MỤC LỤC
STT
NỘI DUNG
Trang
1
1.1
1.2
1.3
1.4
2
2.1
2.2
2.3
MỞ ĐẦU
Lí do chọn đề tài
Mục đích nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu
NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm
Thực trạng của vấn đề
Các giải pháp giải quyết vấn đề
Giải pháp 1: Xác định kỹ năng phù hợp với độ tuổi trẻ 24- 36
2
2
3
3
3
3
3
4
6
6
tháng tuổi
Giải pháp 2: Giáo dục trẻ kỹ năng biết tự bảo vệ bản thân
Giải pháp 3. Giáo dục kỹ năng sống thông qua các hoạt động
Giải pháp 4: Phối hợp với cha mẹ và cộng đồng
Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
Kết luận
Kiến nghị
7
10
15
16
18
18
19
2.4
3
3.1
3.2
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài.
Giáo dục và Đào tạo luôn giữ vai trò quan trọng, là yếu tố quyết định tới sự
thành bại của một xã hội. Trong đó, giáo dục mâm non là mô ̣t bâ ̣c học đă ̣t nền
móng cho sự phát trỉn toàn diê ̣n nhân cách trẻ. Ơ trừng mâm non các cháu
không chi được chăm sóc, nuôi dương mà còn có mô ̣t hê ̣ thống giáo dục hoàn
chinh bao gồm các hoạt đô ̣ng như học tâ ̣p, vui chơi, lao đô ̣ng…ttất cả đều nhằm
hướng đến sự phát trỉn toàn diê ̣n nhân cách trẻ.
1
Trên mọi mặt của đ̀i sống đã có sự thay đổi rõ nét. Cuộc sống của con
ngừi ngày càng văn minh hơn, hiện đại hơn. Đ̉ bắt nhịp cùng cuộc sống hiện
đại đòi hỏi con ngừi cân tư duy, năng động sáng tạo và linh hoạt. Trong đó Giáo
dục kỹ năng sống là một trong những nội dung quan trọng nhất cho trẻ mâm non
và là một trong những kỹ năng nền tảng giúp trẻ mâm non hình thành và phát
trỉn toàn diện nhân cách. Chưa bao gì giáo dục kỹ năng sống cho trẻ được giáo
viên mâm non và các bậc cha mẹ quan tâm nhiều như hiện nay. Tuy nhiên vẫn
còn giáo viên mâm non và các bậc cha mẹ lúng túng về kiến thức và phương
pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ. Những năm gân đây, các trung tâm đào tạo
kỹ năng sống cho trẻ được mở ra rất nhiều, thế nhưng có phải trẻ nào cũng có
điều kiện tham gia và cứ tham gia vào các trung tâm đó là trẻ có kỹ năng sống tốt
hay không.
Giáo dục kỹ năng sống là giáo dục cách sống tích cực, xây dựng những
hành vi lành mạnh và thay đổi những hành vi, thói quen tiêu cực giúp trẻ có được
những nhận thức, kiến thức, hành vi, thái độ và kỹ năng thích hợp. Chính trừng
mâm non và gia đình là môi trừng rèn luyện tốt nhất, giáo viên mâm non và cha
mẹ là những ngừi hướng dẫn tốt nhất cho trẻ mâm non nhất là đối với trẻ nhà
trẻ.
Giáo dục kỹ năng sống là quá trình tác động sư phạm có mục đích, có kế
hoạch nhằm hình thành năng lực hành động tích cực, có liên quan với kiến thức
và thái độ, giúp trẻ có ý thức về bản thân, quan hệ xã hội, giao tiếp, thực hiện
công việc của bản thân và ứng phó có hiệu quả với các yêu câu, thách thức của
cuộc sống hàng ngày, thông qua những mối quan hệ liên quan đến nhân cách
trong điều kiện sống cụ th̉.
Qúa trình giáo dục kỹ năng sống được xác định bởi các thành tố: Đối tượng
tham gia, mục đích, nội dung, phương pháp, phương tiện, hình thức tổ chức đánh
giá.
Đối với trẻ mâm non nói chung và đối với lứa tuổi trẻ nhà trẻ 24 – 36 tháng
tuổi nói riêng khả năng tiếp thu, nhận thức của trẻ còn nhiều hạn chế, trẻ dễ nhớ
mau quên và hay hành động theo ý muốn. Vì vậy đ̉ dạy những kỹ năng sống cho
trẻ chi là những bước đâu giúp trẻ các kỹ năng như: Biết về bản thân mình, mạnh
dạn tự tin, kỹ năng giao tiếp, tự phục vụ bản thân, biết hợp tác chơi với các bạn,
kỹ năng thích nghi với môi trừng, với cuộc sống thế giới xung quanh cho trẻ thì
cô giáo chính là ngừi giữ vai trò và nhiệm vụ quan trọng cũng như bước đâu
giúp trẻ có kỹ năng, cô giáo cân nhẹ nhàng, linh hoạt, sáng tạo, lồng ghép các
hoạt động đ̉ truyền thụ các kỹ năng cho trẻ. Đ̉ cung cấp những kỹ năng sống
cho trẻ một cách có hiệu quả, tôi đã mạnh dạn lựa chọn đề tài “Một số giải pháp
giáo dục kỹ năng sống nhằm hình thành thói quen tự lập cho trẻ nhà trẻ 24-36
tháng tuổi tại lớp E1 Trường mầm non Thiệu Thành, Thiệu Hóa, Thanh
Hóa.”
1.2. Mục đích nghiên cứu:
Nhằm nâng cao chất lượng giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 24- 36 tháng
tuổi.
Nhằm giúp các bậc phụ huynh có thêm những kiến thức cơ bản về giáo dục
kỹ năng sống cho trẻ.
2
Giúp trẻ có những kỹ năng ban đâu về cuộc sống, hình thành những kinh
nghiệm sống, sao cho phù hợp với cuộc sống đang biến đổi không ngừng, tôi
nhận thấy trẻ lớp tôi rất thích thú khi trẻ được học về những kỹ năng sống cơ bản
qua các hoạt động học, gì ăn, hoạt động trò chơi và các kỹ năng tự phục vụ của
trẻ. Việc tìm ra các giải pháp phù hợp giúp cho trẻ tiếp thu tốt hơn, trẻ có nề nếp
hơn và mạnh dạn, tự tin khi tham gia các hoạt động và kỹ năng thực hiện tự phục
vụ góp phân vào sự phát trỉn và hoàn thiện nhân cách con ngừi của trẻ. Nhằm
tuyên truyền đến phụ huynh, cộng đồng xã hội cùng chung tay thực hiện giáo dục
kỹ năng sống cho trẻ, đây cũng là việc làm đ̉ tôi thực hiện tốt nhiệm vụ chăm sóc
giáo dục kỹ năng sống cho trẻ theo yêu câu của giáo dục.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
Một số giải pháp giáo dục kỹ năng sốngnhằm hình thành thói quen tự lập
cho trẻ nhà trẻ 24 – 36 tháng tuổi tại lớp E1 Trừng mâm non Thiệu Thành
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp nghiên cứu lý luận.
- Nhóm phương pháp trực quan.
- Phương pháp điều tra thực trạng.
- Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn.
- Phương pháp quan sát.
2. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lý luận:
Từ năm học 2008-2009 Bộ GD-ĐT đã phát động phong trào “Xây dựng,
trừng học thân thiện, học sinh tích cực” đó là: Xây dựng trừng, lớp xanh, sạch,
đẹp, an toàn. Dạy và học có hiệu quả, phù hợp với đặc đỉm lứa tuổi của học sinh,
giúp các em tự tin trong học tập. Rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh. Tổ chức
các hoạt động tập th̉ vui tươi, lành mạnh. Tham gia tìm hỉu, chăm sóc và phát
huy giá trị các di tích lịch sử, văn hóa, cách mạng ở địa phương. Trong năm nội
dung thực hiện có nội dung rèn luyện kỹ năng sống cho trẻ, với yêu câu tăng
cừng sự tham gia một cách hứng thú của học sinh trong các hoạt động giáo dục
với thái độ tự giác, chủ động, ý thức, sáng tạo. [1]
Thực tế nhiều trừng hiện nay dừng như chi quan niệm dạy kiến thức
chứ chưa dạy trẻ thái độ ứng xử các mối quan hệ đó là quan hệ với con ngừi,
với thiên nhiên, vì vậy rất nhiều điều trong cuộc sống mà trẻ không được học.
Trẻ chi biết ăn, ngủ, học và vui chơi, trong khi đó kỹ năng tự chủ và kỹ năng
giao tiếp không được chú ý và thực hiện còn kém. Trẻ chưa có những kiến thức,
kinh nghiệm về kỹ năng giao tiếp và kỹ năng sống phù hợp. Như vậy, có th̉
thấy hành trang vào đ̀i của trẻ còn nhiều thiếu hụt, trong đó có sự thiếu hụt về
kỹ năng sống, những kỹ năng đó sẽ giúp trẻ có hành trang tự tin, làm chủ cuộc
sống. Vậy đ̉ trẻ có những kỹ năng sống tốt, phù hợp với cuộc sống bên ngoài,
thế giới xung quanh. Ngay từ lứa tuổi mâm non trẻ cân được các cô giáo cung
cấp cho trẻ những kỹ năng sống, những kỹ năng đơn giản qua các hoạt động hàng
ngày của trẻ ở lớp.
Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mâm non là những mong đợi của nhà giáo
dục về giá trị sống và kỹ năng sống tương ứng mà trẻ có th̉ đạt được. Giáo dục
kỹ năng sống còn giúp cho giáo viên mâm non định hướng và lựa chọn được các
3
kỹ năng sống phù hợp với từng độ tuổi của trẻ với điều kiện kinh tế - văn hóa – xã
hội của mỗi địa phương. Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ nhà trẻ 24 – 36 tháng tuổi
là hướng tới hình thành những giá trị về ý thức bản thân như: An toàn, tự lực, tự
tin, tự trọng về quan hệ xã hội như yêu thương, biết ơn, tôn trọng về giao tiếp
như hòa nhã, cởi mở, hiệu quả về thực hiện công việc như hợp tác, kiên trì, trách
nhiệm, về ứng phó với những thay đổi.
Trong th̀i đại hện nay, sự phát trỉn của kinh tế - xã hội đang đặt ra những
yêu câu ngày càng cao đối với hệ thống giáo dục, đòi hỏi nền giáo dục phải đào
tạo ra những con ngừi phát trỉn về trí tuệ, cừng tráng về th̉ lực, phong phú về
tinh thân, trong sáng về đạo đức. Trong đó, giáo dục kỹ năng sống là bộ phận
quan trọng, có tính cốt lõi, nền tảng của công tác giáo dục trẻ.
Giáo dục kỹ năng sống là quan trọng và rất cân thiết, bởi trẻ đang chập
chững bước những bước đi đâu tiên vào đ̀i, đang từng bước học làm ngừi. Nếu
các kỹ năng sớm được hình thành thì trẻ sẽ có nhân cách phát trỉn toàn diện và
bền vững. Có nhiều công trình khoa học đã chứng minh rằng giáo dục kỹ năng
sống cho trẻ từ lúc đâu đ̀i là chìa khóa thành công cho tương lai của mỗi đứa trẻ.
Với những nguyên nhân trên tôi đã đi sâu vào nghiên cứu đề tài “Một số
giải pháp giáo dục kỹ năng sốngnhằm hình thành thói quen tự lập cho trẻ nhà
trẻ 24 - 36 tháng tuổi tại lớp E1 Trường mầm non Thiệu Thành,Thiệu Hóa,
Thanh Hóa”.
2.2. Thực trạng
* Thuận lợi:
Trừng Mâm non Thiệu Thành là trừng đã được qui hoạch thành một khu
trung tâm thuận tiện cho việc phụ huynh đưa đón trẻ đến trừng.
Cơ sở vật chất trong và ngoài lớp tương đối đây đủ, thuận lợi cho việc dạy và
học. Cảnh quan nhà trừng thoáng mát, sạch đẹp, sân trừng có cây che bóng mát
có đây đủ các trang thiết bị ngoài tr̀i.
Ban giám hiệu tạo mọi điều kiện về cơ sở vật chất và kiến thức cho
giáo viên: cụ th̉ hàng tháng trừng tổ chức 2 buổi họp chuyên môn đ̉ trao đổi
về phương pháp cũng như kinh nghiệm của chị em đồng nghiệp giúp tất cả
giáo viên nắm chắc chuyên môn nghiệp vụ.
Giáo viên có trình độ đạt chuẩn 100%, giáo viên có trình độ trên chuẩn 85,7.
Giáo viên nhiệt tình, yêu nghề, mến trẻ, có kinh nghiệm trong việc chăm sóc nuôi
dạy trẻ, tâm huyết với nghề luôn quan tâm đến chất lượng giáo dục của nhà
trừng. Luôn quan tâm, giúp đơ lẫn nhau tạo điều kiện cho việc học hỏi kinh
nghiệm lẫn nhau.
Bản thân tôi đã có 14 năm trực tiếp giảng dạy, có 8 năm chủ nhiệm lớp
nhà trẻ 24 - 36 tháng tuổi nên tôi nắm rõ đặc đỉm tâm sinh lý của trẻ.
Các bậc phụ huynh quan tâm, tin tưởng gửi con và luôn phối hợp chặt chẽ
với giáo viên trong công tác chăm sóc, nuôi dương giáo dục trẻ.
Phòng học rộng rãi, thoáng mát, có diện tích đủ đ̉ trẻ hoạt động theo Điều lệ
trừng mâm non, bên cạnh đó trong phòng cũng có đủ các phương tiện nghe nhìn
giúp trẻ tiếp thu một cách tốt nhất.
Khi thực hiện đề tài dạy kỹ năng sống cho trẻ tôi nhận được sự ủng hộ, giúp
đơ của Ban giám hiệu, sự quan tâm phối hợp của phụ huynh và cộng đồng xã hội
4
cùng các chị em đồng nghiệp trong trừng, đặc biệt là sự phối hợp nhịp nhàng
của chị em cùng lớp.
* Khó khăn:
Số giáo viên theo định biên đang còn thiếu.
Nhận thức của trẻ không đồng đều, cháu thì sinh đâu năm cháu thì sinh
cuối năm nên cũng ảnh hưởng đến công tác chăm sóc giáo dục trẻ hàng ngày ở
trừng, lớp.
Trẻ từ 24 - 36 tháng tuổi, khả năng phát âm của trẻ còn kém. Kiến thức về
kỹ năng sống của trẻ còn nghèo nàn, trẻ còn quá nhỏ chưa đến trừng lớp bao gì,
khả năng tiếp thu kiến thức hạn chế, trẻ đi học không thừng xuyên ảnh hưởng rất
nhiều đến việc giáo dục kỹ năng cho trẻ.
Trẻ vùng nông thôn vốn bị ảnh hưởng cách sống của ngừi dân vùng quê
hiền lành chất phát, chưa va chạm với cuộc sống đô thị tấp nập nên trẻ ở vùng
nông thôn hay tin ngừi, chưa cảnh giác được những tình huống xấu mà xã hội
ngày nay đem lại. Ơ nhiều gia đình trẻ được nuông chiều quá mức, muốn gì được
nấy, cha mẹ phục vụ, cung phụng trẻ hết tất cả mọi việc khiến cho trẻ không có
kỹ năng cơ bản tự phục vụ bản thân.
Đa số trẻ là con gia đình nông thôn, điều kiện gia đình còn khó khăn nên
phụ huynh lo kinh tế gia đình đi làm ăn xa, chưa dành nhiều th̀i gian quan tâm
đến giáo dục kỹ năng sống cho trẻ, nên thiếu đi sự phối hợp thừng xuyên giữa
giáo viên với phụ huynh và trẻ. Nếu có thì phụ huynh chi biết phối hợp với cô
giáo chương trình học của con và chăm sóc cho con thế nào cho tốt chứ phụ
huynh chưa thực sự quan tâm đến dạy kỹ năng sống cho trẻ ngay từ bé.
Việc dạy kỹ năng sống cho trẻ nhà trẻ từ 24-36 tháng tuổi còn mới mẻ
và gặp nhiều khó khăn.
*. Kết quả khảo sát ban đầu:
Trước khi áp dụng các giải pháp của đề tài “Một số giải pháp giáo dục kỹ
năng sống nhằm hình thành thói quen tự lập cho trẻ nhà trẻ 24 - 36 tháng tuổi
tại lớp E1 Trường mầm non Thiệu Thành, Thiệu Hóa, Thanh Hóa”. Tôi tiến
hành khảo sát tình hình của trẻ như sau:
KẾT QUẢ KHẢO SÁT LẦN 1
TT
1
2
3
4
5
Nội dung khảo sát
Tổng số
học sinh
Kỹ năng tự phục vụ chăm
15
sóc bản thân
Kỹ năng giao tiếp, chào
15
hỏi
Kỹ năng tự bảo vệ bản
15
thân
Kỹ năng mạnh dạn tự tin
15
Kỹ năng hợp tác trong
15
hoạt động
Kết quả
Đạt
Tỉ lệ %
Chưa đạt
Tỉ lệ %
7
46,7
8
53,3
5
33,3
10
66,7
6
40
9
60
7
6
46,7
40
8
9
53,3
60
5
Kết quả khảo sát trẻ cho thấy kỹ năng sống của trẻ chưa có, vì vậy tôi đã mạnh
dạn đưa ra một số giải pháp sau:
2.3. Các giải pháp thực hiện
Giải pháp 1. Xác định kỹ năng phù hợp với độ tuổi trẻ 24- 36 tháng
tuổi:
Kỹ năng sống là khả năng trẻ biết làm, biết thực hiện việc gì đó một cách
tự giác, thành thạo trong mọi hoàn cảnh. Việc học kinh nghiệm sống với trẻ
chẳng bao gì là sớm, có hàng trăm kỹ năng sống cân thiết với trẻ. Tùy theo lứa
tuổi của trẻ đ̉ chọn ra nội dung chương trình dưới nhiều hình thức khác nhau.
Ngừi giáo viên phải có nhiệm vụ quan trọng đ̉ lựa chọn, xác định được các kỹ
năng cơ bản phù hợp với lứa tuổi của trẻ như:
+ Ky năng玀 sống玀 tự tin: Ngay từ khi đến lớp giáo viên nên khuyến khích
động viên trẻ giới thiệu tên của mình với các bạn trong lớp. Nghĩa là giúp trẻ cảm
nhận được mình là ai, cả về cá nhân cũng như trong mối quan hệ với những ngừi
khác. Kỹ năng này giúp trẻ luôn cảm thấy tự tin trong mọi tình huống ở mọi nơi,
mọi lúc.
+ Ky năng玀 lao động玀 tự phục vụ: Trẻ ở lứa nhà trẻ 24- 36 tháng tuổi còn rất
vụng về, khi đ̉ trẻ tự xúc ăn có th̉ bố, mẹ hoặc cô giáo thấy trẻ lúng túng thì lại
xúc cho trẻ ăn đ̉ tránh rơi vãi, hoặc là khi đến lớp bố mẹ không đ̉ cho con cất
giây dép, cởi bớt áo khoác, cất ba lô mà lại làm giúp cho con. Vì thế là giáo viên
tôi luôn dạy cho trẻ tự câm thìa xúc cơm ăn, tự mặc quân áo, ... lúc đâu có th̉
chưa quen nhưng dân dân trẻ sẽ thành thục trong việc tự phục vụ cho mình.
+ Dạy trẻ biết nói lời cảm ơn, xin lỗi: Ngay từ khi còn bé, nếu trẻ hỉu
được nên dùng những l̀i cảm ơn và xin lỗi trong hoàn cảnh phù hợp thì sẽ rất có
lợi cho việc hình thành nhân cách của trẻ sau này. Cho nên giáo viên cân phải biết
dạy trẻ sử dụng các l̀i nói đó vào những hoàn cảnh cụ th̉.
Ví dụ: Khi có ngừi lớn cho quà trẻ phải biết nhận bằng hai tay và nói l̀i
“cảm ơn”, hoặc khi không may lơ làm bạn ngã thì phải biết dùng l̀i “xin lỗi” đối
với bạn.
+ Ky năng玀 vệ sinh cá nhân: Giúp cho giáo viên dạy trẻ có th̉ tự súc miệng,
đánh răng và rửa mặt. Dạy trẻ cách rửa tay trước mỗi bữa ăn và nhận biết khi nào
thì quân áo của mình bị bẩn cân phải giặt. Đối với các bé gái, giáo viên phải biết
dạy trẻ thói quen tóc tai luôn gọn gàng, biết giúp ngừi lớn dọn dẹp, không làm
ảnh hưởng đến ngừi xung quanh
+ Ky năng玀 sống玀 hợp tác: Khi dạy trẻ kỹ năng hợp tác cân giúp trẻ hỉu có
những công việc một mình sẽ không th̉ làm được.
Ví dụ: Cùng bê một rổ bóng hay một cái ghế th̉ dục hoặc cùng bê một rổ
đồ chơi cất. Chính vì vậy phải có sự hợp tác của các thành viên trong nhóm.
+ Ky năng玀 ham hoc hoi, khả năng玀 thấu, hiểu,: Đây là một trong những kỹ
năng quan trọng nhất cân có ở trẻ vào giai đoạn này. Giáo viên cân sử dụng nhiều
tư liệu và ý tưởng khác nhau đ̉ khêu gợi tính tò mò tự nhiên của trẻ. Nhiều
nghiên cứu cho thấy rằng, các câu chuyện hoặc các hoạt động và tư liệu mang
tính chất khác lạ thừng khêu gợi trí não nhiều hơn là những thứ có th̉ đoán
trước được.
6
- Ky năng玀 lịch sự và tôn trong玀 ng玀ười khác : Khi đến nhà ngừi lạ, trước hết
bố mẹ cân làm gương chào hỏi đ̉ trẻ bắt chước. Điều này cũng giúp trẻ biết tôn
trọng ngừi khác. Hãy dạy trẻ nên nhẹ nhàng, nhỏ nhẹ, không la hét, chạy nhảy,
hoặc nghịch đồ của ngừi khác khi chưa được phép. Ngoài ra, trong gia đình hãy
phân công công việc giữa các thành viên đ̉ trẻ thấy, trẻ học và có th̉ hình thành
những thói quen tốt. Đặc biệt, bố mẹ nhớ khen thưởng và động viên trẻ đ̉ được
khích lệ mà làm tốt hơn. Hãy cho trẻ cơ hội đ̉ trẻ thực hiện những phân việc phù
hợp vừa sức trẻ. Cho trẻ làm nhiều lân và kèm theo khen thưởng, động viên, chắc
chắn trẻ sẽ luôn làm tốt những gì được giao hay được cho phép.
Ngay từ những việc đơn giản, nhỏ nhặt nhất hãy đ̉ con bạn tự làm như: Tự
rửa tay, đi dép, tự xúc ăn, lau bàn, lấy cái này, cất cái nọ, lau đĩa…t tìm nhiều việc
vừa sức đ̉ trẻ làm giúp. Trẻ làm xong phải được khen thật nhiều. Quan trọng hơn
là phải củng cố lòng tự tin cho trẻ. Ngay cả khi con làm chưa giỏi cũng phải khen.
Có vậy trẻ mới có tự tin, đ̉ lân sau làm giỏi hơn. Những việc này dù có mất th̀i
gian cũng phải đ̉ trẻ tự làm. Cô giáo, cha mẹ giành nhiều th̀i gian, chịu khó dạy
con cách làm thì bây gì có th̉ bận bịu nhưng sau này sẽ là những ngày vui.
+ Ky năng玀 g玀iao tiếp: Giáo viên cân phải dạy trẻ biết th̉ hiện bản thân và diễn đạt
ý tưởng của mình cho ngừi khác hỉu. Nếu trẻ cảm thấy thoải mái khi nói về một
ý tưởng hay chính kiến nào đó, trẻ sẽ thấy thích học và sẵn sàng tiếp nhận những
suy nghĩ mới.
Giải pháp 2: Giáo dục trẻ kỹ năng biết tự bảo vệ bản thân.
Trẻ con vốn luôn hiếu động, hiếu kỳ và muốn khám phá những điều mới lạ.
Trong cuộc sống ngày nay, khi xã hội ngày càng hiện đại, càng phát trỉn thì
những mối nguy hỉm cho trẻ con ngày càng nhiều. Những nguy hỉm có th̉ xảy
ra với trẻ tiềm ẩn không chi ở gia đình, ở trừng học, ngoài đừng mà còn ở bất
kỳ đâu trong cuộc sống này. Đa phân các bậc cha mẹ đều ý thức được điều này,
nhưng không phải bậc cha mẹ nào cũng có phương pháp dạy con những kỹ năng
bảo vệ bản thân đúng đắn. Sự lựa chọn thừng gặp của phụ huynh đó là tìm cách
nghiêm cấm con tiếp xúc với các rủi ro. Việc chi nghiêm cấm mà không giáo dục,
trau dồi các kỹ năng bảo vệ bản thân càng kích thích tính tò mò, muốn khám phá
trong trẻ và không mang lại nhiều tác dụng.
Đ̉ trẻ có th̉ tự bảo vệ bản thân mình trước những nguy hỉm cô giáo, phụ
huynh cân giúp trẻ hình thành thói quen và kỹ năng cân thiết. Ngoài ra cha mẹ
cũng cân dạy cho trẻ biết những mối nguy hỉm và kỹ năng ứng phó với nguy
hỉm mà trẻ có th̉ gặp phải trong gia đình, ở trừng học và ngoài xã hội phù hợp
với lứa tuổi của trẻ. Th̀i gian gân đây, có nhiều trẻ em bị bắt cóc, trẻ em bị lạm
dụng, xâm hại thủ phạm là do những kẻ xấu hoặc là những ngừi thân quen như:
Bạn của bố mẹ, hàng xóm quen biết...Chính vì vậy, Cô giáo và bố mẹ hãy k̉ cho
trẻ nghe những câu chuyện tế nhị về những tình huống xấu có th̉ gây hại cho trẻ
và giúp trẻ cân sử lý như thế nào. Cô giáo phối hợp cùng phụ huynh khéo léo dạy
trẻ cách giữ gìn bảo vệ các cơ quan và nhất là bốn bộ phận nhạy cảm trên cơ th̉.
Giúp trẻ chủ động cảnh giác với tình huống khi có ngừi quan tâm thái quá đến cơ
th̉ trẻ. Dạy trẻ một số cách phản kháng và bảo vệ bản thân.
Ví dụ: Cô k̉ cho trẻ nghe câu chuyện “Không đi theo ngừi lạ”
7
“Gì tan học mẹ chưa kịp đến đón bé Hà. Bỗng có một ngừi lạ mặt đến
gân bé Hà và bảo: “Chú sẽ đưa cháu về nhà nhé!”. Hà vội bảo: “Cháu không biết
chú, cháu không đi cùng chú được!”. Vừa hay lúc đó mẹ đến đón Hà, bé Hà vui vẻ
theo mẹ về nhà” [2]
Câu chuyện cô vừa k̉ nhắc bé điều gì.
- Không đi theo ngừi lạ mặt, chi ra khỏi lớp khi có bố mẹ đến đón.
- Ngừi lạ cho quà bánh không được lấy.
