ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------
PHẠM THU NGA
THƠ BÀ HUYỆN THANH QUAN TRONG TIẾN
TRÌNH THƠ NÔM ĐƢỜNG LUẬT VIỆT NAM
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam
Hà Nội-2014
1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------
PHẠM THU NGA
THƠ BÀ HUYỆN THANH QUAN TRONG TIẾN
TRÌNH THƠ NÔM ĐƢỜNG LUẬT VIỆT NAM
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 01 21
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS. Trần Ngọc Vƣơng
Hà Nội-2014
2
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, dưới sự
hướng dẫn khoa học của Giáo sư – Tiến sỹ Trần Ngọc Vương. Đề tài không
trùng lặp với bất cứ công trình khoa học nào. Những vấn đề trình bày trong luận
văn này là kết quả do chúng tôi nghiên cứu, bảo đảm tính trung thực. Tôi xin
hoàn toàn chịu trách nhiệm trước những luận điểm khoa học nêu ra trong công
trình này.
Tác giả luận văn
Phạm Thu Nga
3
LỜI CẢM ƠN
Em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc tới GS.TS Trần
Ngọc Vương, người đã tận tình chỉ bảo, hướng dẫn em trong quá trình học
tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Em chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong bộ môn Văn học Việt
Nam và Khoa Văn học, Phòng quản lí khoa học trường Đại học Khoa học
Xã hội và Nhân văn đã tạo điều kiện thuận lợi và giúp đỡ em trong quá
trình học tập và nghiên cứu.
Cảm ơn gia đình, bạn bè đã tạo diều kiện động viên, giúp đỡ tôi trong
suốt thời gian qua.
Hà Nội, tháng 12 năm 2014
Người viết
Phạm Thu Nga
4
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 7
1. Lý do chọn đề tài ......................................................................................... 7
2. Mục đích và phạm vi nghiên cứu ............................................................... 7
3. Lịch sử vấn đề .............................................................................................. 8
4. Phƣơng pháp nghiên cứu.......................................................................... 13
5. Cấu trúc luận văn ...................................................................................... 13
Chƣơng 1: KHÁI QUÁT TIẾN TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA THƠ NÔM
ĐƢỜNG LUẬT VIỆT NAM ........................................................................ 15
1.1. Khái niệm thơ Nôm Đƣờng luật ........................................................... 15
1.2. Điều kiện hình thành và phát triển của thơ Nôm Đƣờng luật ........... 16
1.2.1. Về ngôn ngữ và thể loại ....................................................................... 16
1.2.2. Tiền đề văn hóa tư tưởng ..................................................................... 19
1.3. Tiến trình phát triển của thơ Nôm Đƣờng luật................................... 20
1.3.1. Giai đoạn hình thành. .......................................................................... 21
1.3.2. Giai đoạn phát triển ............................................................................. 21
1.3.3. Giai đoạn phát triển ở đỉnh cao ........................................................... 24
Chƣơng 2: ĐÓNG GÓP CỦA THƠ BÀ HUYỆN THANH QUAN
TRONG TIẾN TRÌNH THƠ NÔM ĐƢỜNG LUẬT VIỆT NAM VỀ
PHƢƠNG DIỆN NỘI DUNG....................................................................... 28
2.1. Bà Huyện Thanh Quan – con ngƣời và di văn .................................... 28
2.1.1. Con người và cuộc đời. ........................................................................ 28
2.1.2. Vấn đề văn bản thơ Bà Huyện Thanh Quan. .................................... 36
2.2. Thơ Bà Huyện Thanh Quan trong tiến trình thơ Nôm Đƣờng luật
Việt Nam......................................................................................................... 43
2.2.1. Về hệ thống chủ đề - đề tài .................................................................. 43
2.2.2. Về cảm hứng chủ đạo và hình tượng cơ bản...................................... 57
5
Chƣơng 3: ĐÓNG GÓP CỦA THƠ BÀ HUYỆN THANH QUAN
TRONG TIẾN TRÌNH THƠ NÔM ĐƢỜNG LUẬT VIỆT NAM VỀ
PHƢƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT ................................................................ 72
3.1. Về hệ thống ngôn ngữ nghệ thuật .......................................................... 72
3.1.1. Hệ thống ngôn ngữ gần với Đường thi ............................................... 72
3.1.2. Hệ thống ngôn ngữ dân tộc ................................................................. 77
3.2. Về hệ thống kết cấu Đƣờng luật và nhịp điệu thơ. ............................. 79
3.2.1. Hệ thống kết cấu Đường luật. ............................................................. 79
3.2.2. Nhịp điệu thơ ........................................................................................ 91
KẾT LUẬN .................................................................................................... 96
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 99
6
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Từ lâu, Đường Thi vẫn được coi là thành tựu tiêu biểu của thơ ca cổ điển
Trung Quốc. Ảnh hưởng của thơ Đường rộng khắp các nền văn hóa Đông Á,
trong đó có Việt Nam. Có người cho rằng người Việt bắt chước làm thơ Đường
giống như người Trung Hoa đã làm bởi ở Việt Nam thời xưa, thông qua thi cử
mọi nhà Nho đều có thể làm thơ Đường luật. Thật ra khi tiếp nhận, các nhà thơ
Việt đã chuyển hóa nó thành của riêng mình, nghĩa là tiếp nhận với tinh thần độc
lập, sáng tạo, làm cho thơ Nôm Đường luật thấm đượm tinh thần dân tộc.
