iii
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN................................................................................................................i
LỜI CAM ĐOAN.........................................................................................................ii
MỤC LỤC...................................................................................................................iii
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT...................................................................................iv
DANH MỤC BẢNG....................................................................................................v
DANH MỤC BIỂU ĐỒ, HÌNH ẢNH.........................................................................vi
ĐẶT VẤN ĐỀ...............................................................................................................1
Chương 1....................................................................................................................... 3
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN............................................................................3
1.1 Cơ sở lý luận........................................................................................................3
1.1.1 Khái niệm giáo dục sức khỏe............................................................................3
1.1.2 Tầm quan trọng của giáo dục sức khỏe............................................................ 3
1.1.3 Vai trò của giáo dục sức khỏe...........................................................................4
1.1.4 Giáo dục sức khỏe trong bệnh viện...................................................................5
1.1.5 Các phương pháp giáo dục sức khỏe................................................................ 6
1.2 Cơ sở thực tiễn..................................................................................................... 8
1.2.1 Thực trạng công tác giáo dục sức khỏe trên thế giới........................................8
1.2.2 Thực trạng công tác GDSK tại Việt Nam.........................................................9
Chương 2..................................................................................................................... 11
MÔ TẢ VẤN ĐỀ CẦN GIẢI QUYẾT.......................................................................11
2.1 Sơ lược về Bệnh viện Y học cổ truyền tỉnh Nam Định..................................... 11
2.2 Thực trạng công tác GDSK tại Bệnh viện Y học cổ truyền tỉnh Nam Định....12
2.2.1 Thông tin chung về người bệnh được lấy ý kiến............................................ 12
2.2.2 Thực trạng công tác GDSK của điều dưỡng qua ý kiến người bệnh.............14
Chương 3..................................................................................................................... 19
ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP...............................................................................19
3.1 Phân tích những ưu điểm, tồn tại và nguyên nhân.............................................19
3.1.1 Ưu điểm...........................................................................................................19
3.1.2 Tồn tại, hạn chế...............................................................................................19
3.1.3 Nguyên nhân của những ưu điểm, tồn tại....................................................... 19
3.2 Một số giải pháp.................................................................................................21
3.2.1. Đối với bệnh viện......................................................................................................... 21
3.2.2 Đối với người điều dưỡng.............................................................................. 21
iv
KẾT LUẬN.................................................................................................................22
Tài liệu tham khảo…………………………………………………………………….
Phụ lục 1: ................................................................................................................ ..
Phụ lục 2………………………………………………………………………………
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
GDSK
SK
NVYT
Giáo dục sức khỏe
Sức khỏe
Nhân viên y tế
NB
Người bệnh
ĐD
Điều dưỡng
CSSK
BV
Chăm sóc sức khỏe
Bệnh viện
DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1: Đặc điểm về tuổi, giới tính, trình độ văn hóa.........................................13
Bảng 2.2: Đặc điểm về nghề nghiệp, nơi sinh sống, số lần nằm viện.....................13
vii
DANH MỤC BIỂU ĐỒ, HÌNH ẢNH
Biểu đồ 2.1: Số lần NB được GDSK ( n=70)............................................................14
Biểu đồ 2.2: Thời điểm NB được GDSK ( n=70)......................................................15
Biểu đồ 2.3: Đánh giá của NB về hoạt động GDSK của ĐD ( n=70)......................15
Biểu đồ 2.4: Nội dung GDSK cho NB ( n=70)..........................................................16
Biểu đồ 2.5: Đánh giá của NB về kết quả của công tác GDSK ( n=70)...................17
Biểu đồ 2.6: Mức độ hài lòng của NB sau khi được GDSK ( n=70)........................17
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Giáo dục sức khỏe đã được tuyên ngôn Alma-Ata (1978) coi như giải pháp hàng
đầu để thực hiện chiến lược toàn cầu “Sức khỏe cho mọi người đến năm 2000”.
Ngành y tế Việt Nam cũng đã đưa ra GDSK vào vị trí số 1 trong số 10 nội dung chăm
sóc sức khỏe ban đầu [4].
Giáo dục sức khỏe là một bộ phận công tác y tế quan trọng nhằm làm thay đổi
hành vi sức khỏe. Nó có vai trò lớn trong việc góp phần bảo vệ và nâng cao sức khỏe
cho con người. Nếu giáo dục sức khỏe đạt hiệu quả, nó sẽ giúp làm giảm tỷ lệ mắc
bệnh, tỷ lệ tàn phế và tỷ lệ tử vong, nhất là ở các nước đang phát triển [3, 4].
Công tác giáo dục sức khỏe của điều dưỡng cho người bệnh có vai trò rất quan
trọng, để làm tốt công tác này người điều dưỡng cần có kiến thức và kỹ năng giáo
dục sức khỏe. Mặt khác, điều dưỡng chiếm số đông trong nhân lực của bệnh viện và
có nhiều thời gian chăm sóc, tiếp xúc với người bệnh trong quá trình nằm viện. Nếu
làm tốt sẽ đạt mục tiêu điều trị: Cải thiện về triệu chứng và giảm các yếu tố nguy cơ
nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống người bệnh. Số lần nhập viện đợt cấp giảm, tiết
kiệm chi phí cho điều trị. Thay đổi hành vi từ có hại sang có lợi cho sức khỏe, có kỹ
năng kiểm soát bệnh.