- Không cho ngừi khác s̀ vào bản thân mình và dạy trẻ biết cách giữ gìn
và bảo vệ các cơ quan và các bộ phận trên cơ th̉, nơi nào nhạy cảm không ai được
nhìn hay s̀ vào,…t
- Dạy trẻ một số hành động phản kháng đ̉ bảo vệ bản thân như: Có ngừi lạ
đến gân con có th̉ kêu cứu, dùng tay xô đẩy ngừi lạ ra, chạy đi.
Trước đây, với những nội dung dạy trẻ nhận biết một số nguy cơ không an
toàn và cách phòng tránh thì giáo viên thừng giáo dục trẻ với những l̀i dặn dò
nhắc nhở đơn giản thông qua nội dung các bài thơ, câu chuyện, bài hát có nội
dung giáo dục dạy trẻ. Song trên thực tế, trong chương trình có rất ít bài hát, bài
thơ, câu chuyện có nội dung đó. Vì vậy, trong năm học này, tôi nghiên cứu lựa
chọn những tình huống bất trắc thừng xảy ra đưa ra những tình huống cụ th̉ đ̉
dạy trẻ có kỹ năng ứng biến khi gặp tình huống khó khăn, biết cách suy nghĩ và
giải quyết.
Với chủ đề “Mẹ và những ngừi thân yêu của bé”. Trước đây, thông qua
câu chuyện“Chú vịt xám” chúng tôi chi dùng l̀i giáo dục trẻ: “Khi đi công viên
hoặc đến những nơi công cộng thì phải đi với bố mẹ, không được chạy lung tung
đ̉ khỏi bị lạc” chứ chưa dạy trẻ nếu chẳng may xảy ra sẽ phải xử lý như thế nào.
Với cách giáo dục như vậy tôi thấy kết quả đạt trên trẻ chưa đạt hiệu quả.
Trẻ ghi nhớ một cách thụ động, và thừng chóng quên. Và điều cốt yếu trẻ không
hỉu cốt lõi của vấn đề là tại sao không nên làm như vậy và nếu xảy ra thì phải làm
thế nào. Do đó bây gì ngoài việc giáo dục như vậy vào gì hoạt động chiều, tôi
đã đưa ra tình huống khi bé bị lạc mẹ trong siêu thị - bé sẽ làm gì ?
Tôi đã cho trẻ suy nghĩ, mỗi trẻ đưa ra một cách giải quyết của riêng trẻ.
Lắng nghe ý kiến của trẻ, cho trẻ suy nghĩ và trả l̀i theo ý kiến của mình, gợi mở
cho trẻ bằng các câu hỏi :Theo con làm như vậy có được không? Tại sao? Sau đó,
cô giúp trẻ rút ra phương án tối ưu nhất:
Khi bị lạc mẹ, bé hãy bình tĩnh, không khóc và chạy lung tung mà hãy
đứng yên tại chỗ ch̀. Vì bố, mẹ sẽ quay lại chỗ đó đ̉ tìm bé. Hoặc bé có th̉ đến
chỗ chú bảo vệ, cô bán hàng trong siêu thị ở gân chỗ đó đ̉ nh̀ gọi điện thoại,
hoặc thông báo lên loa đ̉ tìm bố mẹ. Tuyệt đối không đi theo ngừi lạ dù ngừi
đó có hứa sẽ đưa về với bố mẹ. Vì có th̉ đó sẽ là kẻ xấu lợi dụng cơ hội đó bắt
cóc hoặc làm hại bé.
Với tình hình phức tạp trong xã hội hiện nay, nhiều tình huống bất trắc có
th̉ xảy ra đối với trẻ như bị bắt cóc, xâm hại. Tôi đã đưa ra những tình huống đ̉
dạy trẻ như: Nếu có ngừi không quen biết cho bé quà bé nên làm như thế nào?
Ơ tình huống này, với lứa tuổi của trẻ trên thực tế trẻ rất thích khi được
cho quà và sẽ không biết tại sao không được nhận.
8
Khi trẻ thảo luận, tôi đưa ra những giả thiết, những tình huống xấu: Nếu đó
là kẻ xấu thì sẽ rất nguy hỉm cho bé. Tôi phân tích, giải thích cho trẻ và giúp trẻ
có phương án giải quyết đó là:
Tuyệt đối không nhận quà, ăn bánh kẹo của ngừi lạ vì có th̉ bị ngừi xấu
tẩm thuốc mê và trúng mưu của kẻ xấu.
Khi gặp trừng hợp này bé nên nói: Cháu cám ơn, nhưng bố mẹ cháu
không cho nhận quà của ngừi lạ.
+ Với chủ đề nhánh “Đồ dùng trong gia đình”, ngoài việc giáo dục trẻ nhận
biết và tránh những đồ dùng nguy hỉm như bàn là, phích nước, bếp đang
đun. Tôi đưa tình huống trẻ biết tránh những mối nguy hỉm khác như: Nếu con
đang ở nhà một mình, có ngừi đến gọi mở cửa con sẽ làm gì?
Tôi cho trẻ nói suy nghĩ, cách giải quyết của mình. Trong khi thảo luận với
trẻ tôi gợi mở: cũng có trừng hợp kẻ xấu có th̉ gây hại cho bé hoặc lấy trộm đồ
của gia đình cũng chính là ngừi thu tiền điện, nước hoặc chính là ngừi quen
biết với bố mẹ bé đ̉ giúp trẻ suy đoán tìm cách giải quyết. Sau đó cô giúp trẻ rút
ra phương án tối ưu nhất trong trừng hợp này:
Trong th̀i gian gân đây, cháy nổ là hỉm hoạ luôn rình rập với tất cả mọi
nhà. Chính vì vậy, với trẻ mẫu giáo tuy trẻ còn nhỏ tuổi song tôi nghĩ rằng cũng
cân dạy cho trẻ một số kỹ năng ứng biến nếu chẳng may có điều đó xảy ra. Tôi đã
đưa tình huống: Nếu bé thấy có khói, hoặc cháy ở đâu đó bé sẽ phải làm thế nào?
Qua tình huống này tôi dạy trẻ: Khi thấy có khói hoặc cháy ở đâu, trước hết
bé phải chạy xa chỗ cháy, Hãy hét to đ̉ báo với ngừi nhà và những ngừi xung
quang có th̉ nghe thấy. Nếu không có ngừi ở nhà thì chạy báo cho hàng xóm.
Từ những tình huống cụ th̉ mà rất dễ xảy ra đối với trẻ, bằng cách cho trẻ
thảo luận, yêu câu trẻ suy nghĩ, vận dụng vốn hỉu biết của mình đã có đ̉ tìm cách
giải quyết vấn đề. Thông qua đó cô giúp trẻ tìm ra phương án tối ưu nhất, đó cũng
chính là kinh nghiệm mà ta cân dạy trẻ. Thông qua hoạt động đó cũng giúp trẻ có
sự tư duy lôgích, biết cách diễn đạt suy nghĩ của mình, và giúp trẻ có thêm kinh
nghiệm trong cuộc sống.
Trong cuộc sống sinh hoạt thừng ngày, có rất nhiều tình huống bất trắc trẻ
rất dễ gặp trong cuộc sống, tuy nhiên chúng ta ít khi đưa vào dạy trẻ. Với nền
kinh tế phát trỉn như hiện nay, nhiều gia đình sử dụng ô tô là phương tiện đi lại
của gia đình hàng ngày. Xong việc chấp hành luật lệ an toàn giao thông khi đi ô tô
và xe máy đối với trẻ thừng các bậc phụ huynh vẫn còn coi nhẹ chưa được thực
hiện nghiêm túc.
Giải pháp 3. Giáo dục kỹ năng sống thông qua các hoạt động:
Trong việc cung cấp các kỹ năng sống cho trẻ, giáo viên là ngừi giữ vai
trò quan trọng và là ngừi trực tiếp truyền dạy những kinh nghiệm sống cho trẻ
thì việc đâu tiên đó là cô giáo phải gương mẫu, yêu thương, tôn trọng, đối xử
công bằng với trẻ và đảm bảo an toàn cho trẻ. Đ̉ giáo dục kỹ năng sống cho trẻ
nhà trẻ cô giáo có th̉ sử dụng những hoạt động giáo dục trong trừng như: Hoạt
động vui chơi hoạt động học, hoạt động ngoài tr̀i, gì đón, trả trẻ, gì ăn.....
* Thông qua hoạt động vui chơi.
Như chúng ta đã biết trẻ mâm non, đặc biệt là trẻ nhà trẻ học mà chơi, chơi
mà học. Chơi là một trong các hoạt động học tập của trẻ và có mục đích to lớn đối
9
với sự phát trỉn toàn diện về nhân cách con ngừi. Thông qua hoạt động vui chơi
còn hình thành ở trẻ những chức năng tâm lý, những cơ sở ban đâu của nhân cách
con ngừi. Chính vì thế việc tổ chức các hoạt động vui chơi cho trẻ không chi
giúp trẻ hình thành kỹ năng mà còn đặt nền tảng khá vững chắc đ̉ phát trỉn
những kỹ năng sống. Với trẻ nhà trẻ, trẻ được học qua chơi điều đó khiến trẻ rất
thích thú, trẻ cảm thấy việc tiếp thu kiến thức sẽ nhẹ nhàng thoải mái mà không bị
gò bó vì vậy giáo viên cân tạo các tình huống chơi trong chế độ sinh hoạt
hàng ngày của trẻ. Đối với trẻ chơi trò chơi có một vai trò rất quan trọng trong
việc rèn kỹ năng sống cho trẻ. Trẻ khám phá thông qua trò chơi, các hành động
chơi đòi hỏi trẻ phải suy nghĩ, giải quyết các vấn đề, thực hành các ý tưởng.
Trong hoạt động vui chơi trẻ có th̉ tích lũy được kinh nghiệm, kỹ
năng sống đó là qua gì hoạt động vui chơi của trẻ. Trẻ được chơi ở các góc, chơi
tức là trẻ đang được nhập vai, trẻ đang được học làm (hoạt động với đồ vật)
giống như ngừi lớn, thông qua các góc chơi: Góc bé chọn vai gì, bé yêu th̉ thao,
góc nghệ thuật. Những góc chơi đều cung cấp cho trẻ những kỹ năng sống.
Ví dụ: Ơ góc bé chọn vai gì: Thông qua cách đóng vai trẻ học được các kỹ
năng: Giao tiếp, ứng xử, biết cách xưng hô, th̉ hiện tình cảm, biết quan tâm đến
mọi ngừi như bế em, ru em ngủ, xúc bột cho búp bê ăn, thay quân áo cho búp
bê.
Ví dụ: Ơ góc vận động giáo viên tổ chức chơi trò chơi lăn bóng cho bạn, ...
giúp trẻ có kỹ năng chơi và sống với nhau gắn bó đoàn kết với bạn và mọi
ngừi xung quanh.
Qua hoạt động vui chơi tôi còn dạy cho trẻ những thói quen tốt: Đó là
việc hướng dẫn trẻ làm những việc nhẹ nhàng vừa sức, lân đâu cô có th̉ hướng
dẫn trẻ làm cùng cô sau đó cho trẻ tự làm cô quan sát, kỉm tra và sửa sai cho trẻ.
Cứ như vậy tạo cho trẻ có nề nếp và thói quen lấy, cất đồ dùng, đồ chơi đúng nơi .
* Thông qua các hoạt động có chủ đích.
- Đối với hoạt động玀 làm qu,en tác phẩm văn hoc: Giáo viên cân k̉ truyện
cho trẻ nghe ở mọi lúc mọi nơi như gì hoạt động học, vui chơi ở một nhóm nhỏ,
hoặc k̉ truyện cho trẻ nghe vào buổi trưa đối với những trẻ khó ngủ. Tăng cừng
k̉ cho trẻ nghe các câu truyện cổ tích, qua đó rèn luyện đạo đức cho trẻ, dạy trẻ
yêu thương bạn bè, yêu thương con ngừi. Tạo hứng thú cho trẻ nhỏ qua các câu
truyện bằng tranh phù hợp với lứa tuổi nhất là hiện nay công nghệ thông tin đang
được phổ biến thì có th̉ sưu tâm những hình ảnh minh họa nội dung truyện đ̉
làm những hình động thì trẻ rất hứng thú, những câu truyện đó phải phù hợp với
lứa tuổi nhà trẻ đ̉ gợi mở tính tò mò, ham học hỏi ở trẻ.
Ngoài ra, tôi có th̉ k̉ cho trẻ nghe các câu chuyện về tinh thân đoàn kết
hợp tác với nhau, bé đi học không khóc nhè, bé là bé ngoan, bé vui đến trừng,
bé biết vâng l̀i, tình cảm yêu quý bạn bè, tình cảm gia đình, bé yêu lao động,
tính trung thực như: chuyện: “Đôi bạn tốt”, “Vịt con nói dối”, “M̀i bạn đến
chơi nhà”, “Con yêu mẹ lắm”
Ví dụ: Th̉ hiện tình bạn của gà con và vịt con khi rủ nhau đi chơi gặp phải
cáo và chúng đã giúp đơ nhau khi hoạn nạn. Hoặc khi tôi k̉ cho trẻ nghe câu
truyện “Vịt con nói dối” thông qua nội dung truyện trẻ biết được trong cuộc sống
10
trẻ không nên nói dối, phải thật thà từ đó giáo dục kỹ năng sống như tính trung
thực cho trẻ trong cuộc sống hàng ngày.
- Đối với hoạt động玀 tạo hình: Cô giáo có th̉ cho trẻ vẽ, nặn, xé, cắt, dán,
lắp ghép, làm đồ chơi... bằng những nguyên vật liệu đảm bảo an toàn và vệ sinh
cho trẻ, đơn giản, rẻ tiền, sẵn có trong gia đình như: Phấn, giấy báo, đất sét, hoa lá,
hột hạt, vỏ trai, sò, ốc hến, vải vụn, vỏ hộp sữa, cát tông... Đ̉ tập cho trẻ có những
kỹ năng sáng tạo, ý thức về bản thân, yêu thương th̉ hiện tình cảm với những
ngừi thân thiết.
- Đối với hoạt động玀 nhận biết: Cho trẻ là quen với thế giới đồ vật, phương
giao thông, cây cối, con vật, hiện tượng tự nhiên, th̀i tiết, nghề nghiệp, các hình,
các khối, th̀i gian, định hướng trong không gian.... Thông qua quan sát, so sánh,
phân nhóm, phân loại...tạo cho trẻ môi trừng khám phá, chấp nhận ý tưởng của
trẻ mà không chê bai, khuyến khích trẻ giải quyết vấn đề theo nhiều cách, cô giáo
cho trẻ có đủ th̀i gian tích cực sử dụng các giác quan đ̉ khám phá, l̀i nói đ̉
miêu tả sự vật, thực hiện các hoạt động đa dạng, cùng làm với trẻ khi trẻ gặp khó
khăn. Hoạt động giáo dục này tập cho trẻ các kỹ năng sống về hình dạng, kích
thước, th̀i gian, định hướng trong không gian, ham hỉu biết, ti mi, sáng tạo, mạo
hỉm, đươg đâu với khó khăn, chấp nhận thử thách, tìm kiếm sự giúp đơ, ham hỉu
biết.
- Đối với hoạt động玀 thể chất: Cô giáo cho trẻ thừng xuyên tham gia tập
luyện th̉ dục vào các buổi sáng, hoạt động có chủ đích, hoạt động vui chơi ngoài
tr̀i...
Ví dụ: Vận động : Bò chui qua cổng có mang vật trên lưng.
Đối với vận động này yêu câu trẻ không khi thực hiện phải có sự phối hợp
khéo léo đ̉ không làm vật trên lưng rơi và không chạm vào cổng. Có sự phối hợp
tay chân mắt, thông qua hoạt động th̉ dục này giúp trẻ phát trỉn các cơ bả vai, cơ
chân, cơ bụng, cơ đùi, phát trỉn sự nhanh nhẹn trong tập luyện, sự phối hợp tay
chân mắt, kỹ năng phối hợp với bạn bè, nhận ra khả năng của mình, định hướng
trong không gian.
* Thông qua hoạt động ăn trưa
Trẻ được làm quen với những đồ dùng ăn uống và phân biệt, nhận
biết những đồ dùng này qua gì nhận biết tập nói ở chủ đề “mẹ và những ngừi
thân yêu của bé”. Trẻ sẽ nhận biết tốt hơn cụ th̉ hơn nữa vì đó là qua gì ăn của
trẻ giúp trẻ nhận biết và sử dụng đúng các chức năng của các đồ dùng đó đúng
như: Thìa đ̉ xúc cơm, bát đ̉ đựng cơm và thức ăn, bát nhựa nhỏ đựng cơm rơi
vãi và đĩa nhựa đựng khăn lau tay... từ đó giúp trẻ có những hành vi ăn uống như:
Tự xúc cơm ăn, ăn từ tốn, không làm vãi cơm, nếu có vãi thì nhặt vào bát đựng
cơm rơi, vỏ sữa, bánh kẹo thì vứt vào thùng rác tất cả những yếu tố trên sẽ giúp trẻ
có thói quen tốt đ̉ hình thành kỹ năng tự phục vụ và ý nghĩa hơn là kỹ năng sống
tự lập sau này.
Qua gì ăn trẻ có th̉ học được những kỹ năng mà cô đã dạy trẻ ngay từ ban
đâu đó là: Trước gì ăn trẻ phải rửa tay, trước khi ăn trẻ biết m̀i cô và các bạn
cùng ăn cơm, tự xúc cơm ăn, biết nhặt cơm rơi vãi ở bàn khi ăn, biết cách câm thìa
thế nào cho đúng và trẻ ăn ngon miệng ăn hết xuất của mình.
11
Muốn trẻ hình thành được các thói quen vệ sinh thì cô giáo và gia đình phải
thống nhất yêu câu giáo dục vệ sinh đối với trẻ. Giáo viên thông báo yêu câu biện
pháp giáo dục vệ sinh cho phụ huynh biết, yêu câu phụ huynh cân theo dõi giúp
đơ và cho biết tình hình thực hiện ở nhà đ̉ cùng phối hợp giáo dục rèn luyện cho
trẻ. Các kỹ năng được thực hiện thừng xuyên ở lớp cũng như ở nhà, cứ như thế,
ngày này qua ngày khác, Trẻ sẽ nhanh chóng hình thành được thói quen vệ sinh và
hành vi văn minh mà không cân giáo viên phải nhắc nhở. Kỹ năng sống ấy không
những được trẻ thực hiện ở trừng mà còn thực hiện ở nhà, hay ở bất cứ đâu khi
trẻ đi đến.
* Thông qua hoạt động đón, trả trẻ.
Qua gì đón trả trẻ tôi thừng dạy trẻ một số kỹ năng tự như: Trẻ tự cất dép
đúng nơi quy định, trẻ cất ba lô đúng nơi quy định, trẻ uống nước song biết cất cốc
đúng nơi quy định,... qua đó trẻ biết tự phục vụ mà không cân nh̀ đến sự giúp đơ
của ngừi lớn.
Khi mà trẻ tự cất ba lô, trẻ biết được đó là ngăn tủ đ̉ đựng đồ dùng cá nhân
của mình hàng ngày, trên đó cô giáo có dán tên và ký hiệu đ̉ trẻ dễ nhớ và nhận
ra tủ của mình.
Ngày đâu đi học trẻ đã được cô giáo hướng dẫn cất dép ở đâu đ̉ cho
gọn gàng ngăn nắp và sau th̀i gian ngắn rèn luyện hướng dẫn trẻ đã tự giác khi
bước chân vào lớp cất dép như thế nào cho đúng quy định .
Các kỹ năng cất cốc đúng nơi quy định trẻ đã được cô giáo hướng dẫn cụ
th̉ bây gì mỗi lân uống nước song trẻ có th̉ tự cất cốc vào giá cốc mà không cân
đến sự giúp đơ của cô.
* Thông qua tổ chức hoạt động ngoài trời .
Hoạt động ngoài tr̀i là một hoạt động không th̉ thiếu trong chế độ
sinh hoạt một ngày của trẻ. Bởi thông qua hoạt động này tôi đã tạo nhiều cơ hội
cho trẻ được thực hành, trải nghiệm, tìm hỉu về thế giới xung quanh. Từ đó trẻ
được tiếp xúc, gân gũi với thiên nhiên, hít thở bâu không khí trong lành, đồng th̀i
được khám phá, thoả mãn trí tò mò của trẻ. Đối với trẻ nhà trẻ là giai đoạn phát
trỉn quan trọng trong cuộc đ̀i của bé. Ơ giai đoạn này, trẻ hình thành, phát trỉn
kỹ năng giao tiếp xã hội, phát trỉn về mặt tư duy, trí tuệ, th̉ chất và nhiều kĩ năng
khác. Nếu không được tham gia các hoạt động ngoài tr̀i, sẽ ảnh hưởng không nhỏ
đến tâm lý, tình cảm, kỹ năng giao tiếp của trẻ, có th̉ khiến trẻ mất tự tin, thiếu sự
linh hoạt, khó hòa đồng…t Vì vậy, trong các hoạt động dạy kỹ năng sống cho trẻ
không th̉ thiếu các hoạt động ngoài tr̀i. Đây là một trong những hoạt động vui
chơi mà trẻ hứng thú nhất, mang lại cho trẻ nhiều niềm vui và kiến thức cân thiết
về thế giới xung quanh trẻ.
Khi tổ chức các hoạt động có chủ đích, trẻ được tham gia vào các hoạt động
như quan sát, đi dạo giúp trẻ nhận biết, làm quen với môi trừng và cuộc sống
xung quanh trẻ…tKhi tổ chức hoạt có chủ đích tôi thừng đưa ra các câu hỏi, các
tình huống đ̉ trẻ có th̉ hỉu hơn và giải quyết tình huống tốt hơn qua đó giúp cho
trẻ có các kỹ năng giao tiếp phù hợp với lứa tuổi.
Ví dụ: Khi cho trẻ quan sát vừn rau củ trừng tôi thừng đặt ra những câu
hỏi mang tính gợi mở đ̉ cho trẻ suy nghĩ trả l̀i như:
- Đây là vừn rau gì?
12
- Nó có những đặc đỉm gì?
- Các con phải làm gì đ̉ cho vừn rau luôn đẹp?
Khi đó trẻ sẽ suy nghĩ đ̉ có trẻ trả l̀i được các câu hỏi của cô, trẻ thảo
luận về các câu trả l̀i với các bạn trong lớp sẽ giúp trẻ mạnh dạn, tự tin hơn
trong giao tiếp. Ngoài ra, trẻ sẽ dễ dàng thích nghi, hòa nhập khi đến các môi
trừng khác.
Ngoài ra khi trẻ tham gia vào hoạt động có chú đích, trẻ có thêm một
số kinh nghiệm sống, hình thành những thói quen tốt như: Biết giữ gìn vệ sinh
nơi công cộng, yêu thiên nhiên, biết chăm sóc và bảo vệ cây không ngắt lá bẻ
cành cây.
Thông qua việc tổ chức các trò chơi vận động và chơi tự do sẽ hình kỹ năng
hợp tác ở trẻ như biết chơi cùng bạn, biết nhừng nhịn, không chen lẫn xô đẩy khi
chơi. Đ̉ phát trỉn kỹ năng này được tốt ở trẻ, tôi thừng tạo ra tình huống, yêu
câu, trò chơi mà cân đến sự hợp tác của 2 nhóm bạn đ̉ trẻ cùng nhau giải quyết
vấn đề.
* Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ ở mọi lúc, mọi nơi.
Trong các kỹ năng sống chào hỏi cũng là một kỹ năng vô cùng quan trọng.
Kỹ năng này sẽ giúp trẻ có nhiều kiến thức về giao tiếp từ đó trẻ sẽ có những cách
xưng hô phù hợp qua việc trò chuyện hàng ngày cùng cô giáo, khi trò chuyện cùng
trẻ tôi thừng đưa ra các câu hỏi cho trẻ trả l̀i:
+ Con chào bạn như thế nào?
+ Con chào bố, mẹ, ông, bà ra sao?
Chính vì vậy, qua th̀i gian trẻ biết cách xưng hô với ngừi lạ mà không cân
sự nhắc nhở của ngừi lớn. Ngoài ra hình thức này sẽ cung cấp cho trẻ nhiều kỹ
năng sống cơ bản và cân thiết cho trẻ ngay khi trẻ còn nhỏ. Một hoạt động khác
cũng cung cấp cho trẻ nhiều kỹ năng sống đó là quá trình “sai vặt” trẻ. Việc sai vặt
trẻ cũng rất quan trọng giúp cho trẻ có nhiều kinh nghiệm sống như hỉu được mối
quan hệ giữa các đồ vật, hiện tượng khi thực hiện các yêu câu của ngừi lớn,
ngoài ra hình thức này cũng giúp tôi nhận ra là những trẻ nào nghe và hỉu được
yêu câu và thực hiện đúng yêu câu của mình, những cháu nào còn yếu, chưa tự tin
tôi có th̉ giúp đơ và bổ sung những khiếm khuyết đó. Quá trình sai vặt trẻ sẽ giúp
trẻ có hứng thú hơn và thích được giúp cô, trẻ quan sát cô làm từ đó những kinh
nghiệm của trẻ cũng được tích lũy. Tuy vậy việc “sai vặt” này không nên quá lạm
dụng như thấy trẻ nào làm được là chi gọi mãi một cháu đấy.
* Kết quả: Qua th̀i gian trẻ lớp tôi có rất nhiều tiến bộ rõ rệt: thông qua các
hoạt động trẻ được trải nghiệm, được khám phá, tìm tòi những điều mới lạ trẻ có
kỹ năng chào hỏi lễ phép với ngừi lớn, biết cảm ơn và xin lỗi. Có một số kỹ năng
tự phục vụ, kỹ năng vệ sinh đơn giản như trẻ biết rửa tay bằng xà phòng trước khi
ăn và sau khi đi vệ sinh, biết tự xúc cơm ăn, tự uống nước, tự cất ba lô, dép... giúp
hình thành, phát trỉn khả năng làm việc theo nhóm, tinh thân tập th̉, sự tự tin, và
một thói quen sống ngăn nắp gọn gàng, có ý thức bảo vệ môi trừng và sự tự lập
cao cho trẻ.
+ Đối với hoạt động lao động: Cô giáo có th̉ hướng dẫn cho trẻ lao động tự
phục vụ như: (Vệ sinh cá nhân, ăn, uống, đi dép, mặc quân áo, đi ngủ....); làm việc
vặt trong gia đình (Nhặt rau, nhặt rau, bóc lạc, rót nước, tìm và cất đồ vật, đồ
13
chơi....) chăm sóc con vật nuôi, chăm sóc các loại cây trồng, bảo vệ môi trừng
như: Cho mèo ăn, vải thóc cho gà vịt ăn, nhổ cỏ, tưới cây, tìm sâu, phủ rơm cho
cây, nhặt lá rụng, vỏ bánh, kẹo bỏ vào thùng rác. Đ̉ tập được các kỹ năng tự phục
vụ đó cô giáo phải tập cho trẻ sự kiên trì, có th̀i gian, có sự hợp tác, trách nhiệm
trong công việc.