Nghiên cứu thơ Nôm Đường luật, trong hoàn cảnh hiện nay, khi mà việc bảo tồn,
chấn hưng, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc là hết sức cấp thiết, lại trở thành
quan trọng.
Bà Huyện Thanh Quan được đánh giá là một trong những thi sĩ làm thơ
Nôm Đường luật hay nhất ở Việt Nam. Đã có không ít bài viết về Bà Huyện
Thanh Quan và thơ ca của bà, nhưng mỗi người lại đánh giá theo một cách khác
nhau, đồng thời, vẫn thiếu những công trình nghiên cứu chuyên sâu về nữ tác gia
này. Với đề tài này, chúng tôi hi vọng sẽ làm nổi bật được vẻ đẹp cũng như đóng
góp của thơ Bà Huyện Thanh Quan trong lịch sử văn học nói chung và với thơ
Nôm Đường luật nói riêng.
2. Mục đích và phạm vi nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn hướng vào giải quyết những vấn đề sau:
- Tìm hiểu vị trí của thơ bà Huyện Thanh Quan trong tiến trình thơ Nôm
Đường luật cũng như trong thơ ca trung đại
- Những thành tựu và đóng góp của bà Huyện Thanh Quan vào sự phát
triển của thơ Nôm Đường luật và văn học dân tộc
7
2.2. Phạm vi nghiên cứu
Do vấn đề tác quyền của một số văn bản thơ bà Huyện Thanh Quan vẫn
chưa được thống nhất nên việc giới hạn phạm vi nghiên cứu cũng chỉ ở mức độ
tương đối. Chúng tôi quyết định nghiên cứu tất cả những bài thơ được coi là của
Bà Huyện Thanh Quan. Về sách chữ Nôm chúng tôi lựa chọn cuốn Quốc văn
tùng kí. Cuốn sách này do Nguyễn Văn San, hiệu là Hải Châu Tử, người xã Đa
Ngưu, huyện Văn Giang (tỉnh Hải Hưng trước đây) - một nhà sưu tầm sống vào
khoảng thời Tự Đức (1848-1833) biên soạn. Trong cuốn sách này ông cho biết
Bà Huyện Thanh Quan để lại 6 bài thơ. Về sách quốc ngữ chúng tôi lựa chọn hai
cuốn: Văn đàn bảo giám do Trần Trung Viên biên soạn (theo cuốn sách này thì
Bà Huyện Thanh Quan còn lại bảy bài thơ, hai đôi câu đối) và cuốn Hợp tuyển
thơ văn Việt Nam tập III, NXB Văn học, Hà Nội, 1978 mà ở đây các soạn giả
cho biết nữ sĩ có sáu bài thơ Nôm Đường luật.
3. Lịch sử vấn đề
3.1. Vấn đề thơ Nôm Đƣờng luật
Đây không phải là một vấn đề xa lạ vì đã có nhiều công trình nghiên cứu
về sự hình thành và phát triển của thể loại văn học có truyền thống lâu đời này.
Theo dõi lịch sử của việc nghiên cứu thơ Nôm Đường luật, chúng tôi nhận thấy
có ba hướng chính :
- Nghiên cứu thơ Nôm Đường luật trong quá trình nghiên cứu chung về
nền văn chương chữ Nôm.
- Nghiên cứu thơ Nôm Đường luật như là bộ phận trong mối liên quan với
tổng thể là tác phẩm, tác giả.
- Nghiên cứu thơ Nôm Đường luật trong sự giao lưu với văn học Trung
Quốc.
3.1.1. Nghiên cứu thơ Nôm Đường luật trong quá trình nghiên cứu
chung về nền văn chương chữ Nôm.
Vào đầu thế kỷ XX, có cuốn Quốc văn tùng ký, do Nguyễn Văn San, hiệu
Hải Châu Tử biên soạn bằng chữ Nôm. Ông đã tập hợp và phân loại thơ văn,
trong đó có thơ Nôm Đường luật. Khi nói về các sáng tác Nôm, ông có nhận xét
8
“Ấy là lối văn chương nước ta, non sông tinh tú vẽ ra biết bao nhiêu nhân tài chứ
không đâu được thế vậy”. Vào những năm cuối thập kỷ thứ hai, Đông Châu
Nguyễn Hữu Tiến (1875 - 1941) biên soạn Cổ xúy nguyên âm, quyển 1 năm
1916 và quyển 2 năm 1918. Trong lời Tựa, ông viết “lối văn chương Nôm nước
mình (...) thể cách cũng chẳng khác chi văn Tàu mà lại có lối đặc biệt riêng của
ta vậy” [69, 13]. Cũng năm 1918, Phan Kế Bính (1875 - 1921) viết Việt Hán văn
khảo. Đây là “công trình nghiên cứu, biên khảo và dịch thuật có giá trị về nghệ
thuật văn chương(...) gồm 8 tiết, trong đó dành 5 tiết để nghiên cứu nguồn gốc,
nguyên lý văn chương, các thể loại văn học và(...)” [85-II, 19]. Năm 1943, cuốn
Việt Nam văn học sử yếu của Dương Quảng Hàm xuất hiện lần đầu. Trong công
trình này, tác giả có đề cập đến các thể văn. Ông nhận định về thơ Đường luật
như sau: “Thơ Nôm ta làm theo phép tắc thơ tàu, mà âm thanh tiếng ta cũng
tương tự tiếng Tàu (cũng là thứ tiếng đan âm và cũng chia làm tiếng bằng tiếng
trắc) nên thi pháp của ta tức là thi pháp của Tàu và các niêm luật của thơ ta cũng
phỏng theo thơ Tàu cả” [16, 122]. Rõ ràng cách nhìn của tác giả là có hạn chế.
