THI TRƯỜNG TÀI CHÍNH
■
***
THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH
Tác giả: PGS.TS Lê Văn Tề
ThS. Huỳnh Hương Thảo
CỒNG TY TNHH TM-DV-QC HƯƠNG HUY
ỉ " * Busineea Books
* * •’" 1srr=s S u p e rm a rk e t
* Trụ sở chính: 490B Nguyễn Thị Minh Khai, P.2, Q.3, TP.HCM
Tel: - 08. 38337462, 3, 4, 5, 6 - Fax: 08.38337462
- 08. 38301659 - 38301660
4 Chi nhánh: 41 Đào Duy Từ, F.5, Q.10, TP.HCM (Đối diện cổng 3; IriiYờng
Đại học Kinh tế TP.HCM, Cơ sở B, 279, N guyễn Tri Phương)
Tel: 08. 38570424' -- "Fax: 08.38337466
E-mail:
[email protected]
Website: www.nhasachkinhtc.vn
Cuốn sách trên được mua bản quyền và độc quyền phát hành
Cấm các doanh nghiệp kinh doanh phô-tô, sao chép,..
Tất cả các hình thức vi phạm sẽ truy tố trước pháp luật.
PGS.TS LÊ VĂN TỀ
THS. HUỲNH HƯƠNG THẢO
***
THỊ TRƯỜNG
TÀI CHÍNH
NHÀ XUẤT BẢN GIAO THÔNG VẬN TẢI
LỜI NÓI ĐẦU
hị trường tài chính là một sản phẩm bậc cao của nền
T
kinh tế thị trường - hay nói chính xác hơn, là nền kinh tế
t:iền tệ, ở đó bên cạnh thị trường khác, thị trường tài chính hoạt
động nhu' là một sự kết nói giữa người cho vay đầu tiên và người
sử dụng cuối cùng, tạo ra vô số giao dịch, và ở mổi giao dịch,
dù động cơ nào, cùng tạo ra các dòng chảy về vốn trong một
nền kinh tế như là một sự lưu thông máu trong một cơ thể - một
nền kinh tế hoạt động lành mạnh và có hiệu quả chỉ khi nào thị
trường này cũng hoạt động có hiệu quả như thế và ngược lại.
Việc xác lập trong thực tế một thị trường tài chính hoạt động
có hiệu quả không chỉ là mong muốn mà còn là một yêu cầu
bức xúc đối với mọi quốc gia trong quá trình phát triển nền kinh
tế. Tuy nhiên đây là một thị trường chịu sự tác động và chi phối
của nhiều yếu tố khác nhau, trong đó không thể không đề cập
đến các yếu tố quan trọng khác như luật pháp, trình độ và năng
lực quản lý, trình độ và mức độ phát triển của nền kinh tế, các
chính sách kinh tế,
V ....Do
vậy rắt khó có thể có một thị trường
tài chính phát triển cao đối với một quốc gia đang ở trình độ
thấp. Điều khẳng định đó không hàm chứa quan niệm cho rằng,
cần chờ khi nào có nền kinh tế phát triển với trình độ cao mới
có thể nghĩ đến việc hình thành và phát triển thị trường tài chính
mà ngược lại, cùng với quá trình phát triển nền kinh tế phải hết
sức quan tâm đến việc hình thành và phát triển thị trường tài
chính, vì chính thị trường này hoạt động có hiệu quả co I k hả
năng thúc đẩy sự phát triển của chính nền kinh tế đó.
Xuất phát từ nhận thức đó chúng tôi thấy cần thiết tb iên
soạn quyển sách có tên “Thị trường tài chính”- một lĩnh vực : hết
sức hấp dẫn và chứa đựng nhiều kiến thức hết sức phong pphú.
Những kiến thức về thị trường tài chính có được là sản phhẩm
của nhiều người những nhà khoa học có tầm cờ ở nhiều nươớc được biên soạn lại theo một yêu cầu sử dụng cụ thể, ứng Ị với
trình độ phát triển về nhận thức của nhiều người về lĩnh vực ỉ này
trong giai đoạn hiện nay và những nãm tiếp theo. Xuất pháát từ
đó, người biên soạn không có tham vọng đề cập một cách t
anh
nghiệp phải thay th ế các thiết bị đã bị hư hỏng hay' lạc
hậu, tức đầu tư thay th ế và hai là, doanh nghiệp càn
phải mở ra quy mô hoạt động, tức đầu tư thuầm. T’ong
đầu tư, bao gồm đầu tư thuần và đầu tư thay thế, lai cán
có trước khi doanh nghiệp có thu nhập từ việc sử dtụag
nhà máy và thiết bị. Như vậy, thực tế đã xuất Ihiệm ỉự
mâu thuẫn giữa một bên là tính ngắn hạn của V'ÔJ1 itạm
thời thừa và một bên là tính dài hạn của vốn thiếu lh.it.
THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH
11
Việc xử lý mâu thuẫn này có thế tìm đến thị trường tài
chính. Nguồn đầu tư dài hạn vào thiết bị, nhà máy có
thể có từ:
- Các khoản thu nhập có được từ hoạt động sản
xuất -kinh doanh.
- Các khoản đi vay ở các định chế tài chính trung
gian, thông qua các hợp đồng tín dụng hoặc bằng cách phát
hành trái phiếu công ty dài hạn, có khả năng giao dịch trên
thị trường.
- Phát hành các cổ phiếu - tức phương pháp mở
rộng quyền sở hữu của những cổ đông mới đối vởi doanh
nghiệp.
Từ những gì đã đề cập ở trên, ta có thể kết luận
rằng, nếu không tính đến lợi nhuận không chia thì
doanh nghiệp về cơ bản là nằm trong tình trạng thâm
hụt. Nói rõ hơn là thâm hụt ngân quỹ để đáp ứng các
nhu cầu d à i hạn.
Người có thặng dư hướng vào việc cho vay ngắn hạn
trong khi đó, các doanh nghiệp lại có nhu cầu vốn dài
hạn như đã đề cập ở trên, chính là một mâu thuẫn
không dễ gì giải quyết, và người ta cho hiện tượng này
là một thể trạng yếu đuối của các thị trường tài chính
trực tiếp, không qua trung gian, tức là bằng cách nào để
khắc phục được tình trang yếu kém ấy? Liệu có thể
“tăng sức khỏe” cho nó bằng một cơ chế nào đó hay
không, ví dụ, giá cả chẳng hạn? Liệu có khả năng tồn
tại quan hệ mua bán trực tiếp giữa khu vực tư với khu
12
THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍMH
vực công hay không? Tại sao tỷ suất lợi nhuận của cáíc
chứng khoán dài hạn không tăng đến mức đủ đế kícỉh
thích cá nhân kiềm chế tiêu dùng trong hiện tại, đế c:ó
một tiêu dùng lớn hơn trong tương lai? Và tại sao lợi tuíc
của các chứng khoán ngắn hạn không thể hạ th ấ p đêm
mức khiến cho các doanh nghiệp phải nản lòng? Câu trrả
lời chuẩn xác nhất có thể là: tỷ suất lợi tức dài h ạn chiỉ
cao đến mức tạo cho các khoản đầu tư dài hạn trở nê;n
hiếm, trong khi đó, tỷ suất lợi tức ngắn hạn sẽ chỉ th ấ p
đến mức, dẫn đến tồn tại rất ít những khoản tiền t iế t
kiệm ngắn hạn. Và chính điều này làm xuất hiện nhơnig
thành viên tham gia thị trường tài chính - các định chiê
tài chính trung gian.
2.
chung
Những định ch ế trung gian tài chính nó»i
Chức năng cơ bản có tính truyền thống của các địn h
chế tài chính trung gian là thực hiện vai trò đại lý hoặc
môi giới hưởng hoa hồng thuần túy, được thực hiện vỡi
tư cách như là một tổ chức đại lý - môi giới trong quaji
hệ với người chủ nợ đầu tiên hoặc trong quan hệ vôi
người đi vay cuối cùng, về việc mua vào, bán ra một loại
chứng khoán. Đổi lại, các định chế tài chính trung gian
được nhận hoa hồng với tư cách là đại lý, thay m ặt cho
hai phía. Các định chế tài chính trung gian cũng có thể
hoạt động với tư cách tự kinh doanh bằng cách mua bán
chứng khoán để kiếm lời. Những định chê tài chính này
được biết đến với tên gọi “Môi giới — thương gia”. Tuy
nhiên vai trò phổ biến hơn cả của các định chế tài chinh
THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH
13
trung gian, và được coi là chủ yếu, vẫn là vai trò môi
giới, và thực chất hoạt động của các định chế tài chính
trung gian là hoạt động môi giới. Xét theo phương diện
này, các định chế tài chính trung gian giữ vị trí và vai
trò là khôi phục một “thể trạng yếu đuối” tiềm ẩn trong
quan hệ mua bán trục tiếp giữa các chủ thể. Các định
chê tài chính trung gian không chỉ đơn giản nhận tiền
ký thác và dùng nó để cho vay, mà chính bản thân các
định chê tài chính ấy, còn tạo ra một sản phẩm tài
chính hoàn toàn mởi, bằng cách phát hành chứng khoán
nợ1 được những người có thặng dư tài chính thích nắm
giữ, như là một loại tài sản, tức chứng khoán trung gian,
mà không phải là chứng khoán của ngân khố phát hành
đế bù đắp cho sự thiếu hụt của ngân sách. Điều đó cũng
có nghĩa là, họ phát hành các tiêu sản ngắn hạn và nắm
giữ các tích sản dài hạn.
Một trong những hoạt động chủ yếu của các định chế
tài chính trung gian là biến đổi tài sản. Các định chế tài
chính trung gian phải biến đổi các tài sản nhiều rủi ro
sang các tài sản ít rủi ro, biến dổi các tiêu sản dài hạn
thành các tích sản có tính thanh khoản cao, biến đổi các
chi phí cao thành các chi phí thấp, với tính cách là
người môi giới.
a. B iên đối rủ i ro
Các định chế tài chính trung gian có khả năng giảm
bớt rủi ro thông qua cách phân tán rủi ro. Dạng rủi ro
1Ví dụ như CD - giấy chứng nhận tiền ký thác
14
THỊ TRƯỜNG TÀI CHlÍMH
mà các định chế tài chính trung gian có khả năng Ịgitảm
bớt bằng cách phân tán nêu trên được gọi là rủ i ro d ỉă c
trưng.
Một trong những rủi ro đặc trưng là rủi ro của ngíười
vay không có khả năng thanh toán nợ gốc và lãi, Ịkhi
khoản vay đến hạn. Vì lẽ đó, các định chế tài chiính
trung gian cần phải định giá được mức độ rủi ro (CŨa
từng khoản vay. Đây là một phạm trù thuộc lĩnh vực ithu
thập thông tin và luôn đi đôi với phạm trù “các tập Hiợp
thông tin không đối xứng”. Các thông tin cần nắnn ồ
người đi vay đương nhiên là cần có nhiều hơn nhíững
thông tin về người cho vay, đặc biệt là những thông tin
về khả năng hoàn trả. Đây là một loại vấn đề khá qiuen
thuộc nhưng lại đặt trong “sự chọn lựa bất lợi”: NgỊƯỜi
cho vay gặp khó khăn để đánh giá đâu là khoản tín
dụng với chất lượng tốt và đâu là khoản tín dụng với
chất lượng không tốt. Điều này gây khó khăn cho nhíững
người vay trung thực, và luôn đặt ra đối với các doíanh
nghiệp mới thành lập, hoặc có quy mô nhỏ, do người (Cho
vay có rấ t ít thông tin về họ. Với một định chế tài chúnh
trung gian có quy mô hoạt động rộng khắp, rõ ràngí có
ưu th ế nhiều so với một chủ nợ khác, vốn là một ngílrti
cho vay riêng lẻ, cho phép nó có khả năng thu thập đỉươc
nhiều thông tin có hiệu quả. Với mức độ rủi ro về imột
khoản cho vay lớn, yếu tô rủi ro có thể chính thức Ihoa
vào giá cả tín dụng (tức lãi suất). Các định chê tài chiírh
trung gian lúc này có quyền điều tiết mọi rủi ro bỉằiLg
cách phân tán rủi ro, tức là phân chia khoản cho 'Vay
TĩtíỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH
15
nnang tính rủi ro ấy cho một sô người để cùng cho vay,
vrà đồng thời cùng sở hữu một lượng vốn đủ lớn và ngân
qiuỹ dự phòng để đề phòng rủi ro có thể xảy ra. Bằng
c.ách này, các dịnh chế tài chính trung gian có thể biến
đtổi những tích sản mang tính rủi ro cao về khoản tín
dlụng dã cung ứng, thành các tiêu sản mang tính rủi ro
th ấp , bằng các khoản dự trữ của mình.
Một ví dụ về tính rủi ro là tính bấp bênh về thu
ruhập có được từ một danh mục vốn đầu tư trong trường
hiỢp đầu tư vào cổ phiếu thường. Thu nhập sẽ tăng khi
m à công ty phát hành hoạt dộng hiệu quả, và giảm đi
hoặc thậm chí mất sạch, khi công ty phát hành bị phá
sản. Để hạn chế rủi ro loại này bằng việc đa dạng hóa
hoặc chia phần rủi ro, thông qua việc thiết kế các danh
mục vốn đầu tư cổ phiếu, sao cho có thể lợi dụng được
việc
bù trừ lẫn nhau các rủi ro thuộc •danh mục •đầu tư cổ
*
phiếu, và từ đó giảm bớt tổng rủi ro. Nhưng với một
danh mục vốn đầu tư về cổ phiếu đã được đa dạng hóa
đến mức có thể đạt được hiệu quả, thì cũng đòi hỏi phải
có một lượng tài sản tương đương đủ lớn và chi phí giao
dịch cao do phải mua đi bán lại các tài sản ấy và do vậy,
cũng khó tìm được những ai chấp nhận chi phí chuyển
dịch tài sản cao này để họ có thể hùn vốn.
Ngược lại, trong trường hợp quy mô của các định chế
tài chính trung gian đủ lớn, đến lượt mình, lại tạo thuận
lợi cho việc hùn vốn để cùng chia phần rủi ro, vì với quy
mô lớn, chi phí giao dịch sẽ giảm đi nhiều, so với định
chế tài chính trung gian có quy mô nhỏ, hoặc với một cá
16
THỊ TRƯỜNG TÀI ClflífJH
nhân, vì chi phí giao dịch tỷ lệ nghịch với khối lượng
giao dịch, và nếu là chi phí bất biến thì nó được p>hân
chia ra cho toàn bộ các giao dịch cùng chịu.
Tuy nhiên, không phải mọi rủi ro đều có t h ể né
tránh bằng cách đa dạng hóa danh mục vốn đầiu tưí, kể
cả bằng cách phân tán rủi ro hoặc chung phần gánh ichịu
rủi ro. Có những rủi ro luôn có thể phát sinh và chiỉ có
những định chế tài chính trung gian cụ thể nào đó, Ihoạt
động có hiệu quả mới có thể biến đổi được chún.g, vá dụ
như rủi ro thị trường.
b.
B iến đổi thời đ iểm đảo hạn và tạ o khả. n ă n g
thanh khoản
Chức năng quan trọng thứ hai của các định c h ế tài
chính trung gian là biến đổi thời điểm đáo hạn và khả
năng thanh khoản. Yếu tố quan trọng để cho các (định
chế tài chính trung gian có th ể thực hiện được (chức
năng này, chính là họ có khả năng nắm giữ cắc tich
sản kém lưu hoạt (vì kỳ hạn thanh toán dài) so> Tới
các tiêu sản mà họ phát hành, nhưng đồng thờii họ
vẫn duy trì được khả năng thanh toán. Hơn t h ế inía,
nếu các định chế tài chính trung gian có ý định đứng
ra đảm nhận vai trò là con nợ chính trong các Cỉm
kết bảo lãnh, bằng cách mua lại bất kỳ khoản nợ rào
mà người cho vay trước đó muôn bán, tức hànht vi irua
nợ, họ vẫn có thể tiến h ành một cách dễ dàng. Bìằig
cách th iết kế thời điểm đáo hạn thuộc tài sản có nột
cách hợp lý, các định chế tà i chính trung giam có
quyền khẳng định rằng, họ hoàn toàn có k h ả măng
THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH
17
đáp ứng bất kỳ nhu cầu chi trả nào về các khoản nợ
mù họ đang nắm giữ.
Sự th àn h công này phần lớn tùy thuộc vào quy mô
hoạt động của các định chê tài chính trung gian. Với
một quy mô nào đó, không những chỉ cho phép họ tính
được một cách khá chính xác, tỷ lệ các khoản nợ cần
phải được thanh toán trong một kỳ hạn nào đó, mà còn
có điều kiện tìm kiếm các tài sản bù dắp, bổ sung bằng
nguồn ngân quỹ mới. Ví dụ, thông qua quản lý vĩ mô
của các định chế tài chính trung gian, tạo ưu th ế đáng
kể cho họ có điều kiện tiếp thị đa phương, so với một
cá nhân riêng lẻ nào đó: Một người đi vay vô lương tâm
sẽ có ít ý định lừa gạt đôi với một định chê tài chính
trung gian có quy mô lớn, so với việc lừa gạt một cá
nhân, cho dù cả hai đôi tượng trên đều không biết
trước về ý định thức sự của kẻ lừa gạt đó. Đây không
còn là sự khác biệt về thông tin hay giá cả nữa mà là
sự khác nhau về ưu thế.
Tóm lại, việc tăng thêm khả năng thanh khoản được
tạo ra dưới khả năng biến đổi kỳ đáo hạn của các định
chế tài chính trung gian, có nghĩa là các định chế tài
chính trung gian về phần mình có thể sẵn sàng chấp
nhận mức lãi suất cho vay thấp hơn, và như thê thông
thường sẽ kích thích người đi vay.
c. B iến dổi các chi p h í g ia o dịch
Chức năng quan trọng thứ ba của các định chế tài
chính trung gian là hạ t hấp các chi phí giao dịch đã
thỏa thuận trong các lĩnh vự&Miifì<4âố^ưđiCcfètog/khộán
TRUNG TÂM THÕNG TIN ĨHỰ VIÊN
V - r .o ■ !
’
18
THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍtolH
Và một lần nữa, quy mô hoạt động nghiệp vụ của cíác
định chế tài chính trung gian, là một yếu tố cực kỳ quain
trọng trợ giúp biến khả năng ấy trở thành hiện thực. TTa
có thể đưa ra một số ví dụ:
- Tạo
người cho
thông qua
giảm được
môi trường thuận lợi và an toàn đối V(ới
vay đầu tiên và người đi vay CUỐI cùmg,
định chế tài chính trung gian và như vay
chi phí điều tra.
- Đưa ra các hình thức chứng khoán đã chuẩn hó;a,
nhờ vậy giảm được chi phí bỏ ra để thu nhận và kiểm
chứng thông tin từ vô số các sản phẩm tài chính.
- Có khả năng điều phối các hoạt động trên quy mô
lớn và chuyên môn hóa, theo từng thị trường, từ đó là m
giảm chi phí điều hành.
- Tạo những công cụ hành thu thuê có hiệu quả,
giúp hạ thấp chi phí trong việc truy thu thuế, như các
loại thuê doanh thu đánh trên vốn, thuế thu nhập ...
Những khoản chi phí được giảm bớt như thê có thế
được loại ra khỏi chi phí giao dịch hoặc tiền lãi phải trả
và như vậy, thu hẹp được khoảng cách giữa lãi suất cho
vay và lãi suất đi vay.
ở các nước phương Tây tồn tại hai kiểu định chê tài
chính trung gian, thích ứng với hai loại nghiệp vụ ngân
hàng: nghiệp vụ ngân hàng buôn bán (whole sale
banking) và nghiệp vụ ngân hàng bán lẻ (retail
banking).
THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH
19
Nghiệp vụ ngân hàng bán lẻ chủ yếu liên quan đến
khu vực tiêu dùng trong nước và với các doanh nghiệp
nhỏ, thu hút số tiền thừa tạm thời của các cá nhân,
doanh nghiệp, ngân sách địa phương trong một khu vực,
và cho vay những đối tượng ấy cũng trong cùng một khu
vực, thực hiện các dịch vụ thanh toán. Trong quá trình
hoạt động, các ngân hàng phải duy trì một tỉ lệ dự trữ
để hoàn trả các khoản tiền gởi khi tới hạn. Từ hoạt
động thực tiễn, người ta rút ra nhận xét rằng, trong một
giai đoạn cụ thể, sô tiền rút ra từ ký thác chiếm một tỉ
trọng nhỏ, và do vậy sau khi dự phòng ngân quỹ nhằm
đáp ứng nhu cầu rút tiền của khách hàng ký thác, sô còn
lại hoàn toàn có thể dùng để cho vay.
Tiêu chí để phân biệt nghiệp vụ ngân hàng bán lẻ là
nhận tiền ký thác với bất kỳ quy mô nào từ công chúng,
và dùng số tiền đó để đáp ứng nhu cầu xin vay của công
chúng. Các ngân hàng thực hiện nghiệp vụ ngân hàng
bán lẻ hoạt động với tư cách là định chế tài chính trung
gian (môi giới) là tự đi tìm kiếm lợi nhuận, chênh lệch
giữa lãi suất ký thác và cho vay.
Khác với nghiệp vụ ngân hàng bán lẻ, nghiệp vụ
ngân hàng bán buôn do các ngân hàng bán buôn
(merchant bank) tiến hành chủ yếu giao dịch với các
doanh nghiệp lớn, các nhà đầu tư chuyên nghiệp, chính
phủ và chính quyền địa phương, với số tiền nhận ký
thác từ hàng trăm ngàn trở lên và cho vay hàng tỷ USD
hoặc GBP trở lên. Và nói chung, họ không nhận ký thác
từ công chúng. Một ngân hàng bán buôn tiêu biểu nào
20
THỊ TRƯỜNG TẢI ClíÍMH
đó thường đảm nhận việc tài trợ cho công ty, quản lý ttài
sản, tài trợ xuất khẩu, tư vấn đầu tư quốc tế, làm đại lý
và môi giới tiếp thị. Ngân hàng cũng có thể h o ạt độmg
với tư cách đại lý cho một ngân hàng khác ở nưóvc ngcoài
thông qua “nghiệp vụ ngân hàng đại lý”.
Hoạt động của ngân hàng bán buôn hết sức phomg
phú, trước hết thực hiện việc đầu tư cho các công ty lớín,
bao gồm các hoạt động tư vấn, dàn xếp ký kết (các hiợp
đồng tài trợ cho chương trình đầu tư của các bạm hàmg
của công ty. Hoạt động của ngân hàng bao gồm việc c;ấp
các khoản tín dụng cho công ty, đến việc bảo lãiah phiát
hành chứng khoán, các ngân hàng bán buôn có quycền
tham gia vào việc kiểm soát công ty, thông qua việc muua
đại bộ phận cổ phiếu do công ty đó phát hành. Các ngíân
hàng bán buôn thường phân thành hai loại chi nhánih:
“chi nhánh ngân hàng thương mại” chuyên (Câp các
khoản tín dụng cho các công ty, và “chi nhánih ngân
hàng công ty” giao dịch các sản phẩm được chứng khoán
hóa. Đôi với những ngân hàng còn vốn hoạt động clhủ
yếu là thu hút từ các nhà đầu tư chuyên nghiệ p và 'do
vậy, bất kỳ sự thiếu hụt ngân quỹ nào, ngân hàng phải
dùng vốn tự có của mình để bù đắp. Các ngân híàng bán
buôn còn tham gia vào việc quản trị tài sản. Phạm vi
quản trị có thể đi từ việc quản trị dòng lưu ki m ngắn
hạn của các khách hàng là công ty, đến việc quản trị
danh mục vốn dầu tư chứng khoán cho các khách hàng
chuyên nghiệp. Trong nhiều trường hợp, còn chịu trách
nhiệm bảo quản an toàn các chứng khoán ấy. Ng;oai việc