+ Đối với hoạt động giao tiếp: Là hoạt động giao tiếp của trẻ với cô giáo, trẻ
với trẻ, trẻ với các thành viên trong lớp, trong gia đình, làng xóm, láng giềng, họ
hàng, cộng đồng những ngừi gân gũi xung quanh trẻ. Nội dung giao tiếp chủ yếu
là nhận thức, tình cảm hành động của con ngừi với sự vật trong thế giới xung
quanh trẻ. Hình thành giao tiếp chủ yếu với trẻ là giải thích, trò chuyện, hỏi han,
khuyên nhủ, sai bảo, an ủi, vỗ về, dỗ dành, khen ngợi, giúp đơ, khích lệ hoặc ngăn
cản hành động. Khi trẻ giao tiếp cô giáo nên cho trẻ giao tiếp với những ngừi gân
gũi, thân thuộc với trẻ và mở rộng dân đối tượng giao tiếp.giao tiếp với nội dug
lành mạnh, dễ hỉu, cởi mở chân tình, không chấn áp và nuôi chiều trẻ quá mức.
Giải pháp 4: Phối hợp với cha mẹ và cộng đồng:
Cha mẹ trẻ là những ngừi thây đâu tiên và quan trọng nhất của trẻ, có
rất nhiều lợi ích khi mà giáo viên nhận ra vai trò của cha mẹ trong việc giáo dục
trẻ. Sự tham gia của cha mẹ trẻ là vô cùng quan trọng đối với quá trình học tập của
trẻ ở trừng mâm non, vì cha mẹ trẻ là ngừi hỉu con mình nhất nên họ có th̉
cung cấp cho giáo viên những thông tin quý giá về trẻ như: Sở thích, thói quen và
tính cách…t Do đó là giáo viên chủ nhiệm lớp tôi luôn coi trọng cha mẹ trẻ như
một phân quan trọng trong hoạt động nuôi dương chăm sóc giáo dục của nhà
trừng nói chung và lớp nhà trẻ E1 nói riêng.
Hỉu rõ được vai trò của các bậc phụ huynh cũng góp phân không nhỏ trong
việc giáo dục các kỹ năng sống cho trẻ. Ngay từ đâu năm học tôi đã tuyên truyền
tới các bậc phụ huynh bằng nhiều hình thức khác nhau: Như qua bảng tuyên
truyền, qua gì đón trả trẻ, họp phụ huynh định kỳ hàng năm, chương trình phát
thanh của nhà trừng, của cộng đồng, tranh, bảng tin của nhà trừng. Đ̉ cho phụ
huynh biết về tâm quan trọng trong việc dạy kỹ năng sống cho trẻ, đặc biệt là lứa
tuổi nhà trẻ 24 - 36 tháng tuổi này. Đ̉ phụ huynh cũng như cô giáo có th̉ hỉu
hơn về hình thức cũng như phương pháp dạy trẻ kỹ năng sống cho trẻ, 2 bên cùng
có sự thống nhất các phương pháp giáo dục trẻ đạt hiệu quả nhất. Tôi còn tuyên
truyền đến các bậc phụ huynh các quan đỉm đúng và chưa đúng trong cách giáo
dục các kỹ năng sống cho trẻ, cùng nhau tìm hỉu các nguyên nhân và đưa ra các
tình huống và biện pháp sử lý. Đặc biệt những phụ huynh ít quan tâm đến con cái,
tôi tìm cách đ̉ gặp và trao đổi về thành tích học tập của cháu ở lớp và đồng th̀i
hỏi thăm về nề nếp sinh hoạt, sở thích…tcủa cháu ở nhà. Với việc làm kiên trì đó
tôi đã tác động việc học của cháu ở lớp cũng như việc rèn nề nếp ở nhà, vì tôi thấy
rằng một số trẻ có khó khăn trong việc kết bạn hoặc chia sẻ với bạn trong nhóm
lớp lại có th̉ hình thành mối liên kết thân thiết mới trong môi trừng gia đình của
trẻ. Chính vì vậy cha mẹ có th̉ giúp trẻ phát trỉn kỹ năng cảm xúc bằng cách tạo
các mối liên kết bạn bè tại gia đình, cha mẹ không nên bực bội khi trẻ đi chơi với
bạn khác và tham gia các buổi
Tuyên truyền cho phụ huynh hỉu không nên làm hộ con, phải dậy trẻ tính
tự lập từ bé. Trẻ càng được hướng dẫn sớm về cách tự vệ, nhận biết những mối
14
nguy hỉm từ xung quanh và cách xử lý thì sẽ vững vàng vượt qua những thử
thách trong mọi tình huống. Chính vì vậy, cách bảo vệ trẻ tốt nhất chính là dạy trẻ
biết cách tự bảo vệ bản thân, giúp trẻ chủ động, cảnh giác với tình huống khi có
ngừi quan tâm thái quá đến cơ th̉ của trẻ.
Cô giáo phối hợp cùng phụ huynh khéo léo dạy trẻ cách giữ gìn và bảo vệ
các cơ quan, bộ phận trên cơ th̉. Trong cuộc sống hàng ngày, nên dạy trẻ cách xử
lý những tình huống bất trắc mà trẻ có th̉ gặp phải dưới hình thức trò chuyện, tạo
tình huống, gợi mở giúp trẻ tìm ra cách giải quyết. Không áp đặt, cấm đoán trẻ.
Thay vì con không được làm thế này, thế kia thì ta nên đưa ra các tình huống cụ
th̉ thông qua thực tế giúp trẻ hỉu tại sao không được làm như thế, nếu xảy ra thì
sẽ phải làm như thế nào? Chính từ những suy nghĩ tìm cách xử lý ở các tình huống
cụ th̉ đó giúp trẻ dân có kỹ năng suy đoán, biết áp dụng những kiến thức kinh
nghiệm mình đã có đ̉ tìm cách giải quyết. Từ đó trẻ có th̉ vận dụng với những
tình huống khác trong thực tế hàng ngày mà trẻ gặp. Dân hình thành cho trẻ những
kinh nghiệm, những kỹ năng biết bảo vệ mình trong cuộc sống sau này.
Tuyên truyền đ̉ các bậc phụ huynh hỉu rằng: Giáo dục kỹ năng sống là
giúp trẻ nâng cao năng lực đ̉ tự lựa chọn giữa những giải pháp khác nhau. Quyết
định phải xuất phát từ trẻ. Nội dung giáo dục phải xuất phát từ chính nhu câu và
kinh nghiệm của trẻ. Trẻ cân có điều kiện đ̉ cọ sát các ý kiến khác nhau, trao đổi
kinh nghiệm, tập tành, thực hành và áp dụng.
- Tin tưởng vào trẻ và năng lực của trẻ.
- Tôn trọng ý kiến của trẻ, không áp đặt ý kiến của mình .
- Không nói dài và nói nhiều, không đưa l̀i giải đáp có sẵn mà hãy đưa câu
hỏi đ̉ trẻ tự tìm tòi.
- Không vội vàng phê phán đúng - sai mà kiên trì giúp trẻ biết tranh luận và
có th̉ đưa ra kết luận của mình.
Huy động các bậc cha mẹ trẻ, các tổ chức cộng đồng tham gia đóng góp về
tinh thân, công sức và cơ sở vật chất cân thiết nhằm tạo mọi điều kiện tốt nhất đ̉
giáo dục kỹ năng sống cho trẻ nhà trẻ. Những hoạt động này nhằm nâng cao nhận
thức, tích cực tham gia các hoạt động giáo dục trẻ dựa vào cộng đồng, tạo môi
trừng giáo dục lành mạnh về giáo dục kỹ năng sống cho trẻ nhà trẻ 24- 36 tháng
tuổi của các thành viên trong gia đình và cộng đồng.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Đối với trẻ:
Đ̉ trẻ có kỹ năng sống tốt cân có được sự tương tác với những ngừi gân
gũi xung quanh trẻ như: Ông bà, bố mẹ, cô giáo.... bạn cùng trăng lứa có kỹ năng
thành thạo hơn. Những thành viên này là những tấm gương cho trẻ quan sát và bắt
trước kỹ năng sống.
Giáo dục kỹ năng sống có vai trò vô cùng quan trọng đối với sự phát trỉn
toàn diện nhân cách trẻ về th̉ chất, giao tiếp, ngôn ngữ, nhận thức, tình cảm và kỹ
năng xã hội.
Sau một th̀i gian thực hiện theo sự giúp đơ của cô về mọi mặt trẻ phát trỉn
rõ rệt. So với kết quả đâu năm tỷ lệ đạt được rất tốt. Kỹ năng tự phục vụ và thói
quen trong thực hiện tự phục vụ của trẻ được tăng lên. Kết quả khảo sát đến hết
tháng 3 cho thấy như sau:
15
KẾT QUẢ KHẢO SÁT LẦN 2
TT Nội dung khảo sát
1
2
3
4
5
Kỹ năng tự phục
vụ chăm sóc bản
thân
Kỹ năng giao tiếp,
chào hỏi
Kỹ năng tự bảo vệ
bản thân
Kỹ năng mạnh
dạn tự tin
Kỹ năng hợp tác
trong hoạt động
Tổng
số
học
sinh
Kết quả khảo sát lân 1
Kết quả khảo sát lân 2
Đạt
Ti lệ
%
Đạt
15
7
46,7
8
15
5
33,3
10
15
6
40
9
15
7
46,7
8
15
6
40
9
Chưa Ti lệ
đạt
%
Ti lệ
%
Chưa
đạt
53,3 15
100
0
66,7 15
100
0
15
100
0
53,3 15
100
0
100
0
60
60
15
Ti
lệ
%
Đối với giáo viên: Sau khi lựa chọn đề tài nghiên cứu: “Một số giải pháp giáo
dục kỹ năng sốngnhằm hình thành thói quen tự lập cho trẻ nhà trẻ 24 – 36
tháng tuổi tại lớp E1 Trường mầm non Thiệu Thành, Thiệu Hóa, Thanh Hóa”
tôi đã đưa vào thực tiễn giảng dạy tại nhóm trẻ mình phụ trách tôi thấy đã có
nhiều kết quả:
Bản thân tôi được trang bị thêm kiến thức về giáo dục kỹ năng sống
trong công tác chăm sóc giáo dục trẻ.
