lào. Tăng cường hoạt động thể lực ở mức thích hợp: tập thể dục, đi bộ hoặc vận động ở mức độ vừa phải, đều đặn khoảng 30-60 phút mỗi ngày. Tránh lo âu, căng thẳng thần kinh; cần chú ý đến việc thư giãn, nghỉ ngơi hợp lý. Tránh bị lạnh đột ngột. 1.2.3. Theo dõi huyết áp, nhận biết và xử trí các dấu hiệu của biến chứng do tăng huyết áp Trong các khuyến cáo mới nhất WHO, JNC cũng như các tổ chức phòng chống THA trên thế giới và Phân hội THA Việt Nam, những người mắc THA cần theo dõi HA thường xuyên hàng ngày vào những giờ nhất định hoặc khi có dấu hiệu bất thường. Theo dõi HA mang lại nhiều lợi ích cho NB: Theo dõi sự thay đổi của HA, đánh giá được sự đáp ứng của thuốc hạ áp, nhận biết dấu hiệu của các biến chứng…. Việc tái khám định kỳ, đi khám ngay khi có các dấu hiệu bất thường hay xử trí những tình huống THA cấp tại nhà rất quan trọng để giảm thiểu những tổn thương có thể có của biến chứng [1]. 1.3. Các nghiên cứu liên quan đến THA và dự phòng biến chứng do THA 1.3.1. Trên thế giới THA là một bệnh lý tim mạch phổ biến và mang tính chất xã hội. Theo thống kê tại Hoa Kỳ năm 2006, có khoảng 74,5 triệu người Mỹ bị THA, và cứ ba người lớn có một người bị THA. Trong tổng số người bị THA tại Hoa Kỳ có khoảng 77,6% là đã biết bị THA. Trong số người bệnh bị THA, chỉ có 67,9% được điều trị và chỉ có 44,1% là được khống chế tốt trong khi có tới 55,9% không được khống chế tốt. Tại một số nước như Canada, Anh, Đức… tỷ lệ người bệnh THA được điều trị cũng chỉ từ 27 - 47% [5]. Theo Cẩm nang giáo dục sức khỏe về các bệnh không lây nhiềm của WHO cho thấy: tỷ lệ NB tử vong do các bệnh về tim mạch tăng khi HA tăng, cụ thể: HA 115/75: Tỷ lệ tử vong thấp nhất HA 135/85: Tỷ lệ tử vong tăng gấp đôi HA 155/95: Tỷ lệ tử vong tăng gấp 4 lần HA 175/105: Tỷ lệ tử vong tăng gấp 8 lần HA 195/115: Tỷ lệ tử vong tăng gấp 16 lần. HA trên 155/95 thì dẫn đến nguy cơ tử vong do tim tăng gấp 4 lần so với bình thường, 8 lần ở 175/105 và 16 lần nếu HA trên195/115. Và bằng cách kiểm soát tốt HA sẽ cắt giảm nguy cơ đột quỵ 30%, giảm 25% nguy cơ nhồi máu cơ tim, 23% bệnh thận mãn tính [29]. Nghiên cứu của của Rịjan J (2019): Một bảng câu hỏi sử dụng cho NB gồm 16 câu hỏi về: kiến thức (5), thái độ (5) và thực hành (6). Kết quả: Kiến thức về THA, HA bình thường, các triệu chứng và biến chứng lần lượt là 74%, 54,5%, 41,5% và 37,5%. Thái độ tích cực về việc dùng thuốc thường xuyên, vai trò của thuốc, kiểm soát chế độ ăn, hạn chế muối và hoạt động thể chất lần lượt là 94%, 40,5%, 74%, 76% và 67%. NB thực hiện đo HA thường xuyên, theo dõi - hạn chế muối và tập thể dục lần lượt ở 77%, 77%, 72%. Hầu hết NB đều có thái độ và thực hành tích cực trừ việc thực hành các bài tập thể dục thường xuyên. Do đó, cần nâng cao nhận thức về các triệu chứng, biến chứng và tầm quan trọng của hoạt động thể chất, đặc biệt là ở các NB nam [36]. Nghiên cứu Pugie Tawanda Chimberengwa và cs (2019): Có 304 người được hỏi đã tham gia vào nghiên cứu, nữ giới chiếm 65,4%. Trong đó, 25% người được hỏi về thuốc không biết tình trạng kiểm soát HA của họ. Kiến thức về THA còn kém, với 64,8% NB cho rằng căng thẳng là nguyên nhân chính của THA, 85,9% cho rằng đánh trống ngực là triệu chứng của tăng huyết áp và 59,8% người được hỏi cho thêm muối vào bữa ăn. Việc thiếu các kiến thức về bệnh THA góp phần làm giảm nhận thức và giảm tuân thủ điều trị ở NB. Kiến thức về THA trong cộng đồng nên tập trung vào việc phòng ngừa ban đầu vì điều này có hiệu quả về chi phí ở những nơi có nguồn lực thấp [39]. Nghiên cứu của Cibele D Ribeiro (2014) cho thấy: THA là một tình trạng hầu như được quản lý hoàn toàn bởi nhóm chăm sóc chính bao gồm nhiều chuyên gia y tế như bác sĩ, y tá, dược sĩ và các chuyên gia chăm sóc sức khỏe khác như bác sĩ vật lý trị liệu, những người thường xuyên làm việc trong lĩnh vực phục hồi chức năng tim [33]. Trong một nghiên cứu của Mazzaglia và cộng sự (2009): Tiến hành trên 18.000 NB THA mới được chẩn đoán, theo dõi trung bình 4,6 năm, kết quả cho thấy giảm 38% nguy cơ biến cố tim mạch (p = 0,032) ở nhóm NB tuân thủ tốt (tỉ lệ ngày dùng thuốc ≥ 80%) so với nhóm NB tuân thủ kém (số ngày dùng thuốc ≤ 40%) [38]. Nghiên cứu của Dragomir A và cộng sự (2010) cho rằng những NB tuân thủ điều trị THA kém (số ngày dùng thuốc < 80%) sẽ dễ mắc các bệnh như bệnh mạch vành, đột quỵ hoặc suy thận mạn trong thời gian theo dõi 3 năm [34]. Do đó, cải thiện tuân thủ sử dụng thuốc là tối quan trọng để NB đạt được và duy trì được sự kiểm soát HA, về lâu dài giảm tình trạng bệnh tật và tử vong do bệnh tim mạch và cải thiện chất lượng cuộc sống cũng như giảm chi phí chăm sóc sức khỏe [34]. Ở Châu Á, trong một nghiên cứu tại Trung Quốc, người bệnh THA được quản lý, điều trị chủ yếu là tại các cơ sở y tế, thuốc điều trị được cung ứng từ 2 nguồn (do chính phủ và NB tự túc). Trong số người bệnh THA, chỉ có 44,7% biết về HA cao của mình; 28,2% dùng thuốc chống THA và chỉ có 8,1% đạt được kiểm soát HA mục tiêu trong tổng 28,2% người bệnh THA được quản lý [25]. Bệnh THA là một bệnh rất nguy hiểm nhưng kiến thức, thái độ, của người dân nói chung và của người bị THA nói riêng về bệnh này còn nhiều hạn chế và chưa được quan tâm đúng mức. Trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu tìm hiểu về kiến thức, thái độ và về bệnh THA cũng như điều trị THA nhưng chưa có nhiều nghiên cứu tìm hiểu về kiến thức của những NB về dự phòng các biến chứng của bệnh THA. Nghiên cứu của Piwonska A tại Ba Lan (2003 – 2005) tiến hành trên 6977 nam và 7792 nữ có tuổi từ 20 – 74 tuổi, cho thấy có 59% nam giới và 69% nữ giới nhận thức được bệnh của mình, các biến chứng của THA được biết đến nhiều nhất là TBMMN (58% nam, 69% nữ), nhồi máu cơ tim (60% nam, 65% nữ) và có tới 32% nam và 23% nữ không biết bất kỳ biến chứng nào của THA [17]. Mặc dù có nhiều nghiên cứu đã cho thấy kiểm soát HA có hiệu quả cũng làm giảm biến chứng của các bệnh tim mạch và tỷ lệ tử vong. Cụ thể, việc kiểm soát HA hiệu quả làm giảm 40% nguy cơ đột qụy và 15% nguy cơ nhồi máu cơ tim, nhưng tỷ lệ kiểm soát tốt HA bằng thuốc trên thế giới chỉ đạt từ 25 – 40% [9]. Đây là những kết quả còn rất hạn chế trong việc dự phòng các biến chứng và hậu quả do bệnh THA gây nên. 1.3.2. Tại Việt Nam Tại Việt Nam, THA là nguyên nhân hàng đầu gây suy tim tại cộng đồng ở người lớn, 46% NB nhồi máu cơ tim cấp được điều trị tại Viện Tim Mạch Việt Nam (2005) có liên quan đến THA và hơn 1/3 người bệnh TBMMN điều trị tại Khoa Thần Kinh, Bệnh viện Bạch Mai có nguyên nhân là THA [11]. Hầu hết các nghiên cứu về THA tập trung vào đánh giá thực trạng THA và các yếu tố nguy cơ, hoặc các nghiên cứu về tuân thủ điều trị ở người bệnh. Phần lớn các nghiên cứu về THA từ trước tới nay đều chỉ ra nhận thức của người dân trong cộng đồng về THA vẫn còn rất nhiều hạn chế và thái độ của họ với việc điều trị THA nói chung và điều trị để đạt được chỉ số HA mục tiêu còn khá thờ ơ. Một vài nghiên cứu gần đây cũng bắt đầu quan tâm đến việc phòng biến chứng và các khuyến cáo về lối sống trong sinh hoạt hàng ngày để phòng biến chứng bên cạnh việc uống thuốc điều trị THA của người bệnh. Theo nghiên cứu của Trịnh Thị Hương Giang năm 2015 tại Ninh Bình cho thấy tỷ lệ đạt kiến thức phòng biến chứng tương đối cao (82,2%). Hầu hết người bệnh biết rằng biến chứng của THA là TBMMN (98,2%) và suy tim (94,5%). Các biến chứng khác ít hơn như: Biến chứng về mạch máu (48,7%), mờ mắt (36,7%), suy thận (31,3%). Và có một NB cho rằng biến chứng của THA là gây đau nhức người (0,4%), nhưng tỷ lệ người bệnh có thực hành phòng biến chứng THA lại thấp (28,7%) [5]. Nghiên cứu khác của Nguyễn Phan Thạch năm 2015 tại Bình Định đánh giá chung về kiến thức của NB thì chỉ có 48,4% NB được trang bị kiến thức đúng về phòng biến chứng THA và vẫn còn đến hơn 50% NB là chưa đạt về kiến thức này. Trong số này tỷ lệ đạt của nam là 49,7% và của nữ là 47,4%. Đánh giá chung về thực hành của NB thì chỉ có 42% NB được trang bị kiến thức đúng về phòng biến chứng THA và vẫn còn đến 58% NB là chưa đạt về
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng