1. Tính cấp thiết của đề tài
Phật giáo đã du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, khoảng thế kỷ thứ I
TCN, từ đó đến nay, đã phát triển và nhanh chóng hòa nhập, trở thành tôn
giáo mang đậm sắc thái văn hóa Việt. Phật giáo với vai trò là một tôn giáo
lớn ở Việt Nam, có đóng góp đối với lịch sự dân tộc, đời sống văn hóa, xã
hội của người dân Việt, cùng với đó nó còn góp phần tạo nên những công
trình kiến trúc mang đậm tính nghệ thuật.
Trước khi Phật giáo du nhập vào, nước ta đã có những tín ngưỡng
dân gian mang đặc tính bản địa. Mỗi cộng đồng dân cư, mỗi khu vực riêng
lại có những loại hình tín ngưỡng riêng, mang bản sắc riêng của mình.
Nhưng khi Phật giáo tràn vào, với các giáo lý giải thoát, tinh thần từ bi, hỷ
xả thì nó đã nhanh chóng được quần chúng người Việt tiếp nhận trong sự
hòa quyện cùng với tín ngưỡng dân gian. Biểu hiện rõ nhất là các ngôi
chùa ở những làng quê ngày càng mọc lên nhiều, cho đến ngày nay, hầu
như mỗi thôn, mỗi làng nào cũng đều có một ngôi chùa của riêng mình.
Do tính chất hỗn dung giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian, nên các ngôi
chùa hầu hết đều bị bản địa hóa, trong chùa không chỉ thờ Phật, mà còn
thờ cả Thần, Thánh, Mẫu, tổ tiên,…
Đồng bằng Bắc Bộ là cái nôi của nền văn minh lúa nước, nên việc thờ
các vị thần tự nhiên như một lẽ tất yếu của cuộc sống người dân, chính vì
vậy, khi Phật giáo du nhập vào, hòa quyện, hỗn dung cùng với tín ngưỡng
dân gian, thì các vị thần tự nhiên này cũng được Phật hóa và được thờ tụng
trong chùa. Ngoài ra, sự dung hợp này còn dẫn đến việc trong chùa thờ cả
vong linh người đã khuất, người có công với đất nước được người dân tôn
lên làm Thánh (Đức Thánh Trần), thờ Sơn Thần,… Các ngôi chùa mang
sắc thái hỗn dung này đã đánh dấu bước chuyển biến về đời sống văn hóa,
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN, ĐHQGHN
KHOA TRIẾT HỌC
-----------------------
KIỀU THỊ YẾN
SỰ DUNG HỢP PHẬT GIÁO VÀ TÍN NGƢỠNG DÂN GIAN
TẠI HAI HUYỆN THẠCH THẤT – QUỐC OAI
(Qua khảo sát chùa Thầy và chùa Tây Phƣơng)
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH TRIẾT HỌC
Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa học: QH-2016-X
NGƢỜI HƢỚNG DẪN: PGS. TS TRẦN THỊ HẠNH
HÀ NỘI, 2020
LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình học tập và hoàn thành khóa luận này, tôi xin chân
thành cảm ơn sự quan tâm, giúp đỡ của lãnh đạo và Quý thầy cô khoa Triết
học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQG Hà Nội.
Đặc biệt, tôi xin được bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc đến PGS.TS Trần Thị
Hạnh đã tận tình chỉ bảo, giúp tôi hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này một
cách tốt nhất theo khả năng của tôi.
Mặc dù có nhiều cố gắng trong quá trình thực hiện, song do nhận thức
còn hạn chế nên khóa luận còn nhiều sai sót là điều không thể tránh khỏi. Tôi
rất mong nhận được những đóng góp quý báu từ Quý thầy cô để rút ra bài học
cho những lần nghiên cứu sau này được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 24 tháng 05 năm 2020
Người thực hiện
Kiều Thị Yến
1
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nêu trong khóa luận là trung thực, có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng. Các
kết luận chưa được công bố ở bất cứ một công trình nào.
Tác giả khóa luận
Kiều Thị Yến
2
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 5
1. Tính cấp thiết của đề tài ............................................................................. 5
2. Tình hình nghiên cứu .................................................................................. 7
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu............................................................. 8
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.............................................................. 8
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu ............................................... 9
6. Đóng góp của khóa luận ............................................................................. 9
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của khóa luận .............................................. 9
8. Bố cục của khóa luận ................................................................................ 10
CHƢƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ SỰ DUNG HỢP GIỮA PHẬT
GIÁO VÀ TÍN NGƢỠNG DÂN GIAN TẠI ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ ...... 11
1.1.Sự dung hợp Phật giáo và tín ngƣỡng dân gian tại Đông bằng Bắc Bộ
qua các giai đoạn lịch sử ................................................................................. 11
1.2.Tình hình Phật giáo và tín ngƣỡng dân gian tại hai huyện Thạch Thất
– Quốc Oai........................................................................................................ 17
1.2.1. Phật Giáo tại hai huyện Thạch Thất – Quốc Oai ............................... 17
1.2.2. Tín ngƣỡng dân gian tại hai huyện Thạch Thất – Quốc Oai ............ 26
1.3.Sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngƣỡng dân gian tại Thạch Thất –
Quốc Oai........................................................................................................... 37
TIỂU KẾT CHƢƠNG 1 ................................................................................. 42
CHƢƠNG 2: BIỂU HIỆN CỦA SỰ DUNG HỢP GIỮA PHẬT GIÁO VÀ
TÍN NGƢỠNG DÂN GIAN QUA KHẢO SÁT HAI NGỒI CHÙA:
CHÙA THẦY VÀ CHÙA TÂY PHƢƠNG. ................................................. 44
2.1.