Bản thân tôi luôn không ngừng học tập, tìm tòi, học hỏi bạn bè đồng
nghiệp, sách báo, mạng internet... đ̉ trau dồi kiến thức nâng cao chuyên môn
nghiệp vụ và trình độ nhận thức trong công tác chăm sóc giáo dục kỹ năng sống
cho trẻ. Trong quá trình tổ chức các hoạt động giáo dục trẻ, tôi thừng xuyên
thay đổi các hình thức và thủ thuật, giúp trẻ hứng thú và hạt động một cách tích
cực. Thừng xuyên bổ xung và thay đổi các hình thức trong giáo dục kỹ năng
sống cho trẻ một cách sáng tạo.
Tuyên truyền rộng rãi đến các bậc phụ huynh bằng các hội nghị, hội thi,
qua bảng tuyên truyền treo ngoài cửa lớp. Thừng xuyên trao đổi thông báo tới
các bậc phụ huynh về nội dung rèn kỹ năng tự phục vụ theo kế hoạch. Kết hợp
giữa gia đình và nhà trừng thống nhất nội dung, biện pháp giáo dục kỹ năng tự
phục vụ bản thân cho trẻ đạt kết quả cao nhất.
Phụ huynh cân trao đổi phối hợp với giáo viên trong công tác chăm sóc
nuôi dương và giáo dục trẻ đ̉ có biện pháp giáo dục mềm dẻo, phù hợp với trẻ ở
nhà.
Đối với đồng nghiệp và nhà trườg:
Chất lượng trong công tác chăm sóc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ của
lớp tăng lên rõ rệt, trang thiết bị đồ dùng đồ chơi của lớp tăng được bổ sung được
tăng lên phong phú đây đủ.
16
Nhà trừng và đồng nghiệp hưởng ứng ủng hộ cao và áp dụng được ở lớp
mình phụ trách và đã mạng lại hiệu quả tốt.
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1: Kết luận:
Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mâm non là quá trình giáo dục lâu dài, ở
mọi lúc mọi nơi và rất quan trọng vì giáo dục mâm non là cấp học đâu tiên trong
hệ thống giáo dục quốc dân, tạo những tiền đề cho việc hình thành nhân cách con
ngừi mới. Việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 24- 36 tháng tuổi thông qua mọi
hoạt động trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày ở trừng và ở gia đình trẻ.
Cô giáo và ngừi lớn luôn là tấm gương sáng mẫu mực cho trẻ noi theo,
luôn yêu thương, tôn trọng, đối xử công bằng với trẻ và đảm bảo an toàn cho trẻ.
Cô giáo trực tiếp dạy trẻ cân nắm bắt được đặc dỉm tâm sinh lí, năng lực của trẻ,
cân linh hoạt sáng tạo trong quá trình tổ chức các hoạt động rèn kỹ năng sống cho
trẻ. cân nắm vững các nội dung rèn kỹ năng sống cho trẻ.
Trẻ em như một t̀ giấy trắng, ngây thơ, trong trắng nếu như ta viết lên
đó những điều tốt thì trẻ sẽ tốt, nhưng khi ta viết lên đó những điều xấu thì tương
lai của trẻ sẽ không tốt đẹp. trẻ không những được giáo dục mà còn được học
nhiều hơn nữa về cách sống, về tình cảm của con ngừi, về những phẩm chất đạo
đức tốt đẹp và hình thành ở trẻ những thói quen, những tính cách cân có của con
ngừi thế hệ mới nhanh nhẹn, năng động. Chính vì thế mà ngừi thân, cha mẹ,
thây cô hãy luôn gân gũi với trẻ và hỉu trẻ đang cân gì, đang muốn gì, hãy tạo
cho trẻ cơ hội được học và vui chơi một cách thực sự, hãy là những thây cô,
ngừi cha, ngừi mẹ thông thái đ̉ chuẩn bị cho con mình một tương lai tươi
sáng, hãy dành những gì tốt nhất vì trẻ em góp phân không nhỏ trong việc tiếp
nối, lĩnh hội những tri thức mới là nền tảng cho sự phát trỉn của đất nước sau
này.
Với vai trò là ngừi làm công tác giáo dục, hàng ngày trực tiếp giảng dạy
trẻ tôi luôn nhận thức đúng đắn về vai trò và tâm quan trọng của công tác giáo
dục kỹ năng sống cho trẻ. Qua việc vận dụng những biện pháp mới, tôi thấy trẻ
linh động hơn, nhanh nhẹn hơn, nhân cách ý chí tình cảm của trẻ được hình
thành. Bằng sự chủ động linh hoạt vận dụng các nội dung giáo dục kỹ năng sống
vào các hoạt động khác nhau làm cho trẻ hứng thú, tập trung, giúp trẻ th̉ hiện
được sự khéo léo, óc tưởng tượng, sự giao lưu với bạn bè. Là giáo viên tôi luôn
sáng tạo hơn trong việc làm đồ dùng, đồ chơi cho trẻ, biết tìm ra các giải pháp,
biện pháp đ̉ thực hiện tốt chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ đây chính là mục tiêu
mà giáo dục hướng tới.
Trên đây là toàn bộ những hỉu biết của tôi về giáo dục kỹ năng sống cho
trẻ, rất mong được sự ủng hộ góp ý một cách chân thành của chị em đồng nghiệp,
bạn bè và của các cấp lãnh đạo đ̉ tôi hoàn thiện hơn những hỉu biết của mình.
3.2. Kiến nghị:
Đối với nhà trường:
Ban giám hiệu nhà trừng tổ chức các buổi thảo luận giáo kỹ năng sống
cho trẻ đ̉ giáo viên được trao đổi những vướng mắc trong việc dạy trẻ.
Cân tạo điều kiện cho giáo viên được đi thăm quan học tập ở các đơn vị
bạn đ̉ trao đổi, học hỏi kinh nghiệm về giáo dục kỹ năng sống cho trẻ.
17
Đối với phòng giáo dục:
Đối với Phòng giáo dục tổ chức các lớp chuyên đề về giáo kỹ năng sống
cho trẻ cho giáo viên được tham gia nâng cao chất lượng chuyên môn trong việc
dạy kỹ năng sống cho trẻ.
Cung cấp thêm các tài liệu có liên quan về việc dạy kỹ năng sống cho trẻ
như: Các loại sách, báo, băng đĩa, hình ảnh ... tạo điều kiện thuận lợi trong việc
dạy kỹ năng sống cho trẻ.
Tôi xin trân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯƠNG ĐƠN VỊ
…t…t…t…t…t…t…t…t…t…t…t…t…t…t…t...
…t…t…t…t…t…t…t…t…t…t…t…t..…t…t.
…t…t…t…t…t…t…t…t…t…t..................................
..........................................................................
...............................................................
…t…t…t…t…t…t…t
Hiệu trưởng
Thanh Hóa, ng玀ày 20 tháng玀 3 năm 2019
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không玀 sao chép nội du,ng玀 của
ng玀ười khác.
Người viết
Ngô Thị Quyên
Nguyễn Thị Hồng
Tài liệu tham khảo:
- [1]: Chi thị 40/2008/CT-BGD ĐT, ngày 22/07/2008 về việc phát động phong
trào thi đua “xây dựng trừng học thân thiện, học sinh tích cực”.
- [2]: Hướng dẫn tổ chức thực hiện chương trình giáo dục mâm non nhà trẻ (336 tháng tuổi). Theo thông tư 28/2016/TT-BGDĐT ngày 30/12/2016 sửa đổi bổ
sung một số nội dung chương trình giáo dục mâm non.
18
Giải pháp 1: Trẻ tự xúc cơm ăn
19
Giải pháp 3: Trẻ nhặt lá rụng bỏ vào thùng rác
Giải pháp 4: Trẻ lớp E1 thăm quan trạm y tế
DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG ĐÁNH
GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC CẤP
CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Ngô Thị Quyên
Chức vụ và đơn vị công tác: Trừng Mâm non Thiệu Thành
Kết quả
Cấp đánh
đánh giá
giá xếp loại
Năm học đánh
TT
Tên đề tài SKKN
xếp loại
(Phòng, Sở,
giá xếp loại
(A, B,
Tỉnh...)
hoặc C)
1.
- Một số biện pháp nâng cao
Phòng
B
2007- 2008
chất lượng bữa ăn cho trẻ
GD&ĐT
20
- Xem thêm -