Giáo dục sức khỏe cho người bệnh là một trong những hoạt động của người
điều dưỡng được quy định cụ thể tại điều 6 mục 1 trong Thông tư 31/TT-BYT ngày
28/12/2021 quy định hoạt động điều dưỡng trong bệnh viện [7] và là tiêu chí thứ
52/83 tiêu chí trong bộ tiêu chí đánh giá chất lượng bệnh viện Việt Nam ban hành
kèm theo quyết định số 6858/QĐ- BYT ngày 18/11/2016 [6]
Tại Bệnh viện Y học cổ truyền tỉnh Nam Định, công tác giáo dục sức khỏe cho
người bệnh luôn được sự quan tâm chỉ đạo của Chi bộ Bệnh viện và Ban giám đốc
Bệnh viện. Tuy nhiên, kết quả đánh giá công tác điều dưỡng năm 2022 của tại Bệnh
viện cho thấy công tác giáo dục sức khỏe còn hạn chế.
Để có cơ sở khách quan giúp tăng cường hơn nữa công tác giáo dục sức khỏe
cho người bệnh, góp phần nâng cao hơn nữa chất lượng chăm sóc và phục vụ người
bệnh, chuyên đề “Thực trạng công tác giáo dục sức khỏe cho người bệnh của điều
dưỡng tại Bệnh viện Y học cổ truyền tỉnh Nam Định năm 2022” được thực hiện với
hai mục tiêu như sau:
MỤC TIÊU
1. Mô tả thực trạng công tác giáo dục sức khỏe cho người bệnh của điều
dưỡng tại Bệnh viện Y học cổ truyền tỉnh Nam Định năm 2022 qua ý kiến người
bệnh.
2. Đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng công tác giáo dục sức khỏe
cho người bệnh của điều dưỡng tại Bệnh viện Y học cổ truyền tỉnh Nam Định.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1 Cơ sở lý luận
1.1.1 Khái niệm giáo dục sức khỏe
Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) định nghĩa: Sức khỏe là trạng thái thoải mái toàn
diện về thể chất, tinh thần và xã hội và không phải chỉ bao gồm có tình trạng không
có bệnh hay thương tật [12].
Sức khỏe (SK) của con người do 4 yếu tố quyết định đó là: Di truyền, môi
trường sống, các yếu tố về dịch vụ chăm sóc sức khỏe (CSSK) và hành vi cá nhân.
Giáo dục sức khỏe (GDSK) là một quá trình tác động có mục đích, có kế hoạch vào
tình cảm và lý trí của con người nhằm làm thay đổi hành vi SK cá nhân và tập thể
trong cộng đồng [9].
GDSK là một quá trình tác động có mục đích và có kế hoạch lên tình cảm và lý
trí của con người nhằm tạo ra hành vi có lợi hoặc làm thay đổi hành vi SK (từ có hại
thành có lợi) cho cá nhân và cộng đồng
Mục đích chủ yếu của GDSK là giúp đối tượng tự nguyện, tự giác thay đổi hành
vi SK của chính mình
Theo WHO thì bản chất của GDSK là người làm việc với người để giải quyết
các vấn đề và nâng cao chất lượng cuộc sống. GDSK là một ngành khoa học xã hội
mà rút ra từ các ngành khoa học sinh học, môi trường, tâm lý, thể chất và y tế để tăng
cường SK và ngăn ngừa bệnh tật, tàn tật và tử vong sớm thông qua các hoạt động
thay đổi hành vi tự nguyện giáo dục định hướng. GDSK là sự phát triển của cá nhân,
nhóm, tổ chức, cộng đồng và các chiến lược mang tính hệ thống để nâng cao kiến
thức sức khỏe, thái độ, kỹ năng và hành vi. Mục đích của GDSK là gây ảnh hưởng
tích cực đến hành vi SK của các nhân và cộng đồng cũng như điều kiện sống và làm
việc có ảnh hưởng đến SK của họ.
1.1.2 Tầm quan trọng của giáo dục sức khỏe
GDSK là quá trình tác động nhằm thay đổi kiến thức, thái độ và thực hành của
con người. Phát triển những thực hành lành mạnh theo ý muốn, mang lại tình trạng
SK tốt nhất có thể được cho con người. GDSK cung cấp các kiến thức mới làm cho
đối tượng được giáo dục hiểu biết rõ hơn các vấn đề SK bệnh tật, từ đó họ có thể
nhận
ra các vấn đề SK bệnh tật liên quan đến bản thân, gia đình, cộng đồng họ đang sinh
sống, dẫn đến thay đổi tích cực giải quyết các vấn đề bệnh tật.
Trong các bệnh viện (BV), GDSK là một trong những nhiệm vụ quan trọng của
nhân viên y tế (NVYT) trong chăm sóc người bệnh (NB). Tất cả NVYT đều liên quan
đến việc giúp đỡ mọi người nâng cao kiến thức và kỹ năng bảo vệ SK, NVYT phải
thực hành việc GDSK trong công việc của mình. Người ĐD là một mắt xích quan
trọng trong thực hành GDSK vì họ là người gần gũi NB nhiều nhất, chăm sóc họ
trong suốt quá trình nằm viện đến khi ra viện. Bên cạnh đó, các bác sĩ lâm sàng khi
thăm khám, theo dõi điều trị cho NB cũng đồng thời tư vấn, hướng dẫn, cung cấp cho
họ những kiến thức về bệnh tật mà họ đang mắc cũng như cách phòng chống, điều trị,
tập luyện, chế độ ăn uống hợp lý để phòng bệnh, nâng cao sức khỏe [15].
Theo WHO năm 1977 thì GDSK là "Một hoạt động nhằm vào cá nhân để đưa
đến việc thay đổi hành vi". Theo Taskforce on HE, YN 1976 GDSK: “Bao gồm
những hoạt động nhằm thông tin, động viên và giúp đỡ quần chúng chấp nhận và duy
trì những hành vi có lợi cho sức khỏe”. L W Green, 1980 cho rằng GDSK: "Là sự kết
hợp toàn bộ các kinh nghiệm rèn luyện có kế hoạch nhằm thúc đẩy sự thích nghi một
cách tự nguyện những hành vi dẫn tới sức khỏe”.
Bộ Y tế năm 1993 đã nêu: “Đây là một quá trình nhằm giúp nhân dân tự thay
đổi những hành vi có hại cho SK để chấp nhận thực hiện những hành vi tăng cường
SK”.
Thông tư 31/2021/TT-BYT ngày 28/12/2021 Quy định hoạt động điều dưỡng
trong bệnh viện đã quy định rõ nhiệm vụ của điều dưỡng đối về công tác GDSK cho
NB là “…phối hợp với bác sỹ và các chức danh chuyên môn khác tư vấn, hướng dẫn
các kiến thức về bệnh, cách tự chăm sóc, theo dõi, hợp tác với nhân viên y tế trong
chăm sóc, phòng bệnh” [7].
1.1.3 Vai trò của giáo dục sức khỏe
GDSK được đánh giá là có vai trò vô cùng quan trọng trong công tác CSSK ban
đầu. Nhờ có GDSK mà tất cả mọi người dân trong cộng đồng đều có cơ hội tiếp cận
với những thông tin, những kiến thức và dịch vụ CSSK cho họ. Việt Nam là một trong
các nước đã tham dự và cam kết thực hiện các mục tiêu của Tuyên ngôn Alma-Ata về
chăm sóc sức khỏe ban đầu năm 1978. Năm 1980, Chính phủ chỉ đạo ngành Y tế triển
khai thực hiện Chiến lược CSSK ban đầu. Dưới sự chỉ đạo của Đảng, Chính phủ, với
nguyên tắc cơ bản là đảm bảo phục vụ nhân dân tốt nhất và có hiệu quả cao, các cơ
sở y tế trong ngành Y tế của nước ta đã có khả năng đáp ứng được nhu cầu CSSK
thiết yếu cho nhân dân[9]
GDSK nhằm giúp cho mọi người có kiến thức tối thiểu và cơ bản nhất để họ có
thể tự phòng bệnh cho mình, cho gia đình, người thân và cho xã hội, để họ có thể xử
trí đúng khi bị ốm đau, bệnh tật và để họ thay đổi những cách nghĩ và nếp sống có hại
cho sức khoẻ.
1.1.4 Giáo dục sức khỏe trong bệnh viện
Bệnh viện là một cơ sở y tế trong khu vực dân cư bao gồm giường bệnh, đội ngũ
cán bộ có trình độ kỹ thuật được tổ chức thành các khoa, phòng với trang thiết bị và
cơ sở hạ tẩng thích hợp để thực hiện việc chăm sóc, nuôi dưỡng cung cấp các dịch vụ
y tế cho NB. Theo Tổ chức Y tế thế giới “BV là một bộ phận không thể tách rời của
tổ chức xã hội y tế, chức năng của nó là CSSK toàn diện cho nhân dân, cả phòng bệnh
và chữa bệnh, dịch vụ ngoại trú của BV phải vươn tới gia đình và môi trường cư trú.
BV còn là trung tâm đào tạo cán bộ y tế và nghiên cứu khoa học[5]
Trong hệ thống CSSK, BV là một thành phần hết sức quan trọng. Đó là nơi tiếp
nhận điều trị các trường hợp bệnh không giải quyết được tại tuyến y tế cơ sở và còn
là nơi nghiên cứu các phương pháp CSSK mới, phù hợp. BV vừa là nơi tổ chức
GDSK cho NB vừa là nơi tập huấn, hướng trợ về chuyên môn y học cho các chương
trình GDSK. Ngoài ra, nếu BV có bộ phận GDSK chuyên nghiệp thì có thể thực hiện
các chương trình nghiên cứu thí điểm về GDSK tại cộng đồng.
GDSK trong BV được thể hiện với mục đích là cung cấp kiến thức cơ bản về
bệnh tật cho NB để giúp họ hiểu rõ các vấn đề về căn bệnh mà họ đã, đang và có nguy
cơ sẽ mắc đồng thời cung cấp những kỹ năng cần thiết trong việc phòng chống bệnh
tật cũng như nâng cao khả năng tự chăm sóc bản thân hoặc hỗ trợ, chăm sóc NB tại
BV hoặc cộng đồng. Hơn thế nữa GDSK còn tạo niềm tin và thái độ trong việc thay
đổi hành vi nhằm mục tiêu có lợi cho sức khỏe của NB và gián tiếp thông qua NB đã
được GDSK, truyền tải các thông điệp về sức khỏe tới cộng đồng.
Chức năng nhiệm vụ chính của công tác ĐD là chăm sóc NB. Để nâng cao chất
lượng chăm sóc NB và tăng cường sự hài lòng NB thì ĐD phải thực hiện tốt các
nhiệm vụ của ĐD trong Thông tư 31/2021/TT-BYT ngày 28/12/2021 quy định hoạt
động điều dưỡng trong bệnh viện. Một trong những can thiệp của ĐD là truyền
thông
GDSK: phối hợp với bác sỹ và các chức danh chuyên môn khác tư vấn, hướng dẫn
các kiến thức về bệnh, cách tự chăm sóc, theo dõi, hợp tác với nhân viên y tế trong
chăm sóc, phòng bệnh[7]. Nếu GDSK đạt hiệu quả nó sẽ giúp làm giảm tỷ lệ mắc
bệnh, tỷ lệ tàn phế và tỷ lệ tử vong.
ĐD chiếm số đông trong nhân lực của BV và có nhiều thời gian tiếp xúc với NB
từ khi mới vào viện đến khi ra viện. Do đó vai trò của GDSK trong công tác ĐD là
rất quan trọng, nếu ĐD làm tốt giúp NB thay đổi hành vi từ có hại sang có lợi, góp
phần nâng cao chất lượng chăm sóc, điều trị và tăng cường sự hài lòng NB.
Nhận thức rõ về tầm quan trọng, vai trò của GDSK trong chăm sóc NB, Bộ Y tế
đã đưa nội dung này vào tiêu chí thứ 52 trong 83 tiêu chí đánh giá chất lượng BV năm
2016: NB được GDSK khi điều trị và trước khi ra viện[6]. Người tư vấn là người giúp
đỡ NB để nhận biết và đương đầu với những stress về tâm lý hoặc những vấn đề xã
hội, để cải thiện các mối quan hệ giữa người với người để thúc đẩy sự phát triển của
mỗi người. Tư vấn liên quan tới sự hỗ trợ về tình cảm, tri thức và tâm lý. Người ĐD
tập trung vào giúp cho NB phát triển những thái độ, tình cảm và các hành vi mới hơn
là thúc đẩy sự phát triển về trí tuệ. Người ĐD khuyến khích NB tìm kiếm những hành
vi thay thế, nhận ra sự lựa chọn và xây dựng ý thức tự kiểm soát. GDSK có thể thực
hiện với một cá thể hoặc một nhóm người. GDSK đòi hỏi kỹ năng giao tiếp với NB.
Thêm vào đó, người ĐD phải có kỹ năng để phân tích tình hình, tổng hợp thông tin
và đánh giá quá trình phát triển của NB sau khi đã được tư vấn. Người ĐD phải là
một mô hình mẫu để hướng dẫn những hành vi mong muốn. Phải thể hiện sự quan
tâm đến lợi ích của người khác, phải có suy nghĩ sáng tạo và một thái độ linh hoạt và
hài hước khi tiếp xúc với các đối tượng khác nhau[5].
1.1.5 Các phương pháp giáo dục sức khỏe
* Phương pháp GDSK trực tiếp[3, 4]
Phương pháp GDSK trực tiếp là phương pháp người GDSK trực tiếp tiếp xúc
với đối tượng GDSK. Đây là phương pháp tốt nhất, tiết kiệm nhất nhưng đạt hiệu quả
cao nhất đối với cá nhân, tập thể, cộng đồng. Người GDSK có thể nhanh chóng nhận
được các thông tin phản hồi tù đối tượng giáo dục nên tính điều chỉnh cao và có hiệu
quả tốt nhất trong việc giúp đỡ đối tượng thay đổi hành vi.
Phương pháp này đỏi hỏi nhân viên GDSK phải được huấn luyện tốt về các kỹ
năng GDSK nhất là kỹ năng giao tiếp, tư vấn…..
Cách thức:
+ Tư vấn GDSK :
Là một hình thức thường được sử dụng trong GDSK, đặc biệt đối với cá nhân
và gia đình. Trong tư vấn, người tư vấn cung cấp thông tin cho đối tượng, động viên
đối tượng suy nghĩ về vấn đề và chọn các hành động riêng để giải quyết vấn đề. Tư
vấn còn hỗ trợ tâm lý cho đối tượng khi họ hoang mang, lo sợ về vấn đề sức khỏe
nghiêm trọng khi họ chưa hiểu rõ chúng
+ Nói chuyện phổ biến kiến thức y học thường thức:
Tổ chức các cuộc nói chuyện SK giúp mọi người trực tiếp được nghe những
thông tin mới nhất về các vấn đề SK liên quan tới cá nhân, gia đình và cộng đồng
nhằm giúp các đối tượng suy nghĩ và hướng tới việc thay đổi hành vi. Tuy nhiên
phương pháp này cần kết hợp các phương pháp khác và sự hỗ trợ khác
Khi tổ chức một buổi nói chuyện cần làm các việc sau:
Xác định rõ chủ đề nói chuyện và chỉ nên khu trú vào một chủ đề nhất định
Xác định đối tượng tham dư, ngày giờ, địa điểm và thông báo trước để họ chuẩn
bị tới dự( chọn thời gian và địa điểm thích hợp)
Xác định nội dung cốt lõi cần trình bày
Xác định thứ tự trình bày
Chuẩn bị các phương tiện hỗ trợ thích hợp với chủ đề và thực tế tại địa phương
Phải tôn trọng đối tượng
Xây dựng mối quan hệ với đối tượng trước khi nói chuyện
Nên sử dụng ngôn ngữ địa phương rõ ràng, mạch lạc
Cần kết hợp với tranh ảnh, mô hình và ví dụ minh họa
Cần bao quát, quan sát đối tượng để điều chỉnh, giải đáp thắc mắc đầy đủ khi
đối tượng yêu cầu
Kết thúc buổi nói chuyện cần tóm tắt những vấn đề mấu chốt nhất cho đối tượng
dễ nhớ
+ Tổ chức thảo luận nhóm:
Rất có hiệu quả trong chăm sóc sức khỏe ban đầu cũng như trong GDSK. Thảo
luận nhóm trong GDSK là ứng dụng nguyên lý “ sự tham gia của cộng đồng” trong
CSSK ban đầu. Một nhóm thảo luận tốt nhất là từ 6-10 người để tạo cơ hội cho tất cả
các thành viên có thể trình bày và thảo luận làm sáng tỏ những vấn đề chưa hiểu biết
và nêu ra các biện pháp giải quyết các vướng mắc của họ hay của cộng đồng trong đó
có họ sinh sống
* Phương pháp GDSK gián tiếp[3, 4]
GDSK gián tiếp là phương pháp giáo dục mà người giáo dục không trực tiếp
tiếp xúc với các đối tượng giáo dục, các nội dung giáo dục cần được chuyển tải qua
các phương tiện thông tin đại chúng
Phương pháp này có tác dụng tốt khi chúng ta cung cấp, truyền bá các kiến thức
thông thường về bảo vệ và tăng cường sức khỏe cho quảng đại quần chúng nhân dân
một cách có hệ thống. Đó là phương pháp hiện nay vẫn được sử dụng khá rộng rãi
trên thế giới cũng như ở nước ta hiện nay
Phương pháp này kém hiệu quả và tốn kém, đòi hỏi kỹ thuật cao để vận hành sử
dụng các phương tiện thông tin đại chúng
Các phương tiện thông tin đại chúng thường được sử dụng trong phương pháp
GDSK gián tiếp là:
-
Đài phát thanh, vô tuyến truyền hình, video
-
Tạp chí, sách báo, tranh ảnh, tranh lật, tờ rơi
-
Pano, áp phích, sách chuyên đề, sách hỏi đáp….
1.2 Cơ sở thực tiễn
1.2.1 Thực trạng công tác giáo dục sức khỏe trên thế giới
Từ cuối Thế kỷ XIX đến giữa thế kỷ XX, mục đích của Y tế công cộng là kiểm
soát được các tác hại từ các bệnh truyền nhiễm, trong đó phần lớn là dưới sự kiểm
soát trong những năm 1950. Vào giữa những năm 1970, thì việc giảm thiểu bệnh tật,
cái chết, và tăng chi phí CSSK tốt nhất có thể đạt được thông qua việc tập trung vào
nâng cao SK và phòng chống bệnh tật[1]
Tháng 9 năm 1978, tại Alma-Ata (thủ đô nước cộng hòa Kazắcstan), WHO phối
hợp với Quỹ nhi đồng Liên hiệp quốc tổ chức một hội nghị với sự tham gia của 134
quốc gia và 67 tổ chức quốc tế với nội dung về chiến lược CSSK con người cho đến
năm 2000 và GDSK vấn đề được đặt lên hàng đầu.
Trên Thế giới đã có nhiều quốc gia quan tâm đến GDSK và đưa vào chương
trình giảng dạy tại các trường học. Các quan điểm đều nêu ra: GDSK nhằm giúp mọi
người biết loại trừ và hạn chế các yếu tố tác hại đến SK và tạo nên các yếu tố nhằm
bảo vệ và tăng cường sức khỏe. GDSK không chỉ bao gồm giáo dục về phòng bệnh,
phát hiện bệnh, điều trị bệnh, phục hồi SK mà còn nhằm nâng cao SK. GDSK không
những được tiến hành cho mọi đối tượng và vì lợi ích của mọi người trong cộng đồng
xã hội, mà còn được mọi người tham gia thực hiện. Mọi người vừa là đối tượng của
GDSK vừa là người tiến phải chỉ cho các cá nhân mà cho cả tập thể cộng đồng, cho
cả người ốm và người khỏe[1].