Biểu hiện qua nghi lễ của Phật giáo tại hai ngôi chùa ...................... 44
2.2.
Biểu hiện qua kiến trúc của hai ngôi chùa ......................................... 50
2.3.
Biểu hiện qua nghệ thuật bài trí tƣợng thờ trong hai ngôi chùa ..... 53
3
2.4. Một số vai trò xu hƣớng phát triển chủ yếu của sự dung hợp giữa
Phật giáo và tín ngƣỡng dân gian tại hai huyện Thạch Thất – Quốc Oai . 58
KẾT LUẬN ...................................................................................................... 63
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................... 65
PHỤ LỤC ......................................................................................................... 67
4
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Phật giáo đã du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, khoảng thế kỷ thứ I
TCN, từ đó đến nay, đã phát triển và nhanh chóng hòa nhập, trở thành tôn
giáo mang đậm sắc thái văn hóa Việt. Phật giáo với vai trò là một tôn giáo
lớn ở Việt Nam, có đóng góp đối với lịch sự dân tộc, đời sống văn hóa, xã
hội của người dân Việt, cùng với đó nó còn góp phần tạo nên những công
trình kiến trúc mang đậm tính nghệ thuật.
Trước khi Phật giáo du nhập vào, nước ta đã có những tín ngưỡng
dân gian mang đặc tính bản địa. Mỗi cộng đồng dân cư, mỗi khu vực riêng
lại có những loại hình tín ngưỡng riêng, mang bản sắc riêng của mình.
Nhưng khi Phật giáo tràn vào, với các giáo lý giải thoát, tinh thần từ bi, hỷ
xả thì nó đã nhanh chóng được quần chúng người Việt tiếp nhận trong sự
hòa quyện cùng với tín ngưỡng dân gian. Biểu hiện rõ nhất là các ngôi
chùa ở những làng quê ngày càng mọc lên nhiều, cho đến ngày nay, hầu
như mỗi thôn, mỗi làng nào cũng đều có một ngôi chùa của riêng mình.
Do tính chất hỗn dung giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian, nên các ngôi
chùa hầu hết đều bị bản địa hóa, trong chùa không chỉ thờ Phật, mà còn
thờ cả Thần, Thánh, Mẫu, tổ tiên,…
Đồng bằng Bắc Bộ là cái nôi của nền văn minh lúa nước, nên việc thờ
các vị thần tự nhiên như một lẽ tất yếu của cuộc sống người dân, chính vì
vậy, khi Phật giáo du nhập vào, hòa quyện, hỗn dung cùng với tín ngưỡng
dân gian, thì các vị thần tự nhiên này cũng được Phật hóa và được thờ tụng
trong chùa. Ngoài ra, sự dung hợp này còn dẫn đến việc trong chùa thờ cả
vong linh người đã khuất, người có công với đất nước được người dân tôn
lên làm Thánh (Đức Thánh Trần), thờ Sơn Thần,… Các ngôi chùa mang
sắc thái hỗn dung này đã đánh dấu bước chuyển biến về đời sống văn hóa,
5
tinh thần và tôn giáo của người dân Việt, đi kèm với đó là sự phát triển của
nghệ thuật kiến trúc dân gian của người Việt.
Tại những ngôi chùa này, người dân vừa đi lễ Phật, lại lễ cả Mẫu và
Thánh, đó là sự kết hợp để hình thành nên Phật giáo dân gian, không còn
các triết lý xa vời khó hiểu, mà nó được dân gian hóa, ngày càng gần gũi
với quần chúng, mang nặng tư tưởng nhập thế.
Thạch Thất – Quốc Oai là hai huyện giáp với trung tâm kinh tế, chính
trị, văn hóa Thăng Long xưa, lại nằm trên nền văn hóa xứ Đoài, chính vì
vậy khu vực này cũng được tiếp nhận Phật giáo từ rất sớm. Phật giáo khu
vực này cũng từng ngày hòa nhập với các tín ngưỡng bản địa và phát triển
theo xu hướng chung của Phật giáo Việt Nam hiện nay, đó là xu hướng
dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian. Việc phát triển theo xu
hướng này giúp Phật giáo ngày càng gắn bó với người dân trong khu vực,
đồng thời ảnh hưởng tích cực lên đời sống nhân dân, giúp nâng cao tinh
thần đoàn kết, tạo tiềm lực cho sự phát triển về mọi mặt kinh tế, văn hóa,
chính trị, xã hội của khu vực này nói riêng và cả đất nước nói chung.
Vì vậy, việc nghiên cứu sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng
dân gian tại khu vực Thạch Thất – Quốc Oai, biểu hiện qua hai ngôi chùa:
Chùa Thầy và Chùa Tây Phương sẽ giúp chúng ta hiểu rõ các nét văn hóa
được biểu hiện qua các nghi lễ, lễ hội hay các thần tích liên quan đến các
nhân vật được thờ cùng với Phật trong chùa. Đây cũng là nét độc đáo đặc
sắc riêng biệt của Phật giáo Việt Nam nói chung và khu vực Thạch Thất –
Quốc Oai nói riêng.
Chính vì lý do như vậy, tôi chọn đề tài: “Dung hợp giữa Phật giáo và
tín ngưỡng dân gian tại khu vực Thạch Thất – Quốc Oai, biểu hiện qua hai
ngôi chùa: Chùa Thầy và Chùa Tây Phương” làm công trình nghiên cứu
của mình.
6
2. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề dung hợp, hỗn dung giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian
cũng đã được nhắc tới không ít ở một số bài viết, vì từ lâu, do đặc điểm
tâm thức của người nông dân Đồng bằng Bắc Bộ, hầu như ít tôn giáo, tín
ngưỡng nào có thể tồn tại độc lập, mà thường có sự hỗn dung với nhau. Sự
dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian được đa số các nhà
nghiên cứu đồng thuận và nó cũng được nhắc nhiều trong các bài viết của
họ, tuy nhiên để đặt thành một vấn đề được nghiên cứu độc lập và cụ thể
thì lại không nhiều.
Theo như những tài liệu được biết, tôi mới chỉ thấy được công trình
nghiên cứu của Tiến sĩ tôn giáo học Thích Đồng Bổn nghiên cứu về
“Những tập tục dân gian chịu ảnh hưởng Phật giáo Đại Thừa” là nghiên
cứu tập chung đối tượng là mối quan hệ giữa Phật giáo Đại thừa và những
tập tục (tuy nhiên chủ yếu là ở các vùng Nam Bộ). Trong một số bài viết
của Trần Lâm Biền, Chu Quang Trứ, Hà Văn Tấn, Nguyễn Quốc Tuấn…
đều có nhắc đến sự dung hợp này, như: “Qua bước đi của di tích Hà Nam
Ninh”; “Về một vài yếu tố mang tính triết học của kiến trúc cổ truyền
Việt”, hay “Phật giáo với văn hóa Việt Nam và Nhật Bản qua một cách
tham chiếu” của Nguyễn Thanh Tuấn cũng đã bước đầu phân tích sự kết
hợp này, nhưng chỉ dừng lại ở những phân tích sơ lược, rời rạc.
Một số tạp chí cũng có những bài viết về mối quan hệ này như: Báo
Phật Giáo online, Đạo Phật ngày nay, Tạp chí Triết học, Tạp chí Nghiên
cứu Phật học,… Có thể kể đến những bài viết như: “Tìm hiểu về Phật giáo
và tín ngưỡng dân gian”; “Đạo Phật Và Tín Ngưỡng Nhân Gian!”; “Tín
ngưỡng thờ Mẫu trong mối quan hệ với tín ngưỡng, tôn giáo khác”,…
Nhìn một cách tổng thể, nhiều công trình nghiên cứu, bài viết đã chạm
đến các khía cạnh khác nhau của đề tài, song nghiên cứu về sự kết hợp
giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian biểu hiện qua những ngôi chùa còn
7
khá ít và thiếu tính hệ thống. Chưa có một công trình nghiên cứu nào
nghiên cứu một cách hệ thống mối quan hệ hỗn dung giữa Phật giáo và tín
ngưỡng dân gian thể hiện qua các ngôi chùa ở khu vực Thạch Thất – Quốc
Oai, để từ đó có được những đánh giá khách quan và khoa học về vai trò,
vị trí của Phật giáo và tín ngưỡng dân gian trong đời sống văn hóa – xã hội
của người dân nơi đây. Đây cũng là mục đích chính mà khóa luận hướng
tới trong quá trình nghiên cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở trình bày một số nội dung lý luận về mối quan hệ giữa Phật
giáo và tín ngưỡng dân gian tại Đồng bằng Bắc Bộ, khóa luận tập trung
khảo sát và phân tích những biểu hiện của sự dung hợp giữa Phật giáo và
tín ngưỡng dân gian tại khu vực Thạch Thất – Quốc Oai, biểu hiện qua hai
ngôi chùa: Chùa Thầy và Chùa Tây Phương. Từ đó chỉ ra vai trò và xu
hướng phát triển của mối quan hệ này.
Nhiệm vụ nghiên cứu
- Trình bày hệ thống lý luận về sự dung hợp giữa Phật giáo và tín
ngưỡng dân gian tại Đồng bằng Bắc Bộ
- Phân tích và chỉ ra những biểu hiện của sự dung hợp giữa Phật giáo và
tín ngưỡng dân gian tại hai ngôi chùa: Chùa Thầy và chùa Tây Phương.
- Đưa ra vai trò và xu hướng phát triển của sự dung hợp giữa Phật giáo
và tín ngưỡng dân gian.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu
Sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian tại khu vực Thạch
Thất – Quốc Oai, biểu hiện qua hai ngôi chùa: Chùa Thầy và Chùa Tây
Phương.
8
Phạm vi nghiên cứu
Khóa luận nghiên cứu sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân
gian tại khu vực Thạch Thất – Quốc Oai, biểu hiện qua hai ngôi chùa:
Chùa Thầy và Chùa Tây Phương trên các lĩnh vực như: nghi lễ, kiến trúc
nghệ thuật,…
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận:
Khóa luận dựa trên những quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử về tôn giáo và tín ngưỡng.
Phương pháp nghiên cứu:
Khóa luận sử dụng một số phương pháp cơ bản của phép biện chứng
duy vật như: phân tích, tổng hợp, khái quát hóa, so sánh; và một số
phương pháp của các khoa học khác như: điều tra, điền dã, khảo sát,…
6. Đóng góp của khóa luận
- Trình bày rõ một số nội dung lý luận của mối quan hệ giữa Phật giáo và
tín ngưỡng dân gian tại Đồng bằng Bắc Bộ.
- Chỉ ra sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian tại khu vực
Thạch Thất – Quốc Oai, biểu hiện trong hai ngôi chùa: Chùa Thầy và
Chùa Tây Phương. Đưa ra một số vai trò chủ yếu và xu hướng phát
triển của mối quan hệ này đối với xã hội.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của khóa luận
Ý nghĩa lý luận
Khóa luận góp phần làm rõ hơn giá trị văn hóa và bản sắc riêng của
những ngôi chùa thông qua việc tìm hiểu sự dung hợp giữa Phật giáo và
tín ngưỡng dân gian, biểu hiện qua các lĩnh vực: nghi lễ, kiến trúc nghệ
thuật,… Kết quả của khóa luận đặt ra vấn đề mà các nhà quản lý văn hóa,
9
tôn giáo, tín ngưỡng cần quan tâm, đó là làm thế nào để bảo tồn và phát
huy những giá trị văn hóa lành mạnh của văn hóa Việt.
Ý nghĩa thực tiễn
Khóa luận có thể làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu và
học tập về tôn giáo và tín ngưỡng dân gian.
8. Bố cục của khóa luận
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, phần Nội dung
chính của khóa luận được bố cục thành 2 chương và 8 tiết.
10
CHƢƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ SỰ DUNG HỢP GIỮA PHẬT
GIÁO VÀ TÍN NGƢỠNG DÂN GIAN TẠI ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ
1.1.
Sự dung hợp Phật giáo và tín ngƣỡng dân gian tại Đông bằng Bắc
Bộ qua các giai đoạn lịch sử
Đồng bằng Bắc bộ là cái nôi văn minh lúa nước của dân tộc Việt Nam,
vì vậy nơi đây còn lưu giữ được tính chất thuần tuý của văn hoá Việt Nam.
Đồng bằng Bắc bộ cũng chính là nơi Phật giáo lần đầu tiên du nhập vào Việt
Nam. Người dân nơi đây xem Phật giáo vừa thiêng liêng vừa gần gũi với họ,
nên trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc, chùa chiền được xây dựng khắp
mọi nơi, hầu như không một làng quê nào lại không có chùa thờ Phật. Chính
vì vậy, Phật giáo ở Đồng bằng Bắc Bộ cũng có những nét riêng của mình, và
một trong số đó là sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian nơi
đây.
Phật giáo truyền vào nước ta rất sớm, từ những năm đầu Công nguyên.
Tại Luy Lâu (Thuận Thành, Bắc Ninh ngày nay) đã có một trung tâm Phật
giáo và Phật học khá phồn thịnh. Từ đó đến thế kỷ 10 chính là giai đoạn
truyền đạo của Phật giáo. Ban đầu là sự ảnh hưởng của các nhà sư Ấn Độ,
nhưng sau đó, sự ảnh hưởng của các nhà truyền giáo Trung Quốc lại tăng lên,
các phái Thiền Trung Quốc dần du nhập vào Việt Nam.
Bắt đầu từ thế kỷ 10, Việt Nam bước vào kỷ nguyên độc lập tự chủ sau
1000 năm Bắc thuộc đã tạo điều kiện cho Phật giáo phát triển. Trong thời kỳ
này, các vị vua nhà Đinh, Tiền Lê đã có chính sách nâng đỡ Phật giáo. Những
bước đệm này đã giúp cho Phật giáo phát triển đỉnh cao ở thời Lý và thời
Trần với tinh thần tùy tục, tùy duyên, hòa quang đồng trần, cư trần lạc đạo,
nhập thế hành đạo nên đã sản sinh ra những thiền sư luôn luôn hướng về cuộc
sống, hoà nhập với cuộc đời. Lúc này từ vua tôi đến quần chúng nhân dân đều
tôn sùng đạo Phật, tư tưởng Phật giáo được lấy làm hệ tư tưởng xã hội. Phật
giáo đã kết hợp với tín ngưỡng dân gian, với yếu tố thần thuật của Đạo giáo
11
pháp thuật nên mới có câu chuyện những thiền sư tiên đoán việc xã tắc như
Vạn Hạnh, dùng pháp thuật để chữa bệnh trừ tà, để giáng long phục hổ, hay
bay trên không, đi dưới nước như Nguyễn Minh Không; để trả thù cho cha,
hay để đầu thai như Từ Đạo Hạnh v.v…
Tại Đồng bằng Bắc Bộ, nhiều chùa tháp được xây dựng trong thời kỳ
này, tiêu biểu như: Chùa Một Cột, Chùa Thầy, Chùa Dạm, Chùa Lý Triều
Quốc Sư,… Sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian trong thời kỳ
này cũng được biểu hiện rất rõ qua những ngôi chùa này.
Chùa Một Cột: tọa lạc tại số 1 phố chùa Một Cột, phường Đội Cấn,
Quận Ba Đình, Hà Nội. Trước kia đây là thôn Phụ Bảo, tổng Yên Thành,
huyện Vĩnh Thuận, đến giữa thế kỷ 19, thôn Phụ Bảo đổi tên là Thanh Bảo.
Chùa được xây dựng năm 1049 sau giấc mơ của Lý Thái Tông thấy Quan Thế
Âm Bồ Tát ngồi trên tòa sen, sau đó dắt vua lên tòa. Nhưng theo tấm bia dựng
năm Cảnh trị đời thứ 3 (1665), đời vua Lê Huyền Tông do Lê Tấn Đạt ghi thì:
“năm đầu niên hiệu Hàm Thông đời Đường (860) dựng một cột đá ở giữa hồ.
Trên cột xây một tòa lầu ngọc trong đó đặt tượng Phật Quan Âm để thờ
cúng… Khi triều Lý xây dựng kinh đô ở đây, do vua Lý chưa có con, đến đây
cầu nguyện thấy linh ứng, vua sửa thêm ngôi chùa Diên Hựu ở bên phải chùa
Một Cột để mở rộng việc thờ cúng làm sáng rõ sự tôn sùng…”(14, Tr.115).
Ngay trong sự tích về ngôi chùa này đã cho thấy sự ước vọng của người dân
Đông bằng Bắc Bộ luôn cầu mong một cuộc sống không ngừng sinh sôi nảy
nở, một cuộc sống được che chở bởi Phật Bà Quan Âm. Chùa Một Cột và
Phật Bà Quan Âm giống như hình ảnh biểu trưng cho nguyên lý Mẹ, cho tín
ngưỡng phồn thực, cho ước mơi sinh sôi này nở, luôn luôn no đủ, và cả cho
tinh thần cứu khổ cứu nạn của Phật giáo.
Chùa Dạm (hay còn gọi là chùa Rặn, thuộc xã Nam Sơn, huyện Quế
Võ, tỉnh Bắc Ninh) được vua Lý Nhân Tông (1072 – 1127) cho xây dựng vào
năm Quang Hựu thứ 2(1086). Đây là một ngôi chùa điển hình thể hiện sự hỗn
12
dung giữa giáo lý Phật giáo và triết lý của tín ngưỡng dân gian của người Việt
ở Đồng bằng Bắc Bộ được xây dựng trong thời kỳ này.
“Mười lăm trăng náu
Mười sáu trăng treo
Mười bẩy phẩy giường
Mười tám đóng cửa chùa Dạm.”
Những câu thơ lưu truyền kia đã nói lên sự bề thế của chùa Dạm, có
nghĩa là sau ngày Rằm người ta sẽ đóng cửa chùa, bắt đầu từ xẩm tối đến lúc
trăng lên cao mới đóng được hết tất cả các cửa chùa. Theo thuyết phong thủy,
chùa Dạm hội tụ đủ huyết mạch linh thông, chùa đặt ở sườn núi phía Nam của
dãy Lãm Sơn, chính giữa ngọn cao nhất, núi Rùa làm tiền án, ngòi Con Tên
làm minh đường, bên tả có Thanh Long, bên hữu có Bạch Hổ chầu về. Mối
quan hệ hỗn dung giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian tại chùa Dạm không
chỉ thể hiện qua giáo lý của Phật giáo, mà còn thể hiện ước vọng sinh sôi nay
nở, mưa thuận gió hòa của cư dân lúa nước Đồng bằng Bắc Bộ.
Sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian cũng được thể hiện
rõ ngay trong nguồn gốc ra đời và thần tích của chùa Lý Triều Quốc Sư, bộc
lộ ra truyền thống “uống nước nhớ nguồn”, “tôn sư trọng đạo” của người Việt
ta. Chùa Lý Triều Quốc Sư tọa lạc tại số 50, phố Lý Triều Quốc Sư, quận
Hoàn Kiếm, Hà Nội (xưa thuộc thôn Tiên Thị, tổng Tiên Túc, huyện Thọ
Xương với tên gọi đền Lý Quốc Sư hay đền Tiên Thị). Nơi đây thờ thiền sư
Nguyễn Minh Không người đã chữa khỏi bệnh cho vua Lý Thần Tông. Ông
được phong làm Quốc sư và được triều đình phong ấp ở làng Tiên Thị (nay là
Điềm Xá), huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình. Khi ông mất, dân làng lập đền
thờ gọi là "Lý Quốc Sư Tự". Năm 1932, thiền sư Nguyễn Văn Định trụ trì đã
bài trí thêm tượng Phật nên đền được gọi là chùa Lý Triều Quốc Sư.
13
Năm 11 tuổi, ngài xuất gia tu Phật cầu đạo với Thiền sư Từ Đạo Hạnh,
được khen tài giỏi, thông minh và được ấn chứng sau sẽ trở thành “Pháp khí”
trong Thiền môn, ban pháp danh Minh Không, đời thứ 13 dòng Tỳ Ni Đa Lưu
Chi. Qua thời gian dài theo thầy học đạo, chứng ngộ chân không Bát nhã,
ngài về trụ trì chùa Giao Thủy (Nam Định). Minh Không là bậc đại sư thông
tuệ Phật pháp được giới tăng ni ngưỡng vọng, cũng như được Quốc vương
kính trọng. Tương truyền lúc còn đang học đạo, Từ Đạo Hạnh hóa hổ để dọa
ngài, ngài bèn nói: “Nếu thầy muốn vậy, sau này chắc sẽ phải chịu quả báo
như thế”. Từ Đạo Hạnh hối hận: “Xưa kia Đức Thế Tôn đạo quả viên thành
còn chịu báo kim sương, mã mạch, huống chi ta sinh thời mạt pháp đâu có thể
tránh được, đời sau sẽ làm Quốc chủ và sẽ chịu báo này, ông với ta có nhân
duyên thầy trò, lúc đó sẽ cứu ta”(14, Tr.108). Sau khi Từ Đạo Hạnh hóa, đầu
thai làm vua Lý Thần Tông, lên ngôi chưa được bao lâu, tháng 3 năm 1136,
vua bị bệnh nặng, lông lá đầy mình, gầm thét như hổ suốt ngày, các danh y tài
giỏi được triệu đến đều không chữa khỏi. Chính Đại sư Minh Không là người
chữa khỏi được cho vua. Sau khi khỏi bệnh, cảm phục tài năng, vua Lý Thần
Tông phong ngài làm Quốc Sư. Trong Quốc sử còn chép: “Tục truyển khi sư
Từ Đạo Hạnh sắp trút xác, trong khi ốm đem thuốc niệm thần chú rồi giao lại
cho học trò là Nguyễn Chí Thành, tức Minh Không, dặn rằng 20 năm sau nếu
thấy Quốc vương bị bệnh lạ thì đến chữa ngay, có lẽ là việc này”(14, Tr.110).
Ngày 1 tháng 8, niên hiệu Đại Định thứ 2, Tân Dậu (1141), sau khi phó chúc
môn đồ, Quốc sư an nhiên ngồi hóa tại chùa Giao Thủy, thọ 76 tuổi. Để ghi
nhớ công ơn, vua Lý Anh Tông và nhân dân đã lập đền thờ ngài tại đền Tiên
Thị (nguyên là Tịnh xá vua Lý Thần Tông ban cho ngài).
Thêm nữa, đó là hệ thống chùa thờ Tứ pháp tại vùng Dâu bao gồm:
chùa Dâu thờ Pháp Vân, chùa Đậu thờ Pháp Vũ, chùa Tướng thờ Pháp Lôi,
chùa Dàn thờ Pháp Điện và chùa Tổ thờ Man Nương – mẹ của Tứ Pháp. Với
sự tiếp nhận Phật giáo, những vị thần nông nghiệp như bà Dâu, bà Đậu, bà
14
Tướng, bà Dàn đã trở thành những vị Phật bà (Tứ pháp). Có thể thấy sự hình
thành và phát triển của hệ thống chùa Tứ pháp chính là sự dug hợp giữa Phật
giáo và tín ngưỡng dân gian khi trong chùa những vị thần có nguồn gốc tự
nhiên được đẩy lên trên hệ thống tượng Phật. Sự kết hợp này làm nên nét đặc
sắc của Phật giáo dân gian Đồng bằng Bắc Bộ.
Như vậy, qua một số chùa vừa kể trên cho thấy các ngôi chùa đều có
một đặc điểm chung là không chỉ thờ Phật mà còn thờ cả Thần. Sự dung hợp
giữa giáo lý Phật giáo và triết lý của tín ngưỡng dân gian người Việt ở Đồng
bằng Bắc Bộ giống như một thể hòa quyện vào nhau, từ trong những lịch sử
hình thành, thần tích, huyền thoại của mỗi ngôi chùa, đến nề nếp lối sinh hoạt
tâm linh của người dân.
Cũng trong thời kỳ này, bản lĩnh độc lập tự cường kết hợp truyền thống
chống ngoại xâm, kể cả chống về mặt tư tưởng, cùng tính uyển chuyển, linh
hoạt của cư dân lúa nước Đồng bằng Bắc Bộ nên khi Phật giáo du nhập và
phát triển tại đây, đã phục vụ cho cái đạo yêu nước yêu dân của dân tộc, phục
vụ những yêu cầu cuộc sống của dân tộc. Với tinh thần phá chấp triệt để và
khả năng dung hợp rộng mở, với tính phóng khoáng và dân chủ của mình,
Phật giáo Thiền tông đã bắt gặp tinh thần bình đ ng, dân chủ, lòng nhân ái
của người dân ở đây nên nó đã dễ dàng hòa hợp và bắt rễ nhanh chóng, đã ảnh
hưởng sâu rộng trong đời sống con người.
Khoảng từ thế kỷ 14, Phật giáo bắt đầu bước vào giai đoạn suy thoái do
nhiều nguyên nhân khác nhau: tầng lớp quý tộc nhà Trần ủng hộ Phật giáo
mạnh mẽ đang dần mất đi uy lực về chính trị và kinh tế bởi chế độ sở hữu
ruộng đất kiểu điền trang thái ấp khá phổ biến đã bắt đầu tan rã. Trong khi đó,
Nho giáo với chế độ thi cử đang dần chiếm thế thượng phong. Các quan lại
xuất thân từ Nho giáo đang dần nắm giữ các vị trí quan trọng trong bộ máy
nhà nước. Mặt khác, lúc này số lượng người xuất gia đã quá đông, lượng tăng
đồ trong các chùa rất lớn, điều này dẫn đến sự nảy sinh những vấn đề tiêu cực
15
tại cửa chùa, ảnh hưởng đến đời sống xã hội. Đến thế kỷ 15, Phật giáo càng bị
hạn chế nặng nề, chùa quán bị cấm xây thêm, mất đi vai trò đối với tầng lớp
thống trị và chỉ còn những ảnh hưởng nhất định trong dân gian. Điều này
cũng một phần thúc đẩy Phật giáo đến sự hỗn dung với tín ngưỡng dân gian
để có thể tiếp tục phát triển và lan rộng trong quần chúng nhân dân.
Sang giai đoạn từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 18, đây là thời kỳ Phật giáo dần
như “sống lại” và phát triển mạnh mẽ. Sau khi nhà Mạc soán ngôi nhà Lê,
chiến tranh xảy ra liên miên làm cho đời sống nhân dân lầm than, khốn khổ,
chính quyền suy yếu, Nho sỹ suy thoái khiến niềm tin của các nhà tri thức,
nhà chính trị vào Nho giáo ngày càng lung lay, thì lúc này, Phật giáo vốn tiềm
tàng trong giới bình dân lại có chiều hướng phất lên. Ngoài ra, cảnh chiến
tranh loạn lạc với sự thống khổ triền miên cùng những nỗi oan trái đã khiến
con người tìm đến với tư tưởng và tình cảm của đạo Phật: “trong đau khổ
cùng cực, người ta lại quay trở về với đạo Phật – một đạo lấy đức từ bi làm
gốc và kỹ thuật trị thế chỉ là thứ yếu”(12). Kết quả là trong vùng Đồng bằng
Bắc Bộ, các ngôi chùa cũ được trùng tu, mở rộng và các chùa mới được xây
dựng khá nhiều mang nhiều nét đặc trưng của Phật giáo thời kỳ này. Có
những ngôi chùa giữ được nét kiến trúc tiêu biểu của thời kỳ này cho đến tận
ngày nay.
Dưới triều Nguyễn, Phật giáo phát triển khá mạnh mẽ dưới sự quan tâm
của triều đình, tuy nhiên từ giữa thế kỷ 19, Pháp xâm lược Việt Nam và đã có
những chính sách khai thác thuộc địa đã tác động không nhỏ đến Phật giáo.
Đến những năm đầu thế kỷ 20, phòng trào Chấn hưng Phật giáo diễn ra đã tạo
điều kiện cho Phật giáo trở mình, đánh dấu bằng sự ra đời của các tổ chức
giáo hội Phật giáo. Khi đất nước bị chia cắt trong hai cuộc kháng chiến chống
Pháp và Mỹ, Phật giáo đã kết hợp cùng các tín ngưỡng dân gian, với các giá
trị tốt đẹp của mình, lan tỏa trong đời sống nhân dân, góp không ít sức người
16
sức của vào công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Điều này đã thể hiện chủ
trương hòa bình, “Phật pháp bất ly thế gian” của đạo Phật.
Phật giáo sau ngày giải phóng đất nước thì cũng được thống nhất bởi sự
ra đời của Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Với hệ thống quản lý quy mô, hiện
đại, đến nay Phật giáo đã có những bước đi lên mạnh mẽ, dần phát triển theo
xu hướng kết hợp cùng tín ngưỡng dân gian.
1.2.
Tình hình Phật giáo và tín ngƣỡng dân gian tại hai huyện Thạch
Thất – Quốc Oai
1.2.1. Phật Giáo tại hai huyện Thạch Thất – Quốc Oai
Quá trình phát triển của Phật giáo tại Thạch Thất – Quốc Oai
Thạch Thất và Quốc Oai là hai huyện nằm ở phía Tây trung tâm thành phố
Hà Nội. Đây là hai huyện có địa hình trải rộng, thuận lợi để phát triển kinh tế
nông nghiệp, công nghiệp, du lịch văn hóa và các ngành nghề thủ công. Đi
cùng với sự phát triển của Phật giáo cả nước nói chung, thì Phật giáo tại hai
huyện Thạch Thất và Quốc Oai cũng phát triển và có ảnh hưởng tích cực đến
đời sống tinh thần của quần chúng nhân dân tại đây.
Thạch Thất - Quốc Oai thuộc vùng đất xứ Đoài, cùng với các huyện khác
của xứ Đoài, những trung tâm Phật giáo nơi đây được hình thành từ thời Lý
với những ngôi chùa nổi tiếng như: chùa Tây Phương, chùa Trăm Gian, Chùa
Bối Khê, chùa Thầy. Trong đó chùa Thầy và chùa Tây Phương là hai ngôi
chùa nổi tiếng, được nhiều người biết đến, và cũng là hai ngôi chùa chiếm
một vị trí quan trọng, làm nên nét đặc trưng riêng của Phật giáo khu vực
Thạch Thất - Quốc Oai, cũng như Phật giáo xứ Đoài.
Chùa Thầy là một ngôi chùa nằm tại chân núi Sài Sơn, huyện Quốc Oai,
tỉnh Hà Tây cũ (nay thuộc Hà Nội), cách trung tâm Hà Nội khoảng 20km về
phía Tây Nam. Sài Sơn có tên Nôm là núi Thầy, nên chùa có tên gọi là chùa
Thầy. Chùa Thầy là một trong những ngôi chùa nổi tiếng nhất Hà Nội, ngôi
17
chùa gắn liền với quãng đời sau cùng và thoát xác của vị Thiền sư nổi tiếng
thế hệ thứ 12 của dòng Thiền Tì ni đa lưu chi, Thiền sư Từ Đạo Hạnh.
Chùa được xây dựng từ thời nhà Lý (có tài liệu cho rằng chùa được xây
dựng vào thời Đinh). Nơi đây từng là nơi tu hành của thiền sư Từ Đạo Hạnh,
khi ấy, núi Thầy còn được gọi là núi Phật Tích. Chùa đã qua nhiều lần trùng
tu. Ban đầu, chùa Thầy chỉ là một am nhỏ, gọi là Hương Hải am, sau đó vua
Lý Nhân Tông đã cho xây dựng lại, gồm hai cụm chùa: chùa Cao( đỉnh Sơn
Tự) ở trên núi, và chùa Dưới( gọi là chùa Cả, tên chữ là Thiên Phúc Tự). Vào
thế kỷ 17, Dĩnh Quận Công cùng hoàng tộc chăm lo việc trùng tu, xây dựng
điện Phật, điện Thánh, sau đó là nhà hậu, nhà bia, gác chuông. Xét về phong
thủy, chùa được xây trên thế đất hình con rồng. Phía trước chùa, bên trái là
ngọn Long Đẩu, lưng chùa và bên phải dựa vào núi Sài Sơn. Chùa quay mặt
về hướng Nam, trước chùa, nằm giữa Sài Sơn và Long Đẩu là một hồ nước
rộng mang tên Long Chiểu hoặc Long Trì, giữa hồ có một thủy đình nhỏ
vuông vắn, thường được dùng làm nơi múa rối nước (Từ Đạo Hạnh được cho
là ông tổ của hình thức biểu diễn dân gian này). Hai bên chùa có hai chiếc cầu
có mái, do Hoàng giáp Phùng Khắc Khoan(1528-1613) xây dựng vào năm
1602. Cầu Nhật Tiên ở bên trái, nối vào đền Tam Phủ xây trên một đảo nhỏ
giữa hồ. Bên phải là cầu Nguyệt Tiên, dẫn vào con đường lên núi.
Chùa Thầy gồm ba tòa nhà dài nằm song song với nhau. Tòa nhà ngoài
cùng gọi là nhà tiền tế hay còn gọi là chùa Hạ thờ các tượng Đức Ông, Thánh
Hiền, xung quanh để thờ các tượng Bát bộ Kim Cương. Tòa giữa là Trung
điện hay gọi là chùa Trung, thờ Phật, hai bên có hai tượng Hộ pháp và Thiên
vương. Tòa trong cùng là Thượng điện hay gọi là chùa Thượng, thờ tượng Di
Đà tam tôn, tượng Thích ca, tượng các hóa thân của vị Thiền sư Từ Đạo
Hạnh. Gian giữa Thượng điện có một bệ đá hình chữ nhật, phần trên chạm
hình những cánh hoa sen, bốn mặt chạm hình rồng và hoa lá, bốn góc có hình
thần điểu Garuda. Đây là loại bệ đá xuất hiện nhiều ở thế kỷ XIV. Ngay trước
18
bệ đá này là tượng Từ Đạo Hạnh khi đã đắc đạo, đội mũ hoa sen, tay chắp
trước ngực, khoác áo vàng, đặt trên một bệ tượng bằng đá thời Lý, có hình sư
tử đội tòa sen. Đây là di vật thời Lý duy nhất còn lại ở chùa Thầy. Bên trái là
tượng Từ Đạo Hạnh đặt trong khám. Tượng bằng gỗ, có khớp và có thể cử
động được (tuy nhiên hiện tại hệ thống khớp điện tự động đã bị tháo đi) và
được đặt trên ngai vàng, phía sau có chữ ghi năm Thiệu Phong thứ 6 đời Trần
Dụ Tông (1346). Bên phải là tượng của Lý Thần Tông, được coi là hậu thân
của Từ Đạo Hạnh.
Hai bên chùa là hành lang dài, phía sau là gác chuông và gác trống, tương
truyền do bà Chúa Chè Tuyên Phi Đặng Thị Huệ xin với Chúa Tĩnh đô vương
Trịnh Sâm xây dựng khi về thăm chùa. Qua cầu Nguyệt Tiên có con đường
bậc đá đi lên núi, tại đây có khắc bài thơ của Trịnh Căn (1682-1709) "như
viên ngọc nổi lên giữa đám sỏi đá, rạng vẻ xuân tươi khắp cả bốn mùa. Động
trên hệt như cõi thanh hư, bên vách còn in mây ráng. Ao rồng thông sang bến
siêu độ, cầu tiên Nhật Nguyệt đôi vầng. Hình tựa bình phong, sông như dải
lụa". Lên trên núi là chùa Cao, tương truyền rằng đây là nơi Thiền sư Từ Đạo
Hạnh đến tu đầu tiên. Sau chùa là hang “Thánh Hóa”, tương truyền đây là nơi
mà Thiền sư Từ Đạo Hạnh thoát xác để đầu thai thành vua Lý Thần Tông. Từ
chùa Cao đi vòng ra phía sau, đi theo lối mòn ở ven núi sẽ đến được hang Cắc
Cớ, xưa kia trai gái thường rủ nhau đến chơi ngày hội. Từ hang Cắc Cớ ngược
lên, đến đền Thượng. Cách một đoạn, đến hang Gió, ở đây gió thường xuyên
thổi mạnh qua hai cửa hang, ở chân núi phía tây có chùa Bối Am, còn gọi là
chùa Một Mái, chùa có tên như vậy vì chỉ có một mái ngói, mặt sau chùa dựa
vào vách núi. Có thể thấy, quanh núi Thầy, không phải chỉ có chùa Thầy,
thường được gọi là chùa Cả ở chân núi, mà có cả một cụm kiến trúc Phật giáo
được xây dựng trong những thời kỳ khác nhau.
Chùa Tây Phương, có tên chữ là Sùng Phúc Tự, được dựng trên một
ngọn núi tên là Tây Phương( xưa núi này có tên là Câu Lậu). Đây là một ngọn
19
- Xem thêm -