Tuy nhiên, từ sự phân tích, tác giả cũng đã rút được một số kết luận quan trọng,
chẳng hạn “Văn Nôm của ta về thế kỷ thứ XIX, so với trước, thật có tiến bộ
nhiều (...) các thể thơ, hát nói, song thất, lục bát đều có phần khởi sắc và các văn
sĩ ta đã nhiều khi thoát ly cái ảnh hưởng của thơ văn Tàu mà diễn đạt tư tưởng,
tính tình một cách thành thực để sáng tạo một nền văn đặc biệt của dân tộc ta”
[16, 399]. Năm 1953, Thanh Lãng viết Văn chương chữ Nôm, ông đã chia quá
trình phát triển của văn chương chữ Nôm ra làm ba thời kỳ là khá hợp lý: phôi
thai thời đại (1225 - 1430), phát đạt thời đại (1430 - 1750) và toàn thịnh thời đại
(1750 - 1900). Tuy nhiên, trong cái nhìn của tác giả dường như chưa nhìn thấy vị
trí xứng đáng của thơ Nôm bên cạnh truyện Nôm. Nhìn chung những công trình
trên chỉ vận dụng thi luật học Trung Quốc để tìm hiểu thơ Nôm Đường luật.
3.1.2. Nghiên cứu thơ Nôm Đường luật như là bộ phận trong mối liên
quan với tổng thể là tác phẩm, tác giả
Hướng nghiên cứu này góp phần khám phá về thơ Nôm và cả thơ Hán luật
Đường như chuyên khảo Thi hào Nguyễn Khuyến, đời và thơ do Nguyễn Huệ
9
Chi chủ biên. Lê Chí Dũng trong bài viết Sáng tạo trong thơ Đường luật đã
khẳng định “Trong thơ Nôm Nguyễn Khuyến, về mặt thể tài, nhà thơ thành công
cả trong thơ luật Đường, cả trong thơ lục bát, song thất lục bát, hát nói và câu
đối, nhưng thơ luật Đường quả đã có vị trí nổi bật, xét về phương diện đặc trưng
cho phong cách của ông cũng như mặt thống kê định lượng” [4, 268]. Trong
cuốn sách Tính cách Việt Nam trong thơ Nôm luật Đường, Lê Chí Dũng cũng
khẳng định: “Tài năng của Nguyễn Khuyến là ở chỗ ông chiếm lĩnh được thơ
Đường luật, chiếm lĩnh được quan niệm “thi trung hữu họa”, chiếm lĩnh được
khả năng đạt tới đỉnh cao trong sự hòa trộn tài tình hình ảnh sự vật khách quan
và tình cảm gắn bó với quê hương đất nước” [8, 107]. Trong chuyên đề sau đại
học Thơ Hồ Xuân Hương, Lê Trí Viễn đã chỉ ra 7 phong cách Xuân Hương trong
phong cách thể loại xét từ cấp độ xây dựng hình tượng với cả một hệ thống ngôn
ngữ tương ứng và từ phương diện cấu trúc của thể thơ. Đặng Thanh Lê cũng đã
đặt những bài thơ Hồ Xuân Hương trong sự phát triển của dòng thơ Nôm Đường
luật, phác họa một số nét cơ bản trong sự vận động của thể loại, đồng thời nêu
bật những đóng góp của Hồ Xuân Hương về cảm hứng và bút pháp nghệ thuật.
Dựa vào quan điểm thi pháp học của Jakobson, Đỗ Đức Hiểu đã tìm hiểu ý nghĩa
thơ Nôm Đường luật của Hồ Xuân Hương từ cấu trúc biểu đạt trong bài Thế giới
thơ Nôm Hồ Xuân Hương và ông kết luận “Hồ Xuân Hương sáng tạo một phong
cách thơ Đường luật mới” [22, 87]. Nhìn chung những công trình này có nhiều
gợi ý đáng kể cho luận văn của chúng tôi.
3.1.3. Nghiên cứu thơ Nôm Đường luật trong sự giao lưu với văn học
Trung Quốc
Hướng nghiên cứu này thường sử dụng thao tác so sánh với Đường thi
hoặc văn học, văn hóa Trung Quốc để tìm ra những nét đặc thù dân tộc. Bài viết
sớm nhất có lẽ là bài Mối quan hệ mật thiết giữa văn học Việt Nam và văn học
Trung Quốc của Đặng Thai Mai. Ông cho rằng “Ngay trong lúc họ vận dụng thể
văn và văn tự Trung Quốc để biểu hiện tình cảm và tư tưởng của họ, nhiều nhà
thơ chúng ta vẫn luôn luôn cố gắng bảo vệ đặc sắc của dân tộc và cá tính của con
người sáng tác”. Tuy nhiên, ông đã không chỉ ra chỗ đặc sắc, nét riêng ấy, lại
10
cho rằng: “Trong các thể loại vay mượn của Trung Quốc thì thơ ca(...) thơ
Đường luật thất ngôn, ngũ ngôn(...) trong lối thơ ca trữ tình, thi sĩ cổ điển ta vẫn
khai thác bấy nhiêu long mạch: tình yêu thiên nhiên, tình yêu người yêu bè bạn,
vợ con và nhất là tình yêu nước” [43, 11]. Năm 1973, Trương Chính có bài viết
Cha ông ta đã vận dụng các thể loại văn học Trung quốc như thế nào vào thơ
Nôm? Ông viết: “Cha ông chúng ta khi chuyển sang sáng tác bằng chữ Nôm,
đồng thời muốn cởi xiềng xích ra, bắt đầu từ Hàn Thuyên” [6, 3]. Khi đối chiếu
hiện tượng thất ngôn xen lục ngôn ở thơ Nôm Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông,
Nguyễn Bỉnh Khiêm với thể Đường thi ở Trung Quốc, ông cho biết Trung Quốc
“không có thể câu bảy từ xen câu sáu từ hoặc câu sáu từ xen câu bảy từ” và theo
ông thì hiện tượng này của thơ Việt Nam “chắc đó là một thể loại mới do cha
ông chúng ta tạo ra trên cơ sở câu thất ngôn, trong lúc niêm luật, đối, gieo vần
theo luật Đường" [6, 4]. Mãi cho đến năm 1991, tại Hội thảo khoa học Nghiên
cứu văn học cổ trung đại Việt Nam trong mối quan hệ khu vực, Nguyễn Huệ Chi
đã nhấn mạnh vấn đề “cố gắng tìm ra những nét nghĩa khu biệt giữa thơ Đường
luật dân tộc với thơ Đường” và khẳng định vai trò quan trọng của những công
trình nghiên cứu này “nếu có thể cùng nhau góp sức tìm ra một lời giải đáp
chung: như thế nào là mã thơ Đường Việt Nam (...) thì mọi sự mắc míu về thi
pháp thể loại thơ cổ chắc sẽ khai thông dễ dàng” [89, 22]. Tại hội thảo, Bùi Duy
Tân có bài Mối quan hệ về thể loại giữa văn học Trung Quốc và văn học Việt
Nam rung đại: tiếp nhận - cách tân - sáng tạo và cho rằng “Những thể loại ngoại
nhập mà được viết bằng chữ Nôm thì sự Việt hóa dễ được tăng trưởng”. Năm
1993, trong luận án PTS Thơ Nôm Đường luật từ Quốc âm thi tập của Nguyễn
Trãi đến thơ Hồ Xuân Hương, Lã Nhâm Thìn đã nghiên cứu thơ Nôm Đường
luật như một thể loại quan trọng trong hệ thống thể loại văn học trung đại Việt
Nam và kết luận “Có thể thấy bội số chung nhỏ nhất của các yếu tố cấu thành
thơ Nôm Đường luật là tính chất đời thường, sự giản dị, tinh thần tự do và xu
hướng tâm trạng hóa. Nói một cách khái quát và ngắn gọn, mã của thơ Nôm
Đường luật được xác định bởi tính chất Nôm của thể loại” [69, 142-143].
11
3.2. Vấn đề thơ Bà Huyện Thanh Quan
Bà Huyện Thanh Quan được khẳng định là một trong những thi sĩ làm thơ
luật Đường hay nhất trong văn chương Việt Nam. Với một tài năng như vậy, hẳn
không thể thiếu những nghiên cứu về thơ của nữ sĩ này. Dương Quảng Hàm
trong Việt Nam văn học sử yếu cho rằng “những bài thơ Nôm của bà phần nhiều
là tả cảnh, tả tình nhưng bài nào cũng hay và tỏ ra bà là người có tính tình đoan
chính, thanh tao, một người có học thức thường nghĩ ngợi đến nhà, đến nước.
Lời văn rất trang nhã, điêu luyện” [18, 396 – 397], Thanh Lãng trong Bản lược
đồ văn học Việt Nam cũng cho rằng: “Thơ bà Huyện Thanh Quan đầy chất thơ.
Lời thơ của bà điêu luyện, gọt giũa, đẹp như một bức tranh cổ”. Ngoài những
nhận xét mang tính khái quát trong những công trình trên, cũng có một số công
trình chuyên sâu hơn về cuộc đời, con người và thơ văn Bà Huyện Thanh Quan
như các cuốn: Bà Huyện Thanh Quan, Đoàn Thị Điểm, Nguyễn Gia Thiều:
Tuyển chọn và trích dẫn những bài phê bình, bình luận văn học của các nhà văn,
nghiên cứu Việt Nam và thế giới, NXB Tổng hợp Khánh Hòa, 1991 của Vũ Tiến
Quỳnh – Khánh Hòa; Người đẹp Nghi Tàm: Cuộc đời và thơ bà Huyện Thanh
Quan, NXB Giáo dục, 1995 của Bội Tỉnh; Bà Huyện Thanh Quan, Nguyên Gia
Thiều, Đặng Trần Côn, Phan Huy Ích, NXB Văn nghệ Tp. Hồ Chí Minh, 1997
của Hồ Sĩ Hiệp; Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh Quan, Sương Nguyệt Anh:
Tuyển chọn và trích dẫn những bài phê bình – bình luận văn học của các nhà
văn, nhà nghiên cứu Việt Nam, NXB Văn nghệ Tp. Hồ Chí Minh, 1999 của Vũ
Tiến Quỳnh…Các công trình trên hầu hết là hợp tuyển những bài phê bình, bình
luận của các nhà nghiên cứu văn học liên quan đến sáng tác thơ Bà Huyện Thanh
Quan.
Ở Tạp chí Nghiên cứu văn học, chúng tôi tìm thấy 4 bài nghiên cứu về thơ
bà Huyện Thanh Quan, đó là: Thử tìm tên thật của Bà Huyện Thanh Quan, Tạp
chí Nghiên cứu văn học, số 12 (36), tháng 12/1962 của Bùi Văn Nguyên; Góp
thêm tài liệu về tiểu sử và thơ văn Bà Huyện Thanh Quan, Tạp chí Nghiên cứu
văn học, số 10(70), tháng 10/1965 của tác giả Tảo Trang; Thơ Bà Huyện Thanh
Quan – niềm vui và nỗi buồn, Tạp chí Nghiên cứu văn học, Số 1(247), tháng
12
1&2/1991 của tác giả Trần Thị Băng Thanh; Về bài thơ “Qua Đèo Ngang” – các
dị bản, các vấn đề, Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 4(386), tháng 4/2004 của tác
giả Nguyễn Hùng Vĩ.
Là một trong số ít những tác giả nữ Hán Nôm Việt Nam, thơ Bà Huyện
Thanh Quan nhận được không ít sự quan tâm từ các nhà nghiên cứu văn học
cũng như những người yêu thơ Đường luật. Tuy nhiên do sự tìm kiếm còn hạn
chế nên chúng tôi chưa tìm thấy công trình nghiên cứu mang tính tổng quát nhất
về thơ bà. Có thể nói, việc nghiên cứu đóng góp của thơ bà trong tiến trình phát
triển của thơ Nôm Đường luật với tư cách một công trình chuyên sâu vẫn chưa
được chú ý một cách đúng mức. Với luận văn này, chúng tôi sẽ bước đầu thực
hiện công việc đó.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp hệ thống và phương pháp cấu trúc: là hai phương pháp
được vận dụng để nghiên cứu, phân tích hệ thống đề tài – chủ đề, ngôn ngữ, nhịp
thơ và bố cục một bài thơ.
- Phương pháp liên ngành: liên ngành ngôn ngữ và văn học để khảo sát hệ
thống ngôn ngữ
- Ngoài ra chúng tôi cũng sử dụng phương pháp lịch sử - xã hội, phương
pháp tiểu sử, phương pháp tiếp cận văn hoá học kết hợp với các thao tác:
+ Thống kê, phân tích, tổng hợp những khía cạnh độc đáo về nội dung và
nghệ thuật thơ Bà Huyện Thanh Quan
+ Đối chiếu, so sánh thơ Bà Huyện Thanh Quan với thơ văn của các tác
giả khác nhằm mục đích cuối cùng là rút ra những đóng góp của tác giả.
5. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phần nội dung của luận văn được cấu trúc
thành ba chương:
Chương một: Khái quát tiến trình phát triển của thơ Nôm Đường luật ở
Việt Nam
13
Chương hai: Đóng góp của thơ Bà Huyện Thanh Quan trong tiến trình thơ
Nôm Đường luật về phương diện nội dung.
Chương ba: Đóng góp của thơ Bà Huyện Thanh Quan trong tiến trình thơ
Nôm Đường luật về phương diện nghệ thuật.
14
Chƣơng 1: KHÁI QUÁT TIẾN TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA THƠ NÔM
ĐƢỜNG LUẬT VIỆT NAM
1.1. Khái niệm thơ Nôm Đƣờng luật
Thơ Nôm Đường luật là một trong những thể loại có lịch sử lâu dài, số
lượng tác giả sáng tác nhiều vào bậc nhất của văn học Việt Nam. Đó là thể loại
tiếp thu từ nước ngoài nhưng trong quá trình phát triển lại trở thành thể loại văn
học dân tộc, với chức năng thẩm mĩ mới, mang đặc trưng, bản chất riêng của thể
loại. Không những thế thơ Nôm Đường luật cũng là một trong những thể loại có
thành tựu lớn trong nền văn học dân tộc, với nhiều tác phẩm nổi tiếng của các
cây bút tên tuổi như Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi, Hồng Đức quốc âm thi
tập của Lê Thánh Tông cùng các tác giả thời Hồng Đức, Bạch Vân quốc ngữ thi
tập của Nguyễn Bỉnh Khiêm, thơ Hồ Xuân Hương, thơ Bà Huyện Thanh Quan,
thơ Nôm Nguyễn Khuyến, thơ Tú Xương…Thơ Nôm Đường luật có vị trí quan
trọng trong lịch sử văn học dân tộc. Nắm được bản chất của thơ Nôm Đường luật
giúp ta có được chiếc chìa khóa để tìm hiểu những sáng tác nằm trong phạm vi
thể loại này.
Xung quanh khái niệm thơ Nôm Đường luật đã từng có nhiều quan niệm
khác nhau. “Có ý kiến cho rằng chỉ gọi là thơ Nôm Đường luật đối với những
bài thơ Nôm viết theo thể luật Đường hoàn chỉnh. Đã gọi là “luật” thì không thể
chấp nhận việc xen câu thơ năm chữ hoặc sáu chữ vào bài thơ thất ngôn tứ tuyệt
hay thất ngôn bát cú. Tuy nhiên cũng có ý kiến cho rằng thơ Nôm Đường luật là
bao hàm cả những bài thơ viết bằng chữ Nôm theo thể Đường luật hoàn chỉnh và
những bài viết theo thơ Đường luật phá cách – những bài thơ thất ngôn có xen
câu ngũ ngôn hoặc lục ngôn. Bởi tuy bài thơ có phá cách nhưng những “luật” cơ
bản nhất của Đường luật vẫn được giữ vững” (Lã Nhâm Thìn, [80, 650]). Về tên
gọi, để chỉ những bài thơ chữ Nôm làm theo quy tắc của thể thơ Đường luật có
xen câu lục ngôn, các nhà nghiên cứu có những cách gọi: thể thất ngôn xen lục
ngôn (Bùi Văn Nguyên), thơ Nôm Đường luật biến thể (Lã Nhâm Thìn)…Tên
gọi thơ Nôm Đường luật có thể ra đời từ khi văn học Việt Nam xuất hiện những
15
bài thơ Đường luật viết bằng chữ quốc ngữ để phân biệt hai thể thơ Đường luật
cùng viết bằng Tiếng Việt.
Trong luận văn này, khái niệm thơ Nôm Đường luật được hiểu là những
bài thơ viết bằng chữ Nôm theo luật Đường hoàn chỉnh và cả những bài viết theo
thơ Đường luật phá cách – những bài có xen câu ngũ ngôn, lục ngôn vào bài thơ
thất ngôn.
1.2. Điều kiện hình thành và phát triển của thơ Nôm Đƣờng luật
Sự xuất hiện văn học chữ Nôm nói chung và thơ Nôm Đường luật nói
riêng là bước nhảy vọt của quá trình văn học, đồng thời thể hiện tinh thần tự lập
tự cường về mặt văn hóa của dân tộc Việt Nam trong tương quan với văn học,
văn hóa Trung Quốc. Tuy nhiên, để tạo nên một diện mạo mới cho thơ Đường
luật ở nước ta là cả một quá trình, vừa kế thừa Đường luật Hán, vừa tiếp biến và
sáng tạo theo tinh thần dân tộc hóa, dân chủ hóa thể loại.
1.2.1. Về ngôn ngữ và thể loại
“Đối với một dân tộc, trên con đường tiến lên của lịch sử nói chung, của
nền văn hóa nói riêng, bao giờ sự xuất hiện của văn tự cũng được coi như là một
cái mốc có tầm quan trọng đáng kể và có tác dụng khá quyết định. Đặc biệt, nếu
nó là một văn tự chuyên dùng để ghi tiếng nói dân tộc thì lại càng có ý nghĩa”1.
Bởi vậy, một trong những tiền đề quan trọng đưa đến sự ra đời của thơ Nôm
Đường luật đó là sự xuất hiện chữ Nôm – văn tự riêng của người Việt Nam thời
trung đại.
Có trước trong nền văn học thành văn ở nước ta là văn học viết bằng chữ
Hán, do tầng lớp trí thức phong kiến dùng để viết tác phẩm và hầu hết được viết
theo các thể loại văn học Trung Quốc. Văn học chữ Hán, trong đó có Đường luật
Hán có phạm vi đề tài rộng từ những vấn đề chung của dân tộc đến những vấn đề
riêng của con người. Tuy nhiên, vì viết bằng chữ Hán nên những tác phẩm này bị
hạn chế trong việc phản ánh hiện thực sinh động và cụ thể của đất nước Việt,
1
Dẫn theo Trần Quang Dũng [9, 1]
16
tâm tư sâu xa, thầm kín của con người Việt. Đây là thực tế bức xúc của nền văn
học viết dân tộc, là một đòi hỏi thiết thực trong xu thế tiến lên của xã hội, của
nhu cầu giao lưu văn hóa – văn học và thưởng thức thẩm mĩ, là khoảng trống mà
văn học viết chữ Hán không thể lấp đầy. Đó là những tiền đề và động lực quan
trọng cho sự ra đời dòng văn học Tiếng Việt (văn học viết bằng chữ Nôm) vào
thế kỉ XIII, trong đó có thơ Nôm Đường luật.
Trước thế kỉ X, chữ Nôm chưa thực sự xuất hiện với tư cách là một hệ
thống văn tự. Bởi lẽ “chưa thấy có vết tích nào chứng tỏ là đã có cách viết Nôm
các hư từ. Chưa có cách viết hư từ thì nhất định chưa thể viết được những câu
hoàn toàn Nôm thực sự”, “chỉ từ cuối thế kỉ X trở đi thì chữ Nôm với tư cách là
một hệ thống văn tự thực thụ mới dần dần hình thành. Thế kỉ XI, XII nó tiếp tục
phát triển, tự hoàn chỉnh thêm và ngày càng trưởng thành. Cuối cùng, đến giữa
thế kỉ XIII thì về cơ bản nó đã được khẳng định thực sự” [3, 35]. Sự xuất hiện
chữ Nôm là mốc văn hóa lớn trong lịch sử văn minh của nhà nước phong kiến
Đại Việt. Là văn tự ghi tiếng nói dân tộc nên ngay sau khi ra đời, chữ Nôm đã
phục vụ nhu cầu ghi chép, sáng tác văn học và nghiễm nhiên trở thành chữ viết
của dân tộc, được mọi tầng lớp xã hội chấp nhận và góp phần xây đắp. Sự ra đời
của nó đã đáp ứng được phần nào nhu cầu biểu hiện, tự biểu hiện và giao tiếp
ngày càng phức tạp trong đời sống tinh thần và văn hóa của người Việt mà chữ
Hán và văn chương cử tử không đáp ứng được. Chữ Nôm ra đời kéo theo đó là
những thể loại văn học sáng tác bằng chữ Nôm mà thơ Nôm Đường luật là thành
tựu tiêu biểu nhất.
Bên cạnh sự ra đời hệ thống văn tự viết bằng chữ Nôm, thơ Nôm Đường
luật còn phát triển bởi nó có sự gần gũi với tiếng Hán ở một số phương diện.
Theo nhà nghiên cứu văn học Lã Nhâm Thìn trong bài viết Thơ Nôm Đường luật
in trong cuốn Văn học Việt Nam thế kỉ X – XIX, những vấn đề lí luận và lịch sử,
Tiếng Việt và tiếng Hán có sự gần gũi tương đồng ở ba phương diện cơ bản nhất:
không biến hình, tính âm tiết, tính chất tuyến tính, thêm vào đó lại có sự gần gũi
về thanh điệu. Sự tương đồng này có thể nói rất quan trọng và cần thiết cho sự ra
17
đời của thơ Nôm Đường luật bởi thơ Đường vốn có kết cấu rất chặt chẽ, có tính
ổn định khá cao về cả thanh, vần, câu, từ.
Trong lịch sử xã hội phong kiến Trung Quốc, đời Đường có một vị trí khá
đặc biệt. Thời đó, các ngành nghệ thuật đều phát triển (hội họa, âm nhạc, kiến
trúc, điêu khắc…) trong đó phát triển nhất là hội họa và văn học. Trong văn học
thì thơ là bộ phận có nhiều thành tựu hơn cả. Có thể nói thơ Đường là một trong
những đỉnh cao của thơ Trung Quốc và thơ ca nhân loại. Về mặt thể loại, thơ
Đường là một thể thơ độc đáo và sâu sắc, nội dung cực kì phong phú được thể
hiện bằng hình thức hoàn mĩ. Thành tựu trên các phương diện của thơ Đường
đều đạt đến đỉnh cao. Lựa chọn thơ Đường luật làm đối tượng tiếp nhận để sáng
tạo nên thơ Nôm Đường luật – một trong những thành tựu được xem là xuất sắc
nhất của nền văn học dân tộc là sự vay mượn hoàn toàn đúng quy luật. Bên cạnh
đó, chế độ khoa cử cũng góp phần không nhỏ vào sự phát triển của thể loại này
bởi thông qua việc học và thi cử, ngày càng có nhiều người sáng tác được thơ
Đường luật. Về vấn đề này, các nhà nghiên cứu văn học Nam Trân và Trương
Chính cùng có những nhận xét khẳng định tác dụng của chế độ khoa cử: “Truyền
thống sáng tác thơ Đường ở Việt Nam đã có từ nghìn năm nay. Qua các triều đại,
chế độ khoa cử đã thúc đẩy sáng tác thơ ca bằng chữ Hán, một môn quan trọng
trong chương trình thi”2, “có thể nói thơ luật Đường là hình thức chủ yếu của thơ
chữ Hán cha ông ta làm. Rất dễ hiểu: đó là chế độ khoa cử”3. Việc đưa thơ
Đường luật vào thi cử là điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của thơ chữ Hán và
sau đó là sự ra đời của thơ Nôm Đường luật.
Như vậy với các điều kiện văn học như trên, thơ Nôm Đường luật có cơ
sở để hình thành và phát triển, đáp ứng những nhu cầu bức thiết của nền văn học
dân tộc.
2
Thơ Đường, Tập 1, NXB Văn học, Hà Nội, 1987, tr16. Dẫn theo Lã Nhâm Thìn [80, 656]
3
Trương Chính, Cha ông ta đã vận dụng các thể loại văn học Trung Quốc như thế nào vào thơ Nôm, Tạp chí
Văn học, Số 2, 1973. Dẫn theo Lã Nhâm Thìn [80, 656]
18
1.2.2. Tiền đề văn hóa tư tưởng
Sự hình thành và phát triển của một nền văn học, một dòng văn học hay
đơn thuần là một tác phẩm văn học bao giờ cũng gắn liến với những tiền đề văn
hóa – tư tưởng nhất định. Thơ Nôm Đường luật ra đời cũng không nằm ngoài
quy luật phổ quát ấy.
Một đặc điểm đáng lưu ý của thơ Đường luật là sự gắn bó khăng khít của
nó đối với tư tưởng. Sự gắn bó này thể hiện ở nội dung và hình thức, trong tổng
thể cũng như ở từng chi tiết. Đặc điểm chung nhất của tư duy nghệ thuật thơ
Đường là tư duy quan hệ. Điều này có nguồn gốc sâu xa là sự phát triển đến độ
chín muồi của tư duy Trung Quốc ở thời đại hoàng kim của xã hội phong kiến
(nhà Đường). Ở đó có sự hội nhập của ba dòng tư tưởng, ba kiểu tư duy tiêu biểu
của phương Đông là Nho, Phật, Lão. Sự hội nhập này là một quá trình biện
chứng, nó dung hội ưu điểm của ba dòng tư tưởng: tính thực tiễn và duy lý của
Nho gia, tính chất huyền diệu, vô vi của Đạo gia, tính chất từ bi và siêu thế của
Phật giáo. Đồng thời nó cũng ước chế lẫn nhau, không có một kiểu tư duy nào
độc chiếm ưu thế khiến cho tư duy Trung Quốc thời kì này đã đạt đến sự quân
bình. Nó hướng tới cái cao siêu nhưng không hề viển vông, nó hợp lý và thực
tiễn nhưng không dung tục tầm thường. Nó đã tìm được sự hài hòa trong những
quan hệ thống nhất, tương giao để đạt đến sự hòa diệu.
Công thức thơ Đường luật, như nhiều nhà nghiên cứu đã chỉ ra, là
sự thể hiện mô hình vũ trụ, theo quan niệm của người Trung Quốc thời trung đại.
Mô hình này tạo nên bởi những mối quan hệ. Bao trùm là mối quan hệ thống
nhất giữa các mặt đối lập, giữa sự vĩnh hằng và sự thay đổi. “Sở dĩ thơ Đường
trở thành phong cách là vì nó phát hiện ra sự thống nhất giữa con người với vũ
trụ và khẳng định tính bất biến của những quy luật của vũ trụ đối lập lại mọi sự
thay đổi nhất thời ở con người”4. “Mỗi thể thơ có một nội dung riêng của chính
nó không lặp lại ở các thể thơ khác. Ví dụ nội dung của thơ bát cú Đường luật là
gì? Nó là ở chỗ khẳng định một sự bất biến mà con người phát hiện ra…Nó xây
4
Dẫn theo Lã Nhâm Thìn [80, 659]
19
dựng nội dung này bằng cách đặt bốn câu thành hai cặp cân đối cực kì nghiêm
túc bị bao quanh bởi trên hai câu, dưới hai câu và các câu niêm với nhau thành
một khối rắn chắc. Tất cả các cách tổ chức này không thể là ngẫu nhiên”5.
Trên thực tế, Việt Nam và Trung Quốc có nhiều điểm tương đồng về tư
tưởng văn hóa. Nước Việt đã từng chịu nghìn năm Bắc thuộc nên ảnh hưởng của
văn hóa phương Bắc ít nhiều du nhập vào nước ta. Từ thế kỉ X, khi đất nước
giành được quyền tự chủ, bên cạnh yêu cầu giữ gìn bản sắc văn hóa, người Việt
cũng chủ động trong giao lưu văn hóa với bên ngoài nhằm phát triển một nền
văn hóa – văn học phong phú, toàn diện. Những điều này khiến cho văn hóa và
tư tưởng Trung Hoa có điều kiện du nhập vào nước ta dễ dàng hơn. Tuy nhiên,
khi tiếp nhận những tư tưởng này, người Việt vẫn có ý thức cách tân và sáng tạo,
vừa mở cửa trong giao lưu văn hóa nhưng vẫn không hề bị đồng hóa.
`
1.3. Tiến trình phát triển của thơ Nôm Đƣờng luật
N.G.Tsenưshevsky từng nói rằng nếu không có lịch sử của đối tượng thì
cũng sẽ không có lý luận về nó. D.X.Likhasev cũng nhận thấy tầm quan trọng
của lịch sử thể loại, khẳng định thể loại văn học “là một phạm trù lịch sử. Nó chỉ
xuất hiện vào một giai đoạn phát triển nhất định của văn học và sau đó biến đổi
và được thay thế” [20, 204]. Từ điển thuật ngữ văn học cũng gợi ý: “Vì vậy khi
tiếp cận các thể loại văn học, cần tính đến thời đại lịch sử của văn học và những
biến đổi, thay thế của chúng” [20, 204]. Nhìn tổng quát về những biến đổi trên
những chặng đường phát triển của thơ Nôm Đường luật, chúng tôi thấy nó từng
bước được hoàn thiện cùng với nền văn chương chữ Nôm nói chung, cụ thể là
trải qua ba giai đoạn: giai đoạn hình thành (thế kỷ XIII đến Quốc âm thi tập vào
đầu thế kỷ XV), giai đoạn phát triển (từ Quốc âm thi tập đến hết thế kỷ XVIII)
và giai đoạn phát triển ở đỉnh cao (thế kỷ XIX) với sự mở đầu của thơ Hồ Xuân
Hương và kết thúc với thơ Trần Tế Xương
5
Dẫn theo Lã Nhâm Thìn [80, 659]
20
- Xem thêm -