Nghiên cứu của N. Aghakhani và các cộng sự thực hiện năm 2012 tại Pháp về
những rào cản quan trọng nhất của GDSK cho NB là tình hình làm việc của ĐD, là
kiến thức thấp của ĐD và không tìm thấy tầm quan trọng của GDSK. Về cơ sở bệnh
viện là thiếu các nguồn tài nguyên để thực hiện GDSK. Nghiên cứu cũng chỉ ra sự
tương tác giữa NB, bác sĩ, ĐD và các yếu tố hệ thống có ý nghĩa đối với việc hoàn
thiện GDSK cho NB[14].
Nghiên cứu của Amen A Ahmed Bawazir và cộng sự về sự hài lòng của NB với
các dịch vụ GDSK tại các trung tâm CSSK ban đầu tại Ả rập xê út năm 2013 cho thấy
một trong những phương pháp giảng dạy hiệu quả để GDSK cho NB là tài liệu được
in thành văn bản. Khoảng một nửa số người tham gia nghiên cứu này (44,8%) đã nhận
được tài liệu in ấn về y tế tại các trung tâm chăm sóc sức khoẻ ban đầu, và phần còn
lại nhận được các tài liệu này từ các nhà cung cấp dịch vụ y tế[13].
1.2.2 Thực trạng công tác GDSK tại Việt Nam
Tại Việt Nam, từ trước đến nay hoạt động GDSK đã được thực hiện dưới các
tên gọi khác nhau như: tuyên truyền vệ sinh phòng bệnh, tuyên truyền GDSK, giáo
dục vệ sinh phòng bệnh…[1] Các hoạt động GDSK diễn ra tại cộng đồng nơi người
dân sinh sống, tại trường học, nơi làm việc hành GDSK. Trên cơ sở này, nhiều nghiên
cứu liên quan đến GDSK cho NB đã được triển khai thực hiện.
Nghiên cứu của tác giả Bùi Thị Bích Ngà năm 2011 về thực trạng công tác chăm
sóc củA ĐD thông qua nhận xét của NB điều trị nội trú tại Bệnh viện Y học cổ truyền
Trung Ương cho thấy ĐD viên làm tương đối tốt các chức năng cơ bản như: hỗ trợ
điều trị và phối hợp thực hiện y lệnh của bác sĩ đạt 84,2%; theo dõi, đánh giá NB đạt
80,5%; tiếp đón NB đạt 78,9%; Tuy nhiên, công tác tư vấn GDSK cho NB chỉ đạt
49,6%[8]
Nghiên cứu của Dương Thị Bình Minh (2012) tại BV Hữu Nghị về thực trạng
công tác chăm sóc điều dưỡng NB tại các khoa lâm sàng, kết quả nghiên cứu cho
thấy: ĐD trực tiếp giúp NB nặng trong chăm sóc vệ sinh cá nhân chỉ chiếm
11,5%; NB
10
đánh giá được ĐD hướng dẫn giải thích chế độ ăn theo bệnh tật thì đạt tỷ lệ cao
(90,7%); Công tác chăm sóc hỗ trợ về tâm lý, tinh thần được NB đánh giá cũng chiếm
tỷ lệ cao (94,9%); ĐD thực hiện thuốc, theo dõi dùng thuốc và thực hiện các kỹ thuật
chuyên môn cũng được NB đánh giá cao trên 90%; tỷ lệ NB được GDSK chỉ đạt
66,2%[10]
Nghiên cứu của Nguyễn Thị Bích Nga (2015) tại BV Phổi Trung Ương, kết quả
cho thấy: Công tác tư vấn GDSK cho NB còn đạt ở mức khiêm tốn, chỉ có 50,2% NB
đánh giá đạt yêu cầu; 72,9% NB đánh giá được ĐD hướng dẫn cách tự theo dõi, chăm
sóc trong quá trình điều trị; 68,6% NB được ĐD hướng dẫn chế độ ăn uống trong điều
trị và sau khi ra viện; ĐD hướng dẫn NB tự phòng bệnh khi điều trị và khi ra viện là
66,2%; ĐD hướng dẫn cho NB chế độ sinh hoạt trong khi nằm điều trị và khi ra viện
đạt tỷ lệ 65,7% và 59,9% NB được ĐD hướng dẫn các phương pháp luyện tập nâng
cao sức khỏe khi ra viện[11]
Năm 2016, báo cáo tổng kết Dự án GDSK tại BV Phổi Trung Ương cho thấy:
Hoạt động tư vấn, GDSK của ĐD được NB đánh giá cao (81% NB hài lòng và rất hài
lòng). NB phản hồi được ĐD hướng dẫn theo dõi chăm sóc đạt 79,6%; hướng dẫn chế
độ ăn phù hợp đạt 83,7%; hướng dẫn chế độ sinh hoạt phù hợp đạt 86,7%; hướng dẫn
cách phòng bệnh đạt 76,5%; hướng dẫn luyện tập nâng cao sức khỏe đạt 76,5%. NB
đánh giá: ĐD tóm tắt nội dung đã tư vấn, GDSK đạt 70,4%; nêu rõ mục tiêu tư vấn,
GDSK đạt 96%; nội dung phù hợp và truyền đạt dễ hiểu đạt 98%; ĐD cảm ơn người
nghe đạt 91,8%. Tuy nhiên, vẫn còn 32,7% NB đánh giá ĐD tư vấn, GDSK không có
tài liệu/ hình ảnh minh họa[2]
11
Chương 2
MÔ TẢ VẤN ĐỀ CẦN GIẢI QUYẾT
2.1 Sơ lược về Bệnh viện Y học cổ truyền tỉnh Nam Định
Bệnh viện Y học cổ truyền tỉnh Nam Định được thành lập ngày 30/11/1965 là
bệnh viện chuyên khoa hạng III, là đơn vị sự nghiệp y tế, trực thuộc Sở Y tế Nam
Định. Là tuyến khám chữa bệnh bằng y, dược cổ truyền cao nhất của tỉnh. Có nhiệm
vụ khám bệnh, chữa bệnh cho nhân dân trong tỉnh và người dân khu vực lân cận
ngoài tỉnh khi có nhu cầu.
Với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao (Thông tư số 37/2011/TT-BYT
ngày 26/10/2011 của Bộ Y tế), bao gồm: Thực hiện khám bệnh, chữa bệnh đa khoa
và phục hồi chức năng bằng y học cổ truyền, hết hợp y học cổ truyền với y học hiện
đại; nghiên cứu khoa học, bảo tồn và phát triển y, dược cổ truyền; đào tạo, chỉ đạo
tuyến về chuyên môn kỹ thuật và là cơ sở thực hành về y, dược cổ truyền của các cơ
sở đào tạo y, dược và các đơn vị có nhu cầu; chỉ đạo tuyến; phòng, chống dịch bệnh;
công tác tuyên truyền giáo dục sức khỏe; công tác dược và vật tư y tế; công tác quản
lý bệnh viện; hợp tác quốc tế và thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khác do Giám
đốc Sở y tế giao.
Với 57 năm trưởng thành và phát triển bệnh viện y học cổ truyền tỉnh Nam Định
đã và đang được xây dựng ngày càng khang trang, sạch đẹp. Bệnh viện mới đi vào
hoạt động khu nhà điều trị 5 tầng. Bệnh viện có 04 phòng ban chức năng, 07 khoa
lâm sàng và khoa khám bệnh, khoa cận lâm sàng, khoa dược. Bệnh viện có 116 viên
chức người lao động. Trong đó có 24 bác sĩ, 14 dược sĩ, 31 điều dưỡng, 16 y sỹ, 31
các kỹ thuật viên và lao động khác. Bệnh viện được trang thiết bị với nhiều máy móc
hiện đại như hệ thống Xquang, máy đo độ loãng xương- MODEL: DEXXUML- HQ,
máy điện xung trị liệu, máy điện xung- điện phân, máy laser nội mạch, máy kéo dãn
cột sống, giàn sắc thuốc bằng hơi nước bão hòa… BV đang triển khai nhiều kỹ thuật
mới như điều trị bằng máy laser bán dẫn điều trị, điều trị bằng sóng xung kích, máy
điện châm không dùng kim…
Trong nhiều năm qua BV đã thu dung và chữa thành công cho rất nhiều NB
nặng như: NB bị bệnh di chứng liệt sau tai biến mạch máu não, sau chấn thương, sau
tai nạn lao động; các bệnh thoái hóa khớp; đau thần kinh tọa; thoát vị đĩa đệm cột
sống, liệt dây thần kinh VII ngoại biên.… Hoạt động chuyên môn khám chữa bệnh
của BV đã có nhiều khởi sắc, số NB đến khám và điều trị ngày càng tăng với 331
lượt NB ngoại trú/ năm và 4.188 NB nội trú/năm.
Toàn cảnh Bệnh viện Y học cổ truyền tỉnh Nam Định
2.2 Thực trạng công tác GDSK tại Bệnh viện Y học cổ truyền tỉnh Nam Định
Bệnh viện Y học cổ truyền tỉnh Nam Định luôn luôn quan tâm đến công tác
chăm sóc NB, đặc biệt là công tác GDSK cho NB. Công tác GDSK đã được thực hiện
nghiêm túc và là một trong những nhiệm vụ thường xuyên của ĐD, NB được ĐD tư
vấn GDSK khi vào viện, trong quá trình nằm điều trị, khi ra viện và được lồng ghép
vào các buổi họp Hội đồng người bệnh cấp khoa.
Vậy công tác GDSK cho NB của ĐD có đáp ứng được sự mong đợi của NB và
còn những tồn tại hạn chế nào cần được khắc phục.
Để có câu trả lời khách quan về vấn đề này, chúng tôi đã tiến hành lấy ý kiến
của 70 NB trước khi ra viện tại các khoa lâm sàng về công tác GDSK cho NB của ĐD
trong khoảng thời gian từ ngày 01/6/2022 đến ngày 30/06/2022, sử dụng phiếu khảo
sát ý kiến NB về công tác GDSK được thiết kế sẵn (Phụ lục 1).
Sau khi nhập phân tích số liệu chúng tôi thu được kết quả cụ thể như sau:
2.2.1 Thông tin chung về người bệnh được lấy ý kiến
Bảng 2.1 Thông tin về tuổi, giới, trình độ văn hóa (n=70)
Thông tin
Tuổi (năm)
Giới tính
Trình độ văn hóa
Số lượng
Tỷ lệ %
≤ 60
20
28,6
> 60
50
71,4
Nam
30
42,9
Nữ
40
57,1
Tiểu học
17
24,3
Trung học cơ sở
16
22,9
Trung học phổ thông
14
20,0
Trung cấp/Cao đẳng
14
20,0
Đại học
9
12,8
Sau đại học
0
0,0
Nhận xét: Bảng 2.1 cho thấy: Người bệnh đến điều trị chủ yếu là > 60 tuổi chiếm tỷ
lệ 71,4%. Nữ giới chiểm tỷ lệ cao hơn (57,1 %). NB chủ yếu có trình độ tiểu học,
trung học cơ sở, trung học phổ thông và trung cấp cao đẳng, không có người bệnh nào
có trình độ sau đại học.
Bảng 2.2 Đặc điểm về nghề nghiệp, nơi sinh sống, số lần nằm viện (n=70)
Thông tin
Nghề nghiệp
Nơi sinh sống
Số lần vào viện
Số lượng
Tỷ lệ %
Nông dân
25
35,7
Công nhân
10
14,3
Công chức, viên chức
01
1,4
Hưu trí
25
35,7
Khác
9
12,9
Thành thị
32
45,7
Nông thôn
38
54,3
01 lần
32
45,7
02 lần
14
20,0
03 lần
8
11,4
Nhiều hơn 3 lần
16
22,9
Nhận xét: Bảng 2.2 cho thấy: Nghề nghiệp của NB chủ yếu là nông dân và hưu trí
chiếm tỷ lệ 35,7%, công chức viên chức chỉ có 1,4%; NB đến từ nông thôn chiếm tỷ
14
lệ cao hơn (54,3%); Phần lớn người bệnh (45,7%) được lấy ý kến là người bệnh điều
trị lần đầu tại Bệnh viện.
2.2.2 Thực trạng công tác GDSK của điều dưỡng qua ý kiến người bệnh
-
Về số lần người bệnh được điều dưỡng GDSK
4.300%
7.100%
21.400%
67.100%
1 lầần
2 lầần
3 lầần
Nhiềầu hơn 3 lầần
Biểu đồ 2.1: Số lần người bệnh được điều dưỡng giáo dục sức khỏe (n=70)
Nhận xét: Biểu đồ 2.1 cho thấy: tất cả 70 người bệnh đều cho biết đã được điều
dưỡng GDSK trong thời gian nằm viện. Trong đó, NB được GDSK 3 lần chiếm tỷ lệ
cao nhất chiếm 67,1%, tiếp đến là được GDSK 2 lần trong thời gian nằm viện chiếm
21,4% và còn 7,1% người bệnh chỉ được GDSK 1 lần cho đến trước khi ra viện. một
số lượng nhỏ người bệnh (4,3%) cho biết được GDSK nhiều hơn 3 lần.
Thực tiễn cho thấy để đảm bảo người bệnh có kiến thức đúng và đầy đủ, GDSK
1 lần là chưa đủ mà phải được thực hiện thường xuyên, nhiều lần. Kết quả trên cho
thấy công tác GDSK cho NB của ĐD cần được thực hiện đầy đủ hơn nữa và cần có
sự kiểm tra, giám sát và đôn đốc thực hiện.
- Về thời điểm người bệnh được điều dưỡng GDSK
15
7.200%
11.400%
Khi vào viện
Trong khi điềầu trị
11.400%
Trước khi ra viện
Cả 3 thời điểm
70.000%
Biểu đồ 2.2: Thời điểm NB được GDSK (n=70)
Nhận xét: Biểu đồ 2.2 cho thấy: 70% NB được ĐD GDSK ở cả 3 thời điểm (khi vào
viện, trong khi điều trị, trước khi ra viện). Số người bệnh còn lại chỉ được GDSK ở
một trong các thời điểm của quá trình nằm viện.
- Về chủ đề và hình thức truyền đạt của điều dưỡng
100%
1.400%
90%
25.700%
80%
70%
60%
50%
100.000%
100.000%
Truyềần đạt dềễ hiểu
Cảm ơn khi kềết thúc
98.600%
40%
74.300%
30%
20%
10%
0%
Chủ đềầ phù hợp
Tài liệu minh họa
Có
Không
Biểu đồ 2.3: Đánh giá của NB về nội dung và hình thức GDSK của ĐD (n=70)
- Xem thêm -